Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Tội hiếp dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiến thành phố Hà Nội (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (613.07 KB, 84 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ NGỌC LINH

TỘI HIẾP DÂM THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ THỰC TIẾN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
Mã số

: 60.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN TRUNG THÀNH

HÀ NỘI, 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả được nêu trong luận văn là trung thực, chưa từng được công bố trong bất
kỳ công trình nào

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Thị Ngọc Linh



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ LẬP PHÁP HÌNH
SỰ VỀ TỘI HIẾP DÂM ................................................................................. 6
1.1. Những vấn đề lý luận về tội hiếp dâm .................................................... 6
1.2. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự quy định về tội hiếp dâm đến trước khi
ban hành BLHS năm 1999 ........................................................................... 21
Chương 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ
TỘI HIẾP DÂM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI
......................................................................................................................... 28
2.1. Quy định của pháp luật hình sự hiện hành về tội hiếp dâm.................. 28
2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự hiện hành về tội
hiếp dâm tại thành phố Hà Nội. ................................................................... 38
Chương 3. CÁC ĐIỀU KIỆN VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO HOẠT ĐỘNG
ĐỊNH TỘI DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐÚNG ĐỐI VỚI TỘI
HIẾP DÂM…………………………………………………………………..63
3.1. Điều kiện bảo đảm cho hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt
đúng đối với tội hiếp dâm ............................................................................ 63
3.2. Các giải pháp đảm bảo định tội danh và quyết định hình phạt đúng đối với
tội hiếp dâm.................................................................................................. 65
KẾT LUẬN .................................................................................................... 72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO......... Error! Bookmark not defined.
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 79


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS

Bộ luật hình sự


BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng từ năm 1986 đến nay, hơn 30 năm
thực hiện công cuộc đổi mới đất nước. Chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu to
lớn và quan trọng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: kinh tế không
ngừng tăng trưởng, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo, đời
sống của nhân dân ngày một nâng cao, vị thế của nước ta trên trường quốc tế
ngày càng được củng cố. Song, bên cạnh những thành tựu đạt được, nền kinh tế
thị trường đặc biệt là những mặt trái của nó đã ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống
xã hội làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội phức tạp như vấn đề về dân số, việc
làm, các tệ nạn xã hội, tình hình tội phạm nói chung trong đó có tội hiếp dâm.
Tội hiếp dâm là hành vi xâm phạm đến danh dự nhân phẩm của con
người, đến giá trị đạo đức thiêng liêng, cao quý mà pháp luật bảo vệ. Điều 20
Hiến Pháp 2013 khẳng định: “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể,
được pháp luật bảo vệ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm” [5]. Bảo
vệ danh dự, nhân phẩm, tính mạng, sức khỏe của con người, của công dân là
nhiệm vụ của xã hội. Nhưng, thực tế cho thấy, bên cạnh những người có ý thức
tôn trọng danh dự nhân phẩm của người khác thì vẫn còn một số cá nhân cố ý
xem thường pháp luật, thực hiện những hành vi sai trái, chà đạp danh dự nhân
phẩm của người khác. Vì thế, việc đấu tranh chống loại tội phạm này ngày càng

được các cấp, các ngành, nhất là các ngành tư pháp trên địa bàn thành phố Hà
Nội quan tâm và đạt được những kết quả nhất định, song vẫn không tránh khỏi
những khó khăn khi áp dụng pháp luật xử lý tội phạm này. Việc khởi tố, điều
tra, truy tố và xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn còn hạn chế, thiếu
sót, ảnh hưởng đến công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, tội
hiếp dâm nói riêng. Nguyên nhân của những hạn chế thiếu sót này có cả nguyên
nhân xuất phát từ quy định của pháp luật, có cả nguyên nhân từ thực tiễn áp
dụng pháp luật xử lý tội phạm. Thực trạng này đòi hỏi cần tiếp tục nghiên cứu

1


để có giải pháp hoàn thiện pháp luận và đảm bảo áp dụng đúng đắn pháp luật
trong điều tra, truy tố, xét xử tội phạm này, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng
chống tội phạm nói chung, tội hiếp dâm nói riêng, nhất là sau khi BLHS năm
2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) có hiệu lực thi hành. Với lý do trên, tác giả lựa
chọn đề tài: “Tội hiếp dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiến thành
phố Hà Nội” để nghiên cứu làm luận văn tốt nghiệp với mong muốn được góp
phần hoàn thiện những quy định của pháp luật cũng như nâng cao hiệu quả áp
dụng pháp luật đấu tranh phòng chống loại tội phạm này trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tội hiếp dâm là tội được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu ở nhiều cấp
độ khác nhau vì đây là tội gây nguy hại cao cho xã hội, nó xâm hại trực tiếp đến
quyền con người là khách thể được pháp luật hình sự đặc biệt bảo vệ. Vì vậy
cho tới nay đã có nhiều công trình khoa học đã được công bố về chủ đề này. Ở
cấp độ luận văn thì có: Trịnh Thị Thu Hương (2004), “Các tội phạm tình dục và
đấu tranh chống các tội này ở Việt Nam trong gia đoạn hiện nay, Luận văn thạc
sỹ luật học, Hà Nội” [6]; Nguyễn Minh Nhật (2008), Đấu tranh phòng chống tội
hiếp dâm trẻ em trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ luật học,
Đại học Luật Hồ Chí Minh [11]; Phạm Thị Ngoan (2013), Đấu tranh phòng,

chống tội hiếp dâm trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng, Luận văn thạc sĩ luật học, Học
viện Khoa học Xã hội [10]; Cao Hữu Sáng (2015), Các tội hiếp dâm theo quy
định của Bộ luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội [18].
Ngoài ra, còn có một số bài báo khoa học khác, điển hình là: “Một vài ý
kiến trao đổi về tội hiếp dâm theo quy định tại Điều 111 Bộ luật hình sự”, Ths.
Đỗ Việt Cường, Tạp chí Kiểm sát số 23, năm 2008 [3]; “Trao đổi về tội hiếp
dâm theo điều 111 Bộ luật hình sự”, Ths. Đặng Xuân Nam, Tạp chí kiểm sát số
07, năm 2009. [9]
Thêm vào đó, tội hiếp dâm còn được đề cập trong các cuốn: “Bình luận
khoa học Bộ luật hình sự - phần các tội phạm” do Nhà xuất bản thành phố Hồ

