Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

GIAO KẾT HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ TỪ THỰC TIỄN TÂP ĐOÀN CÔNG NGHIỆP CAO SU VIỆT NAM (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (598 KB, 26 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN QUỐC THÁI

GIAO KẾT HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ
TỪ THỰC TIỄN TÂP ĐOÀN CÔNG NGHIỆP
CAO SU VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60.38.01.07

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2017


Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học xã hội
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Bùi Nguyên Khánh

Phản biện 1: .......................................................................
.......................................................................
Phản biện 2: .......................................................................
.......................................................................

Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ
họp tại: Học viện Khoa học xã hội lúc ….. giờ ….. ngày ….. tháng
….. năm …….

Có thể tìm hiểu luận văn tại: Thư viện Học viện Khoa học xã hội



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiêt của đề tài: Trong hệ thống pháp luật
thương mại của mỗi nước cũng như trong các điều ước, tập quán
quốc tế về thương mại, chế định hợp đồng mua bán hàng hoá có vị trí
quan trọng. Đây là công cụ pháp lý bảo đảm có hiệu quả quyền lợi
của các bên, là cơ sở cho việc giải quyết những bất đồng phát sinh
khi thực hiện hợp đồng.
Để bảo đảm thực hiện đường lối mở rộng quan hệ đối ngoại
và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, trong những năm qua, Nhà
nước ta đã chủ động xây dựng và ban hành nhiều văn bản pháp luật
điều chỉnh các quan hệ về thương mại, dân sự, kinh tế có yếu tố nước
ngoài. Nhà nước ta cũng tham gia, ký kết nhiều điều ước quốc tế về
kinh tế, thương mại... với nhiều tổ chức quốc tế và với nhiều quốc
gia. Tuy nhiên, các quy định pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng
mua bán hàng hoá với thương nhân nước ngoài vẫn còn là lĩnh vực
phức tạp và mới mẻ cả về phương diện lập pháp và áp dụng trong
thực tiễn đòi hỏi phải được nghiên cứu. Nhiều quy định của pháp luật
về giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá với thương nhân nước ngoài
vẫn chưa tạo ra cơ sở pháp lý quan trọng cho việc xác lập quan hệ
mua bán hàng hoá với nước ngoài, chưa thực sự thể hiện được đầy
đủ chính sách đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại,
chủ động hội nhập. Những bất cập này cần phải được loại bỏ để phát
huy hơn nữa vai trò của pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán
hàng hoá với thương nhân nước ngoài trong giai đoạn mới, thích ứng
với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài: Pháp luật về hợp đồng mua
bán hàng hoá là bộ phận pháp luật có vị trí quan trọng trong pháp
luật về hợp đồng ở Việt Nam. Tuy nhiên, pháp luật về hợp đồng mua
1



bán hàng hoá chỉ thực sự được định hình với các quy định của Pháp
lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989 và đặc biệt sau đó là Bộ luật Dân
sự năm 1995 và Luật Thương mại năm 1997. Vấn đề pháp luật điều
chỉnh quan hệ hợp đồng mua bán hàng hoá nói chung và hợp đồng
mua bán hàng hoá với thương nhân nước ngoài nói riêng đã được
nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu nhằm
phân tích, luận giải và đưa ra những kiến nghị.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn là luận giải những vấn đề lý luận và
thực tiễn của pháp luật Việt Nam về giao kết hợp đồng mua bán hàng
hoá quốc tế; thực trạng và thực tiễn áp dụng pháp luật Việt Nam về
giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế từ thực tiễn Tập đoàn
công nghiệp cao su Việt Nam, để từ đó đề xuất những giải pháp hoàn
thiện pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế nhằm
đáp ứng yêu cầu của thực tiễn khách quan trong điều kiện kinh tế thị
trường và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là các tư liệu về giao kết
hợp đồng mua bán hàng hoá với thương nhân nước ngoài và các quy
định của pháp luật Việt Nam về giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá
quốc tế.
Ngoài ra, đối tượng nghiên cứu của luận án còn có các văn
kiện của Đảng, Nhà nước liên quan đến xây dựng pháp luật thương
mại Việt Nam, các báo cáo tổng kết hoạt động thực tiễn của các cơ
quan chức năng có liên quan đến hoạt động thương mại quốc tế.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
2



Phạm vi nghiên cứu của luận án: Luận án tập trung nghiên
cứu những vấn đề lý luận thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện
pháp luật Việt Nam về giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế
từ thực tiễn của Tập đoàn công nghiệp cao su Việt Nam mà không đi
sâu nghiên cứu tất cả các vấn đề liên quan đến hợp đồng mua bán
hàng hoá quốc tế, không nghiên cứu vấn đề giao kết hợp đồng trong
giao dịch thương mại điện tử.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước ta
trong sự nghiệp đổi mới, luận án tập trung sử dụng một số phương
pháp chủ yếu: phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh đặc biệt là
phương pháp so sánh luật học
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần bổ sung thêm
những luận cứ khoa học về giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá
quốc tế theo pháp luật Việt Nam dựa trên cơ sở chỉ rõ những điểm
tương đồng và khác biệt giữa vấn đề giao kết hợp đồng mua bán
hàng hoá quốc tế và hợp đồng mua bán hàng hoá trong nước.
Kết quả nghiên cứu của luận ăn cũng có thể là tư liệu tham
khảo có giá trị trong quá trình nghiên cứu xây dựng và hoàn thiện
pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế, là tư liệu
cho công tác thực tiễn và giảng dạy tại các cơ sở đào tạo về pháp luật
và kinh tế.
7. Cơ cấu đề tài
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được thực hiện theo cơ cấu 3 chương:
3



Chương 1: Những vấn đề lý luận pháp luật về giao kết hợp đồng mua
bán hàng hoá quốc tế
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về giao kết hợp đồng mua
bán hàng hoá quốc tế từ thực tiễn Tập đoàn công nghiệp cao su Việt
Nam
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp
đồng mua bán hàng hoá quốc tế ở Việt Nam hiện nay.
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ GIAO
KẾT HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ
1.1. Những vấn đề lý luận về hợp đồng mua bán hàng hoá
quốc tế
1.1.1. Hàng hoá và hành vi mua bán hàng hoá trong quan
hệ mua bán hàng hoá quốc tế
Đối tượng của quan hệ mua bán hàng hoá nói chung và mua
bán hàng hoá với thương nhân nước ngoài nói riêng là hàng hoá.
Hàng hoá với tư cách là sản phẩm mua bán là yếu tố cấu thành quan
trọng nhất của quan hệ mua bán hàng hoá. Một hợp đồng mua bán
hàng hoá không thể được xác lập nếu thiếu yếu tố cơ bản là hàng
hoá. Dưới góc độ pháp luật, dựa vào đặc trưng của từng loại mà hàng
hoá được phân thành bất động sản (gồm đất đai, nhà ở, công trình
xây dựng, tài sản gắn liền với đất đai) và động sản, tài sản hữu hình
và tài sản vô hình hoặc các quyền tài sản. Hàng hoá có thể là vật, là
lao động của con người, là các quyền tài sản mang tính vô hình [45,
tr 111].
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng
hoá quốc tế
4