2


Chí Minh xuất bản năm 2002 của thạc sĩ Đinh Văn Quế [14]. Hoặc trong các
Giáo trình Luật hình sự Việt Nam Phần các tội phạm cụ thể của Khoa luật, Đại
học quốc gia Hà Nội năm 2003; Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của trường
Đại học Luật Hà Nội năm 2008 v.v...
Mặc dù có khá nhiều các công trình nghiên cứu khoa học về tội hiếp dâm
nhưng do mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu nên chưa có công trình khoa
học nào nghiên cứu về: “Tội hiếp dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam từ
thực tiễn thành phố Hà Nội”. Chính vì vậy, đề tài này là một đề tài mới, lần
đầu tiên được nghiên cứu ở cấp độ luận văn Thạc sĩ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu:
Mục đích của đề tài là trên cơ sở nghiên cứu làm rõ những vấn đề về lý
luận, các quy định của pháp luật liên quan đến tội hiếp dâm, và thực tiễn áp
dụng pháp luật hình sự nhất là thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt
khi xét xử tội hiếp dâm để tìm ra những hạn chế, thiếu sót từ đó đưa ra các giải
pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng trong thực tiễn đấu

tranh phòng, chống tội phạm này.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ
yếu sau:
Thứ nhất, phân tích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và quy định của
pháp luật hình sự Việt Nam về tội hiếp dâm.
Thứ hai, bình luận các quy định về tội hiếp dâm trong Bộ luật hình sự
hiện hành của Việt Nam; đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định về tội hiếp
dâm, chỉ ra những tồn tại, hạn chế thiếu sót xung quanh việc áp dụng pháp luật
và những nguyên nhân hạn chế của nó.

3


Thứ ba: Đưa ra các giải pháp hoàn thiện các quy định về tội hiếp dâm
trong Bộ luật hình sự năm 2015 cũng như những giải pháp để nâng cao hiệu quả
áp dụng trong thực tiễn xét xử tội phạm này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu:
Những vấn đề về lý luận qui định của pháp luật về tội hiếp dâm và thực
tiễn áp dụng trong điều tra, truy tố, xét xử tội phạm này.
4.2 Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn chỉ nghiên cứu tội hiếp dâm theo quy định tại Điều 111 của Bộ
luật hình sự năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009) và thực tiễn áp dụng trên địa
bàn thành phố Hà Nội trong phạm vi chuyên nghành Luật hình sự. Các số liệu
nghiên cứu được dùng trong luận văn chủ yếu là các số liệu thống kê tại Tòa án
nhân dân thành phố Hà Nội trong thời gian 5 năm từ năm 2011 đến năm 2016.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1 Phương pháp luận: Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp
luận của triết học Mác – Lê nin; các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về tội

phạm và hình phạt, các tri thức của khoa học luật hình sự, tội phạm học, tâm lý
học và khoa học điều tra tội phạm
5.2 Phương pháp nghiên cứu cụ thể:
Luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu cụ thể để làm rõ
đối tượng nghiên cứu như:
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp.
+ Phương pháp diễn dịch, quy nạp.
+ Phương pháp thống kê so sánh đối chiếu.
+ Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
+ Phương pháp đánh giá.

4


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn là công trình chuyên khảo đầu tiên nghiên cứu về tội hiếp dâm
cả phương diện lý luận và thực tiễn. Do vậy:
* Về lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần bổ sung và làm
phong phú thêm kho tàng lý luận chuyên ngành luật hình sự về một tội danh cụ
thể - tội hiếp dâm.
* Về thực tiễn: Những kết quả nghiên cứu của luận văn có thể tham khảo
hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về tội hiếp dâm và nâng hiệu quả áp
dụng trong thực tiễn.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, học tập tại các
cơ sở đào tạo chuyên ngành luật hình sự
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương.
Chương 1: Những vấn đề lý luận và lịch sử lập pháp về tội hiếp dâm.
Chương 2: Quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về tội hiếp dâm và

thực tiễn áp dụng tại thành phố Hà Nội.
Chương 3: Điều kiện và giải pháp đảm bảo hoạt động định tội danh và
quyết định hình phạt đúng đối với tội hiếp dâm.