Theo quan niệm của hầu hết luật pháp ở các nước trên thế
giới, hành vi mua bán được hiểu là hành vi theo thoả thuận trong đó
một bên là người bán có nghĩa vụ chuyển giao vào quyền sở hữu của
người mua một tài sản nhất định gọi là hàng hoá (đối tượng của hợp
đồng), còn người mua có nghĩa vụ nhận hàng hoá và trả tiền.
Ví dụ, theo mục II điều 2 (1) Luật Mua bán hàng hoá của
Anh năm 1979 (sửa đổi Luật Mua bán hàng hoá của Anh năm 1973),
hợp đồng mua bán hàng hoá được xác định: “Hợp đồng mua bán
hàng hoá là hợp đồng mà theo đó người bán chuyển giao hay đồng ý
chuyển giao quyền sở hữu về hàng hoá cho người mua và người mua
có nghĩa vụ nhận hàng và trả theo giá đã thoả thuận”. Điều cần
khẳng định ở đây là không phải mọi biểu hiện ý chí của chủ thể ra
bên ngoài thế giới khách quan đều có thể được coi là hành vi.
1.2. Thực trạng pháp luật Việt Nam về giao kết hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế
1.2.1. Các quy định về giao kết hợp đồng mua bán hàng
hoá quốc tế
- Giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế được hiểu là
quá trình thể hiện và trao đổi ý chí giữa các thương nhân có trụ sở
thương mại ở các nước khác nhau và/hoặc có quốc tịch khác nhau,
mà kết quả cuối cùng của quá trình đó là sự thống nhất ý chí của các
bên về các nội dung cần giao dịch dưới hình thức nhất định.
Giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế có những đặc
trưng sau đây:
Thứ nhất, giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là
quá trình tuyên bố ý chí của các chủ thể trong giao dịch mua bán
hàng há quốc tế. Khác với các hợp đồng mua bán hàng hoá trong
5



nước, việc giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế thường là
một quá trình dài.
Thứ hai, chủ thể là thương nhân các nước khác nhau. Đây là
nét đặc trưng nổi bật của giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc
tế.
Thứ ba, giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế có sự
thống nhất ý chí của các bên về các nội dung cần giao dịch, ví dụ, giá
cả, điều kiện giao hàng, điều kiện thanh toán, bảo hiểm, hợp đồng
mẫu, điều khoản chất lượng...
Thứ tư, hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế được xác lập
dưới hình thức nhất định
Việc làm rõ bốn nhân tố nêu trên cho phép xác định rõ
những giai đoạn cơ bản trong giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá
quốc tế và thể hiện được những nét đặc thù của giao kết hợp đồng
mua bán hàng hoá quốc tế.
1.2.2. Những vấn đề lý luận về giao kết hợp đồng mua bán
hàng hoá quốc tế
- Hợp đồng mua bán hàng hoá với thương nhân nước ngoài
sau khi được giao kết hợp pháp sẽ có hiệu lực bắt buộc đối với các
bên. Nói một cách khác, khi hợp đồng có hiệu lực, các bên phải thực
hiện mọi cam kết đã thoả thuận trong hợp đồng. Pháp luật các nước
thông thường đều quy định những điều kiện nhất định để hợp đồng
có hiệu lực pháp lý. Điểm chung trong cách tiếp cận của các nước về
điều kiện có hiệu lực của hợp đồng là đều xác định hợp đồng phải có
yếu tố thoả thuận của các bên và phải có đối tượng hợp pháp.
Xuất phát từ đặc điểm riêng của giao dịch thương mại quốc
tế, ngoài những điều kiện chung đối với hợp đồng, hợp đồng mua
6



bán hàng hoá quốc tế có những nét đặc thù về điều kiện có hiệu lực
của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế như:
1.2.2.1. Điều kiện về chủ thể của hợp đồng
Lý luận và thực tiễn pháp luật các nước đều quan niệm chủ
thể của hợp đồng mua bán hàng hoá phải là thương nhân.
Chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế phải có đầy
đủ những điều kiện do pháp luật quy định để được tham gia quan hệ
hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
Năng lực giao kết hợp đồng là yếu tố quan trọng cần xem xét
khi xác định chủ thể của giao dịch.
Năng lực của công ty được xác định trong nội dung đăng ký
kinh doanh và điều lệ công ty.
1.2.2.2. Điều kiện về hàng hoá là đối tượng của hợp đồng
Hàng hoá là đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hoá với
thương nhân nước ngoài phải thuộc diện đối tượng có thể giao dịch
được, không thuộc loại hàng hoá bị cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu,
không thuộc diện bị hạn chế xuất, nhập khẩu. Luật pháp các nước
trên thế giới đều quy định những biện pháp kiểm soát đối với hàng
hoá xuất, nhập khẩu. Kiểm soát xuất, nhập khẩu thông thường là vấn
đề của pháp luật nội địa. Các nước trên thế giới áp dụng các biện
pháp kiểm soát xuất, nhập khẩu xuất phát từ nhiều nguyên nhân, ví
dụ cần bảo hộ nền sản xuất trong nước, để đạt được chính sách đối
ngoại, trong đó có mục tiêu an ninh quốc gia, bảo vệ môi trường (ví
dụ, cấm xuất khẩu những động vật có nguy cơ tuyệt diệt hoặc các bộ
phận của động vật như ngà voi), bảo tồn các sản phẩm văn hoá (như
cấm xuất khẩu những vật phẩm được tìm thấy qua hoạt động khảo
cổ). Các biện pháp kiểm soát xuất, nhập khẩu này có thể chia thành
nhiều dạng, trong đó nổi bật là các quy tắc về vệ sinh dịch tễ, các

7


biện pháp về chống bán phá giá, quy tắc xuất xứ, các tiêu chuẩn về
môi trường và lao động, thậm chí là các quy đinh về trách nhiệm đối
với sản phẩm , các quy định về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng...
1.2.2.3. Điều kiện về nội dung của hợp đồng
Thông thường, hợp đồng mua bán hàng hoá với thương nhân
nước ngoài phải chứa đựng các điều khoản chủ yếu. Tuy nhiên, pháp
luật các nước có những quy định khác nhau về nội dung chủ yếu của
hợp đồng mua bán hàng hoá với thương nhân nước ngoài. Ví dụ,
pháp luật Anh - Mỹ quy định chỉ cần thoả thuận về đối tượng của
hợp đồng (tên hàng, số lượng), pháp luật của Pháp lại quy định hợp
đồng phải có hai điều khoản chủ yếu là đối tượng và giá cả [21]. Tuy
nhiên, cũng có những nước không đề cập đến các điều khoản chủ yếu
của hợp đồng. Ví dụ, Luật Hợp đồng Trung Quốc không quy định về
các điều khoản chủ yếu của hợp đồng mà quy định rằng, các điều
khoản của hợp đồng do các bên ấn định. Theo Luật Hợp đồng Trung
Quốc, các điều khoản do các bên ấn định thông thường bao gồm:
Tên của các bên và địa chỉ của họ; Đối tượng hợp đồng; Số lượng;
Chất lượng; Giá cả hoặc mức thù lao; Thời gian, địa điểm và phương
thức thực hiện hợp đồng; Các trách nhiệm do vi phạm hợp đồng;
Phương thức giải quyết tranh chấp [62].
pháp luật và thông lệ quốc tế đều nghiêm cấm những thoả
thuận của các bên trong hợp đồng nhằm rửa tiền hay tài trợ cho hoạt
động khủng bố. Một xu hướng có thể dễ nhận thấy là sự hợp tác và
liên kết ngày càng chặt chẽ giữa các nước nhằm ngăn chặn nạn các
hành vi bất hợp pháp nói chung cũng như nạn rửa tiền nói riêng.
Nhìn chung, những thoả thuận của các bên trong hợp đồng nhằm rửa
tiền hay tài trợ cho hoạt động khủng bố được pháp luật và thông lệ