5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ LẬP PHÁP HÌNH SỰ
VỀ TỘI HIẾP DÂM
1.1. Những vấn đề lý luận về tội hiếp dâm
1.1.1. Khái niệm, các dấu hiệu pháp lý của tội hiếp dâm
1.1.1.1. Khái niệm
Theo Đại từ điển Tiếng Việt thì: “Hiếp dâm là dùng sức mạnh buộc phụ
nữ cho thỏa mãn dâm dục” [30, tr 700]. Theo từ điển bách khoa Công an nhân
Việt Nam thì hành vi hiếp dâm được hiểu là: “ Dùng sức mạnh cưỡng bức người
khác để thỏa mãn nhu cầu tình dục của mình”.
Trong Bản tổng kết và hướng dẫn đường lối xét xử tội hiếp dâm đã đưa ra
định nghĩa về khái niệm tội hiếp dâm như sau: “hiếp dâm là hành động bắt buộc
người phụ nữ phải chịu sự giao cấu trái ý muốn hoặc không có ý muốn của
người đó bằng cách dùng bạo lực về thể chất, hay là uy hiếp về tinh thần, hay là
lợi dụng hoặc gây ra tình trạng không thể tự vệ hoặc biểu lộ ý chí của người
đó” [23]
Mặc dù, BLHS Việt Nam năm 1999 ( Sửa đổi bổ sung năm 2009) chưa
quy định cụ thể về khái niệm hiếp dâm nhưng kế thừa các quan điểm nêu trên có
thể khái quát khái niệm hiếp dâm như sau: Hiếp dâm là hành vi dùng vũ lực, đe
dọa dùng vũ lưc hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân
hoặc thủ đoạn khác giao cấu trái ý muốn của họ.
Về mặt pháp luật, có thể đưa ra khái niệm tội hiếp dâm như sau: “Tội hiếp
dâm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, do người có năng lực trách nhiệm hình sự

cố ý dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ
được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu với nạn nhân trái với ý muốn
của họ”

6


1.1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội hiếp dâm
Xét về mặt cấu trúc, tội hiếp dâm được cấu thành bởi bốn yếu tố, đó là:
khách thể, mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan. Nghiên cứu bốn yếu tố này
của tội hiếp dâm giúp làm sáng tỏ bản chất pháp lý của loại tội này, cho phép
xác định tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, đồng
thời cho phép phân biệt giữa tội phạm này và tội phạm khác. Từ đó làm cơ sở
pháp lý cho việc định tội và truy cứu trách nhiệm hình sự cũng như làm tiền đề
cho việc áp dụng hình phạt.
* Khách thể của tội phạm
Cũng giống như các hoạt động khác của con người, hoạt động phạm tội
cũng nhằm vào những khách thể cụ thể, tồn tại ngoài ý thức và độc lập với ý
thức của chủ thể nhưng không phải là cải biến khách thể mà là gây thiệt hại hoặc
đe dọa gây thiệt hại cho chính những khách thể đó.
Khách thể của tội phạm được hiểu là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo
vệ và bị tội phạm xâm hại. [12]
Theo Luật Hình sự Việt Nam, những quan hệ được coi là khách thể bảo
vệ của luật hình sự là những quan hệ xã hội đã được xác định tại Khoản 1 Điều
8 BLHS, bao gồm: độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ Quốc,
chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền,
lợi ích hợp pháp của tổ chức, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do,
sở hữu, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân,...
Dựa vào các căn cứ trên nhận thấy khách thể của tội phạm hiếp dâm là
“quan hệ nhân thân mà nội dung là quyền tự do tình dục của con người” [13].

Hành vi hiếp dâm ở mức độ nào đó đã xâm hại đến sức khỏe, nhân phẩm, danh dự
thậm chí có thể xâm hại đến tính mạng của con người mà khách thể này được luật
hình sự bảo vệ. Sở dĩ, có thể khẳng định như vậy là vì khi hành vi hiếp dâm được
thực hiện, tức là nó đã trực tiếp gây tổn hại đến nhân phẩm, danh dự của nạn nhân,
thậm chí còn có thể gây tổn hại đến sức khỏe, tính mạng của nạn nhân.

7


Đối tượng tác động của tội phạm được hiểu chính là một bộ phận của
khách thể của tội phạm, bị hành vi phạm tội tác động đến để gây thiệt hại hoặc
đe dọa gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ.
Đối tượng tác động của tội phạm có thể là con người, các đối tượng vật chất
hay hoạt động bình thường của chủ thể. Sự gây thiệt hại cho khách thể dù ở hình
thức cụ thể nào cũng luôn diễn ra trên cơ sở hành vi phạm tội làm biến đổi tình
trạng của các đối tượng tác động – các bộ phận cấu thành của quan hệ xã hội.
Trong tội hiếp dâm được quy định tại Điều 11 BLHS thì đối tượng tác
động của tội phạm chính là con người. Mặc dù, BLHS không quy định cụ thể về
giới tính của đối tượng bị xâm hại nhưng theo định kiến cho rằng: trong hành vi
giao cấu giữa nam với nữ với vai trò chủ động và chi phối thuộc về nam giới với
cấu tạo sinh học riêng mới có thể thực hiện được hành vi giao cấu với nữ giới
mà không cần sự tự nguyện của nữ giới. Về lý luận cũng như thực tiễn, trong
một số trường hợp đặc biệt, nữ giới vẫn có thể thực hiện hành vi giao cấu trái ý
muốn của nam giới. Ví như trường hợp nữ giới lợi dụng đối tượng (nam giới)
đang ở trong tình trạng không có khả năng biểu lộ ý muốn đúng đắn (như chịu
tác động ở mức độ cao của thuốc kích dục) và thực hiện hành vi giao cấu với họ.
Hành vi này có thể được xem là hành vi giao cấu trái với ý muốn của nạn nhân.
Do đó, phụ nữ có thể trở thành chủ thể của tội hiếp dâm. Tuy nhiên, dưới góc độ
tiếp cận về mức độ phổ biến của hành vi do nam giới và nữ giới thực hiện và
yêu cầu xử lí bằng các biện pháp hình sự, thực tiễn xét xử cho thấy những

trường hợp nữ giới thực hiện là rất cá biệt, hầu như chưa từng xảy ra với nữ giới
ở nước ta vốn chịu ảnh hưởng bởi các truyền thống đạo đức và lễ nghi nho giáo.
Mặt khác, trong xã hội còn tồn tại những đối tượng cũng bị xâm hại tình
dục tương tự nhưng không được coi là đối tượng của loại tội này như người
chuyển giới hay người phụ nữ đang trong thời kỳ hôn nhân (trong trường hợp
người phụ nữ này là nạn nhân của bạo lực gia đình, bị cưỡng bức giao cấu trái ý
muốn nhưng không được coi là đối tượng của tội hiếp dâm).