8


quốc tế coi là các hành vi vi phạm pháp luật và bị nghiêm cấm thực
hiện.
1.2.2.4. Điều kiện về hình thức của hợp đồng
Một trong các nguyên tắc quan trọng trong giao kết hợp
đồng mua bán hàng hoá với thương nhân nước ngoài là tự do thoả
thuận. Điều này có nghĩa là các bên được quyền lựa chọn hình thức
thích hợp cho hợp đồng của họ. Tuy nhiên, để đảm bảo an toàn pháp
lý trong các quan hệ hợp đồng và để bảo vệ trật tự pháp luật, lợi ích
công cộng, có những hợp đồng phải tuân thủ các quy định về hình
thức.
Trên thực tế không một hệ thống pháp luật nào lại miễn trừ
hoàn toàn các yêu cầu về hình thức của hợp đồng. Vấn đề đặt ra là ở
chỗ, yêu cầu về hình thức của hợp đồng có phải là điều kiện bắt buộc
để xác định hiệu lực của hợp đồng hay không. Nhìn chung, có thể
khẳng định rằng, hình thức của hợp đồng không được coi là điều
kiện hiệu lực của hợp đồng, cho dù một số ít nước, chẳng hạn Cộng
hoà Liên bang Đức ghi nhận điều này. Tuy nhiên về cơ bản, hình
thức của hợp đồng có ý nghĩa quan trọng trong việc chứng minh và
là chứng cứ trước toà án.
Kết luận chương 1
Giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là một quá
trình phức tạp liên quan đến nhiều loại giao dịch khác nhau, nhiều
chủ thể khác nhau và chịu sự điều chỉnh của nhiều hệ thống pháp luật
khác nhau. Việc làm rõ các giai đoạn của quá trình giao kết hợp đồng
từ đó xác định nội dung nghiên cứu là việc làm cần thiết đối với hoạt
động giao kết hợp đồng. Giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc
tế ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay còn chịu tác động của điều

kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xu thế hội
9


nhập quốc tế, đặc biệt là khi nước ta vừa trở thành thành viên của Tổ
chức Thương mại Thế giới, do đó pháp luật về giao kết hợp đồng
mua bán hàng hoá với thương nhân nước ngoài cần đảm bảo sự
tương thích với pháp luật và thông lệ quốc tế. cạnh tranh không lành
mạnh trong hoạt động ngân hàng lớn hơn so với các lĩnh vực khác.

10


CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ GIAO
KẾT HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ TỪ
THỰC TIỄN TẬP ĐOÀN CÔNG NGHIỆP CAO SU VIỆT
NAM
2.1. Thực tiễn giao kết Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế của Tập đoàn công nghiệp cao su Việt Nam
2.1.1. Các quy định về giao kết hợp đồng mua bán hàng
hoá quốc tế
Các quy định hiện hành về giao kết hợp đồng mua bán hàng
hoá quốc tế được đề cập trong Bộ luật Dân sự năm 2005, Luật
Thương mại năm 2005, Luật Doanh nghiệp năm 2005 và nhiều văn
bản hướng dẫn thi hành như Nghị định của Chính phủ số
37/2006/NĐ-CP ngày 4/04/2006 của Chính phủ quy định chi tiết
Luật Thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại… và gần đây là
Bộ luật Dân sự năm 2015, Luật Doanh nghiệp năm 2015.
Các quy định trong pháp luật hiện hành của Việt Nam đã đề

cập đến một số khía cạnh như các lời mời để đi đến đề nghị giao kết
hợp đồng thể hiện dưới các hình thức như quảng cáo, trưng bày, giới
thiệu hàng hoá, hội chợ, triển lãm thương mại, nghĩa vụ bảo mật
thụng tin, việc ghi nhận trách nhiệm bồi thường nếu đã có đề nghị
giao kết hợp đồng nhưng lại tự ý rút bỏ đề nghị này và gây thiệt hại
cho phía bên kia… Ở một mức độ nhất định, pháp luật Việt Nam đã
tiệm cận với quan niệm chung về giao kết hợp đồng của các nước
trên thế giới, ví dụ về lời mời giao kết hợp đồng, đề nghị giao kết
hợp đồng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, về xử lý vi phạm
đối với hành vi xâm phạm quan hệ tiền hợp đồng…
11