8


Khoản 4 Điều 111 BLHS chỉ ra cho ta thấy tuổi của nạn nhân có ý nghĩa
quan trọng trong việc định tội hiếp dâm. Chỉ khi nạn nhân từ đủ 16 tuổi trở lên
thì mới định tội hiếp dâm đối với người phạm tội. Còn nếu nạn nhân nữ từ đủ 13
tuổi đến chưa đủ 16 tuổi thì phải định tội hiếp dâm trẻ em. Mọi trường hợp giao
cấu với trẻ em dưới 13 tuổi đều là hiếp dâm trẻ em.
Đối tượng tác động là một trong những dấu hiệu được mô tả trong cấu
thành của Điều 111 BLHS, nó có ý nghĩa trong việc phân biệt tội hiếp dâm với
tội danh khác cũng như xác định khung hình phạt và quyết định hình phạt.
* Mặt khách quan của tội phạm:
Mặt khách quan của tội hiếp dâm bao gồm các dấu hiệu sau đây:
- Dấu hiệu thứ nhất, người phạm tội có thể có một trong các hành vi sau:
Hành vi dùng vũ lực, hành vi đe dọa dùng vũ lực, lợi dụng tình trạng không thể
tự vệ được của nạn nhân, thủ đoạn khác giao cấu trái với ý muốn của nạn nhân.
- Dấu hiệu thứ hai, việc giao cấu phải trái với ý muốn của nạn nhân. Tội
phạm hoàn thành khi có hành vi giao cấu với nạn nhân.
Để hiểu rõ mặt khách quan của tội phạm này cần tìm hiểu từng hành vi
khách quan cụ thể:
- Hành vi dùng vũ lực giao cấu trái ý muốn của nạn nhân: trong tội hiếp
dâm cũng tương tự với hành vi dùng vũ lực ở một số tội phạm khác mà người

phạm tội có dùng vũ lực, nhưng ở tội hiếp dâm, hành vi dùng vũ lực là nhằm giao
cấu với người bị tấn công. Hành vi này, thông thường là dùng sức mạnh thể chất
tác động vào nạn nhân như: Vật lộn, giữ chân tay, bịp mồm, bóp cổ, đánh đấm,
trói v.v... nhằm làm tê liệt sự kháng cự của người bị hại để thực hiện được việc
giao cấu. Nếu thực tế, người phạm tội dùng vũ lực tới mức làm cho người bị hại
bị bất tỉnh nhưng chưa bị chết và sau khi người phạm tội đã thỏa mãn dục vọng,
người bị hiếp đã chết thì người phạm tội còn phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự
về tội giết người, ngoài tội hiếp dâm mà họ đã thực hiện. Bởi vì, người phạm tội
đã bỏ mặc cho hậu quả chết người xảy ra miễn là thỏa mãn được dục vọng.

9


- Hành vi đe dọa dùng vũ lực giao cấu trái với ý muốn của nạn nhân: là
hành vi sử dụng lời nói hoặc hành động uy hiếp tinh thần của người khác, làm
cho người bị đe dọa sợ hãi như: dọa giết, dọa đánh, dọa bắn... nên không dám
chống cự buộc phải để người phạm tội giao cấu trái với ý muốn của mình. Vũ
lực đe dọa sẽ thực hiện có thể nhằm vào chính người bị đe dọa những cũng có
thể nhằm vào người khác có quan hệ thân thuộc với người bị đe dọa. Bằng sự đe
dọa, người phạm tội có thể khống chế được ý chí của người bị tấn công. [28]
- Hành vi lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân để giap
cấu trái với ý muốn của nạn nhân: là trường hợp nạn nhân rơi vào tình trạng nếu
như bị người khác giao cấu thì không thể chống cự lại được. Tình trạng này có
thể do chính người phạm tội tạo ra cho nạn nhân để thực hiện việc giao cấu trái
với ý muốn của nạn nhân hoặc trường hợp nạn nhân rơi vào tình trạng không thể
tự vệ được do những lý do khách quan khác không do người phạm tội gây ra cho
nạn nhân, nhưng người phạm tội đã lợi dụng tình trạng đó để giao cấu với nạn
nhân trái với ý muốn của họ.
- Hành vi dùng thủ đoạn khác giao cấu trái với ý muốn của nạn nhân: là
những thủ đoạn ngoài những hành vi đã được quy định trong cấu thành (dùng vũ

lực, đe dọa dùng vũ lực, lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân).
Đây là quy định mở nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống loại tội phạm
này, bởi lẽ thực tiễn xét xử có những trường hợp hành vi phạm tội của người
phạm tội không thuộc một trong các hành vi cụ thể đã được quy định trong cấu
thành, nhưng hành vi này bản chất lại là hành vi hiếp dâm và việc truy cứu
người phạm tội về tội hiếp dâm là cần thiết. Tuy nhiên, khi xác định hành vi
dùng thủ đoạn khác để giao cấu trái ý muốn của nạn nhân cần chú ý một số vấn
đề sau:
Những thủ đoạn mà người phạm tội thực hiện hoặc lợi dụng phải là những
thủ đoạn nhằm đưa người bị hại lâm vào tình trạng không còn khả năng làm chủ
bản thân để người phạm tội giao cấu trái với ý muốn của họ như: nạn nhân bị mê

10


man bất tỉnh (do bị tật động kinh, bị say thuốc lào, bị gây mê, tiêm thuốc bị dị
ứng...) ngủ mê tưởng nhầm can phạm là chồng nên không kháng cự hoặc một số
trường hợp ngủ mê khác như bị say rượu nặng; bị ốm đau liệt nhược; bị lên cơn
điên dại; ở trong tình trạng cô đơn yếu đuối ở nơi hẻo lánh hoặc trong mọi tình
trạng không thể chống cự khác...để thực hiện hành vi giao cấu trái với ý muốn
của nạn nhân.
Ví dụ: Khoảng 21h ngày 6/10/2015, đối tượng Lê Trung Kiên (45 tuổi, trú
tại quận Đống Đa, Hà Nội) hành nghề xe ôm ở bến xe Giáp Bát, nhìn thấy chị
Nguyễn Thị T (40 tuổi) ở Hai Bà Trưng đang đi bộ trên vỉa hè nên đã mời đi xe
và được chị T đồng ý. Trên đường đi, đối tượng Kiên tìm cách bắt chuyện với
chị T rồi sau đó rủ chị này đi uống rượu, ăn đêm tại khu vực Ngã Tư Sở.
Ban đầu chị T chỉ định ăn đêm, nhưng bị Kiên mời rượu nên đành phải
uống, sau đó chị T bị say và đòi về. Thay vì đưa chị T về nhà, gã xe ôm thú tính
đã chở chị này tới khu vực bãi đất trống ở phường Đại Kim rồi giở trò đồi bại,
mặc dù nạn nhân muốn kháng cự nhưng vì thể trạng yếu nên đành bất lực.

May mắn là vào thời điểm trên, một người lái xe tải đi ngang qua nghe
thấy tiếng kêu cứu nên chạy vào trợ giúp, đối tượng Kiên tìm cách bỏ chạy
nhưng đã bị người dân bắt giữ và giao cho công an phường Đại Kim.
Ngày 16/10/2015 Đội điều tra tổng hợp, Công an quận Hoàng Mai, Hà
Nội cho biết đã khởi tố bị can, bắt tạm giam Lê Trung Kiên (45 tuổi, trú tại quận
Quận Đống Đa, Hà Nội) để điều tra tội Hiếp dâm.[33]
Qua ví dụ trên ta thấy rằng hành vi khách quan của Kiên là dùng thủ đoạn
khác, cụ thể là chuốc cho chị T say rượu không còn khả năng chống cự rồi Kiên
thực hiện hành vi giao cấu trái ý muốn của nạn nhân.
- Hành vi giao cấu phải trái ý muốn của nạn nhân. Để hiểu rõ hành vi
khách quan này của tội hiếp dâm, cần tìm hiểu hai vấn đề lớn sau:
Vấn đề thứ nhất: Hành vi giao cấu

11


Trong BLHS Việt Nam năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009), có nhiều
tội danh quy định giao cấu là hành vi khách quan như: Tội hiếp dâm (Điều 111);
Tội hiếp dâm trẻ em (Điều 112), Tội cưỡng dâm trẻ em (Điều 114), Tội giao cấu
với trẻ em (Điều 115), Tội loạn luận (Điều 150). Vì thế, nội hàm của khái niệm
giao cấu có thể xác định chung cho những tội này.
Cho đến nay chỉ có một văn bản duy nhất mô tả cụ thể hành vi giao cấu,
đó là Bảng tổng kết và hướng dẫn đường lối xét xử tội hiếp dâm và một số tội
phạm khác về mặt tình dục số 329/HS2 ngày 11/05/1967 của TANDTC. Trên cơ
sở thừa nhận chủ thể của tội hiếp dâm chỉ có thể là nam giới và nạn nhân của tội
này chỉ có thể là nữ giới, văn bản này đã định nghĩa giao cấu là “sự cọ sát trực
tiếp dương vật vào bộ phận sinh dục của người phụ nữ (bộ phận từ môi lớn trở
vào) với ý thức định ấn vào trong không kể sự xâm nhập của dương vật là sâu
hay cạn, không kể có xuất tinh hay không” và đây cũng là cách hiểu của những
người thực hiện công tác xét xử về tội hiếp dâm hiện nay [20].

Tuy nhiên, khái niệm trên không còn phù hợp với thực tiễn hiện nay nữa.
Bởi những năm 1976 công nghệ cũng như bao cao su chưa phát triển rộng rãi
như bây giờ, nếu như hiện tại áp dụng khái niệm trên thì chỉ cần mang bao cao
su đi thực hiện hành vi hiếp dâm, cưỡng dâm,... thì sẽ không bị coi là phạm tội
hiếp dâm vì lúc này không được xem là cọ sát trực tiếp (đã qua lớp bao cao su).
Hơn nữa, hành vi tình dục của con người rất đa dạng, không chỉ nhằm mục đích
sinh sản mà còn đem lại khoái cảm. Hành vi tình dục không chỉ diễn ra ở bộ
phận sinh dục mà còn có thể ở những bộ phận khác trên cơ thể,....Chính vì vậy,
để đảm bảo tối đa quyền tự do tình dục và danh dự nhân phẩm của con người
chúng ta không nên bó hẹp khái niệm giao cấu ở “sự cọ sát trực tiếp dương vật
vào bộ phận sinh dục của người phụ nữ...” cũng như trong cấu thành cơ bản tội
hiếp dâm không nên chỉ bó hẹp trường hợp nam giới giao cấu trái ý muốn với nữ
giới mà cần phải mở rộng ra hơn nữa để đảm bảo danh dự nhân phẩm cho người
bị xâm hại.

12


Một câu hỏi đặt ra là trường hợp nam giới bắt nữ giới tự thực hiện các
hành vi tình dục trên có được coi là hành vi giao cấu hay không? Tại Quyết định
giám đốc thẩm số 24/2011/HS-GĐT ngày 07/12/2011 của Hội đồng thẩm phán
TANDTC về vụ án hình sự, các bị cáo bị kết án về các tội “cướp tài sản” và
“hiếp dâm”, Hội đồng thẩm phán TANDTC đã thể hiện quan điểm cũng coi là
hành vi giao cấu đối với trường hợp nam giới bắt nữ giới tự đưa dương vật vào
âm hộ. Vì vậy, cũng cần coi những trường hợp sau thuộc nội hàm của khái niệm
giao cấu: nam giới bắt nữ giới tự đưa dương vật vào âm hộ, hậu môn; nam giới
bắt nam giới tự đưa dương vật vào hậu môn.
Qua phân tích trên, có thể thấy rằng khái niệm giao cấu trong tội hiếp dâm
cần được mở rộng theo hướng: “Giao cấu được hiểu là việc đưa bộ phận sinh
dục của người này chủ động tác động vào bất cứ bộ phận nào trên cơ thể người

kia, không phân biệt đồng giới hay khác giới” [36].
Vấn đề thứ hai: Yếu tố trái với ý muốn của nạn nhân
Hành vi giao cấu chỉ bị coi là phạm tội hiếp dâm khi nó được thực hiện
trái với ý muốn của nạn nhân. Thái độ trái với ý muốn xảy ra khi nạn nhân
không chấp nhận sự giao cấu hoặc hành vi giao cấu xảy ra không có ý muốn của
người phụ nữ, vì họ đang trong tình trạng không thể biểu lộ được ý chí. Biểu
hiện của thái độ trái ý muốn là nạn nhân chống cự, khóc lóc, van xin,...Vậy thái
độ trái với ý muốn của người phụ nữa xảy ra vào thời điểm nào thì hành vi giao
cấu của nam giới bị coi là phạm tội hiếp dâm. Mặc dù nước ta chưa có văn bản
nào quy định cụ thể về vấn đề này nhưng ở một số nước như Anh, Australia,
Xcotlen, xứ Uên, pháp luật quy định rõ thái độ trái với ý muốn của người phụ nữ
phải xảy ra trước khi có hành vi giao cấu. Nếu người đàn ông đang giao cấu,
người phụ nữ mới biểu lộ thái độ trái ý muốn thì trường hợp này không phạm tội
hiếp dâm vì thái độ của người phụ nữ phải là trái với ý muốn thực sự [8]. Tác
giả cũng đồng ý với quan điểm này. Theo đó, hành vi giao cấu chỉ bị coi là trái

13


với ý muốn nạn nhân khi nạn nhân thể hiện thái độ trái ý muốn trước khi thực
hiện hành vi này.
Về hậu quả thiệt hại: như trên đã phân tích, hành vi khách quan của tội
hiếp dâm gây ra không chỉ thiệt hại về thể chất mà còn thiệt hại về danh dự,
nhân phẩm của nạn nhân, đồng thời cũng gây ảnh hưởng xấu đến các mối quan
hệ xã hội khác được pháp luật hình sự bảo vệ, đó là trật tự an toàn xã hội.
Dấu hiệu khách quan tiếp theo đó là công cụ, phương tiện, thủ đoạn, thời
gian, địa điểm, hoàn cảnh phạm tội... nhưng những dấu hiệu này không phải là
dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, việc xác định những dấu
hiệu này cũng có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử
và thi hành án. Bởi vì, mặc dù không phải là dấu hiệu bắt buộc nhưng những dấu

hiệu này góp phần xác định tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi,
đồng thời cũng thông qua đó xác định được những nguyên nhân và điều kiện
phạm tội để từ đó tìm ra các giải pháp hữu hiệu cho công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm.
* Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội hiếp dâm theo quy định của luật hình sự hiện hành thì chỉ
có thể là con người cụ thể đang sống, bởi chỉ khi đó, họ mới nguy hiểm cho xã
hội. Và không phải bất kì ai cũng có thể là chủ thể của tội hiếp dâm khi thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà chỉ những người có đủ điều kiện sau mới
có thể trở thành chủ thể của tội hiếp dâm, đó là: một người cụ thể đang sống
thực hiện hành vi được mô tả trong Điều 111 BLHS năm 1999 (sửa đổi bổ sung
năm 2009) và là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt đến một độ tuổi
theo luật định.
Về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự: Điều 12 BLHS năm 1999 (sửa đổi
bổ sung năm 2009) có quy định:
“1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.

14


2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách
nhiệm hình sự về mọi tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng”
Như vậy, nguời từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi
hành vi hiếp dâm của mình theo quy định của Điều 111 BLHS. Còn người từ đủ
14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội hiếp
dâm trong các trường hơp quy định tại các Khoản 2, Khoản 3, Khoản 4 Điều
111 BLHS.
Năng lực trách nhiệm hình sự và độ tuổi là những dấu hiệu pháp lý bắt
buộc của chủ thể của tội hiếp dâm. Trong đó, năng lực trách nhiệm hình sự là

điều kiện cần thiết để có thể xác định con người có lỗi khi họ thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội hay không. Chỉ có người có năng lực trách nhiệm hình sự
đầy đủ mới hiểu rõ hành vi của mình là đúng hay sai, mới điều khiển được, tự
chủ được hành vi của minh. Người không có khả năng đó là người không có
năng lực trách nhiệm hình sự. Khoản 1 Điều 13 BLHS năm 1999 (sửa đổi bổ
sung năm 2009) quy định: “Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong
khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức
hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm
hình sự; đối với người này phải áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh”
Tóm lại, chủ thể của tội hiếp dâm là bất kì ai đủ năng lực trách nhiệm
hình sự và là người đạt đổ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều
12 BLHS [4].
* Mặt chủ quan của tội phạm
Hoạt động của con người là hoạt động có ý thức, do vậy có sự thống nhất
giữa mặt bên trong và mặt bên ngoài. Hai mặt này luôn luôn thống nhất với
nhau. Mặt bên trong của tội phạm không thể thấy được nếu nó không thể hiện ra
bên ngoài bằng hành vi nguy hiểm cho xã hội, bằng hậu quả tác hại, bằng thời
gian, địa điểm, phương pháp, phương tiện, công cụ thực hiện tội phạm. Mặt bên

15


trong của tội phạm là trạng thái tâm lý, ý thức của người phạm tội, bao gồm: lỗi,
động cơ, mục đích của tội phạm.
- Lỗi:
Lỗi là dấu hiệu bắt buộc phải có ở mọi tội phạm vì tội phạm nào cũng
được thực hiện do cố ý hoặc vô ý. Lỗi là thái độ tâm lý của một người đối với
hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và hậu quả do hành vi đó gây ra được
biểu hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý.
Tội hiếp dâm, lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý. Có thể là lỗi cố ý trực

tiếp hoặc lỗi cố ý gián tiếp.
+ Lỗi cố ý trực tiếp: Người phạm tội thấy trước hậu quả có thể xảy ra,
nhưng vì mong muốn hậu quả đó xảy ra nên đã thực hiện hành vi phạm tôi.
+ Lỗi cố ý gián tiếp: Người phạm tội nhận thức và thấy trước được hậu
quả có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả
xảy ra (có ý thức chấp nhận hậu quả đó).
- Mục đích phạm tội:
Mục đích là dấu hiệu bắt buộc để cấu thành tội danh. Người phạm tội thực
hiện hành vi với mục đích giao cấu trái với ý muốn của nạn nhân.
- Động cơ phạm tội:
Động cơ phạm tội được hiểu là động lực bên trong thúc đẩy người phạm
tội thực hiện hành vi phạm tội đó. Động cơ chính thúc đẩy đối với tội phạm hiếp
dâm đôi khi không chỉ là thỏa mãn sự nhục dục mà đôi khi còn là sự khao khát
được chứng tỏ quyền uy, quyền điều khiển người khác và trạng thái muốn trút
tức giận lên ai đó .
1.1.2. Phân biệt tội hiếp dâm với các tội xâm phạm tình dục khác
Hành vi xâm hại đến quyền bất khả xâm phại về tình dục bị coi là tội
phạm và bị xử lý theo quy định của Bộ luật Hình sự. Tùy từng dấu hiệu cụ thể
của tội phạm như hành vi, tuổi của người bị hại, tuổi của người thực hiện hành
vi,... tội phạm xâm hại tình dục được chia thành các tội danh khác nhau quy định

16


trong Bộ luật Hình sự. Do vậy, trong thực tiễn định tội danh đòi hỏi phải phân
biệt được tội hiếp dâm với một số tội phạm khác cũng như một số trường hợp
phạm tội có liên quan.
1.1.2.1 Phân biệt tội hiếp dâm với tội cưỡng dâm
Trong các tội danh được áp dụng cho loại tội phạm này, tội hiếp dâm và
cưỡng dâm khiến nhiều người khó hiểu về hành vi để phân biệt. Tội hiếp dâm

được quy định tại Điều 111 BLHS, tội cưỡng dâm được quy định tại Điều 113
BLHS .
Tiêu chí

Tội hiếp dâm

Tội cưỡng dâm

so sánh

(Điều 111 BLHS)

( ĐIều 113 BLHS)

Tội phạm xâm phạm đến quyền Tội phạm xâm phạm đến
Khách

được tôn trọng và bảo vệ về sức quyền tự do tình dục, sức

thể

khỏe, nhân phẩm, danh dự và sự khỏe, tính mạng của con
an toàn về tình dục của con người. người.
- Hành vi khách quan
- Hành vi khách quan:

+ Dùng mọi thủ đoạn khiến

+ Dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ người lệ thuộc vào mình hoặc
lực, lợi dụng tình trạng không thể người đang ở trong tình trạng

chống cự được của nạn nhân hoặc quẫn bách phải miễn cưỡng
Mặt

thủ đoạn khác để giao cấu trái ý giao cấu

khách

muốn của họ.

quan

+ Hành vi khách quan nhằm mục phạm là sử dụng lệ thuộc vật

+ Hành vi khách quan của tội

đích áp đảo ý trí chống cự của nạn chất

(nuôi

dưỡng,

chăm

nhân hoặc làm cho nạn nhân sóc,...) về quan hệ công tác
không thể chống cự được sau đó (cấp trên cấp dưới, nhân viên
thực hiện hành vi giao cấu.

với lãnh đạo,...), về quan hệ
xã hội (giáo viên với học sinh,


17


bác sĩ với bệnh nhân,...).
Người trong tình trạng quẫn
bách (đang gặp khó khăn về
tài chính, sức khỏe, bệnh
tật,...) để ép buộc sự đồng ý
miễn cưỡng của nạn nhân, từ
đó ép buộc nạn nhân đồng ý
thực hiện hành vi giao cấu.
Chủ thể của tội phạm là bất kỳ Chủ thể của tội phạm là bất
người nào từ đủ 14 tuổi trở lên có kỳ người nào từ đủ 16 tuổi trở
năng lực trách nhiệm hình sự.

lên

(Khoản

1

Điều

113

BLHS) hoặc từ đủ 14 tuổi trở

Chủ thể

lên (Khoản 2, 3, 4 Điều 113

BLHS) có năng lực trách
nhiệm hình sự.
Mặt chủ Thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp .
quan
Mức
hình
phạt

Thực hiện với lỗi cố ý trực
tiếp.

Mức hình phạt thấp nhất của tội là Mức hình phạt thấp nhất của
hai năm tù. Mức hình phạt cao tội là sáu tháng tù. Mức hình
nhất của tội là tù chung thân

phạt cao nhất của tội là mười
tám năm tù.

So với tội cưỡng dâm, hành vi khách quan của tội hiếp dâm nguy hiểm
hơn so với hành vi khách quan của tội cưỡng dâm. Tuy đều là lỗi cố ý trực tiếp
nhưng hành vi của tội hiếp dâm mãnh liệt hơn so với tội cưỡng dâm, ngoài việc
xâm phạm về tình dục, hành vi hiếp dâm còn xâm phạm cả đến tính mạng, sức
khỏe của nạn nhân. Do đó, mức hình phạt khởi điểm của khung hình phạt thấp
nhất của tội hiếp dâm là hai năm tù, cao hơn so với tội cưỡng dâm là sáu tháng tù.

18


Mức hình phạt cao nhất của tội hiếp dâm là tù chung thân còn của tội cưỡng dâm
là mười tám năm tù. Điều đó thể hiện chính sách pháp luật hình sự của Đảng và

Nhà nước ta đã đánh giá chính xác về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của
tội hiếp dâm, từ đó nghiêm khắc trừng trị đối với loại tội phạm này [32].
1.1.2.2 Phân biệt tội hiếp dâm với tội dâm ô với trẻ em và tội giao cấu với trẻ em
* Giống nhau:
- Đều xâm phạm đến quyền được bảo vệ về nhân phẩm, danh dự của các
nạn nhân.
- Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý trực tiếp
* Khác nhau
Tội hiếp

Tội hiếp dâm trẻ

Tội giao cấu

Tội dâm ô

Tiêu chí

dâm

em

với trẻ em

với trẻ em

so sánh

(Điều 111


(Điều 112

(Điều 115

(Điều 116

BLHS)

BLHS)

BLHS)

BLHS)

Đối

Những

Trẻ em dưới 16 Trẻ em từ 13 Trẻ em dưới

tượng

người từ đủ tuổi.

tuổi đến dưới 16 tuổi.

tác động 16 tuổi trở

16 tuổi.


lên.
Khách

Tội

phạm Sức khỏe, tính Danh

dự, Danh

dự,

thể

xâm

phạm mạng, danh dự, nhân

phẩm, nhân

phẩm,

đến

quyền nhân phẩm và quyền bất khả quyền

bất khả xâm quyền bất khả xâm phạm về khả
phạm về tình xâm

phạm


về tình dục.

dục

của tình dục của trẻ

người

phụ em.

nữ, danh dự,
nhân phẩm;

19

bất
xâm

phạm về tình
dục.


sức khỏe của
người

phụ

nữ, trật tự an
toàn xã hội.
Mặt


-

Dùng vũ - Dùng vũ lực, - Hành vi của - Hành vi của

khách

lực, đe dọa đe dọa dùng vũ người

quan

dùng vũ lực, lực, lợi dụng tình thành

đã người

đã

niên thành niên sờ

lợi dụng tình trạng không thể giao cấu với mó,

hôn

trạng không chống cự được trẻ em có độ hít,...bộ phận
thể chống cự của
được
nạn

nạn


nhân tuổi từ 13 đến sinh dục của

của hoặc thủ đoạn dưới 16 tuổi trẻ em hoặc
nhân khác để giao cấu và

hoặc



sự bắt

thủ trái ý muốn của thuận tình của làm

đoạn khác để họ

các em

trẻ

em

những

việc đồi bại

giao cấu trái - Riêng đối với

với mình như

ý muốn của đối


tác

hôn bộ phậ

động là trẻ em

sinh dục của

họ.
-

tượng

Hành vi dưới 13 tuổi thì

khách quan hành vi khách
nhằm

mục quan

của

tội

đích áp đảo phạm là giao cấu
ý trí chống
cự của nạn
nhân


hoặc

làm cho nạn
nhân không
thể chống cự

20

minh,...


được sau đó
thực

hiện

hành vi giao
cấu
Chủ thể

Chủ thể của Bất kỳ người nào Bất kỳ người Bất kỳ người
tội phạm là từ đủ 14 tuổi trở nào đã thành nào đã thành
bất kỳ người lên có năng lực niên (từ đủ 18 niên (từ đủ
nào từ đủ 14 trách nhiệm hình tuổi trở lên) 18 tuổi trở
tuổi trở lên sự.

có năng lực lên) có năng

có nặng lực


trách

trách nhiệm

hình sự

nhiệm lực
nhiệm

hình sự
Mặt chủ Thực
quan

Ý

hình

sự
hiện Thực hiện với lỗi Thực hiện với Thực

hiện

với lỗi cố ý cố ý trực tiếp

lỗi cố ý trực với lỗi cố ý

trực tiếp

tiếp


trực tiếp

chí Trái với ý Trái với ý muốn Có sự thuận Không

của nạn muốn
nhân

trách

nạn nhân.

của của nạn nhân là tình

xem

của xét đến ý chí

trẻ em từ 13 tuổi người bị hại.

của nạn nhân

đối với

đến dưới 16 tuổi.



hành vi

Trẻ em dưới 13


muốn

giao cấu

tuổi thì không

không.

mong
hay

xem xét.

1.2 Khái quát lịch sử lập pháp hình sự quy định về tội hiếp dâm đến trước
khi ban hành BLHS năm 1999
1.2.1 Giai đoạn từ năm 1945 đến trước 1985
Trong những ngày đầu giành được chính quyền. Nước Việt Nam dân chủ
công hòa còn gặp nhiều khó khăn: nền kinh tế - xã hội lạc hậu bị chiến tranh tàn

21


×