Để xác lập đề nghị giao kết hợp đồng và sau đó là hình thành
một hợp đồng, các bên còn cần tiến hành các quá trình đàm phán,
thương lượng để xác lập hợp đồng. Nhìn một cách tổng quát, có thể
thấy pháp luật Việt Nam đã xác lập một số cơ sở pháp lý quan trọng
đối với việc điều chỉnh quan hệ tiền hợp đồng. Những cơ sở pháp lý
này thể hiện trước hết thông qua quy định về bồi thường thiệt hại,
việc ghi nhận nguyên tắc trung thực, thiện chí, tự do giao kết hợp
đồng, những trường hợp hợp đồng để được giao kết cần phải có sự
chấp thuận trước, các quy định về quảng cáo, triển lãm, trưng bày,
giới thiệu hàng hoá…
Cần lưu ý là khi giao kết hợp đồng, các bên không chỉ có
quyền xác định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng, mà còn có
quyền thoả thuận thời điểm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng. Đối
chiếu với pháp luật và thông lệ quốc tế, có thể nhận thấy còn nhiều
khoảng trống trong pháp luật Việt Nam về việc điều chỉnh đối với
quan hệ đề nghị giao kết hợp đồng. Có thể nhận thấy những thiếu hụt
này ở những điểm sau đây:

Thứ nhất, pháp luật Việt Nam chưa có những quy định về lời
mời đưa ra đề nghị giao kết hợp đồng và giá trị pháp lý của những lời
mời này.
Thứ hai, pháp luật Việt Nam chưa làm rõ về giá trị pháp lý
của các quan hệ có tính chất tiến triển hướng tới việc giao kết hợp
đồng nhưng trên thực tế hợp đồng không được giao kết. Trong
trường hợp có các quan hệ có tính chất tiến triển hướng tới việc giao
kết hợp đồng nhưng trên thực tế hợp đồng không được giao kết do
một bên tự động chấm dứt và làm ảnh hưởng tới bên kia thì các quan
hệ này có tính chất ràng buộc hay không đối với các bên chưa được
làm rõ trong luật pháp Việt Nam.
12


Thứ ba, pháp luật Việt Nam chưa xác định cụ thể giá trị pháp
lý của các thoả thuận đạt được trong quá trình đàm phán hợp đồng.
2.1.2. Thực trạng pháp luật Việt Nam về xử lý xung đột
pháp luật và lựa chọn luật áp dụng đối với hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế
Bộ luật Dân sự đó ghi nhận cách thức áp dụng pháp luật Việt
Nam, điều ước quốc tế, pháp luật nước ngoài và tập quán quốc tế đối
với các giao dịch có yếu tố nước ngoài. Theo Bộ luật, các quy định
của pháp luật Việt Nam được áp dụng đối với quan hệ có yếu tố
nước ngoài, trừ trường hợp Bộ luật có quy định khác. Trong trường
hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định khác
với quy định của Bộ luật Dân sự thì áp dụng quy định của điều ước
quốc tế đó. Trong trường hợp Bộ luật Dân sự, các văn bản pháp luật
khác của Việt Nam hoặc điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên
dẫn chiếu đến việc áp dụng pháp luật nước ngoài thì pháp luật của
nước đó được áp dụng, nếu việc áp dụng hoặc hậu quả của việc áp

dụng không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
Trường hợp pháp luật nước đó dẫn chiếu trở lại pháp luật Việt Nam
thì áp dụng pháp luật Việt Nam. Pháp luật nước ngoài cũng được áp
dụng trong trường hợp các bên thoả thuận trong hợp đồng, nếu sự
thoả thuận đó không trái với quy định của Bộ luật Dân sự và các văn
bản pháp luật khác của Việt Nam. Và trong trường hợp quan hệ có
yếu tố nước ngoài không được Bộ luật Dân sự, các văn bản pháp luật
khác của Việt Nam, điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên
hoặc hợp đồng giữa các bên điều chỉnh thì áp dụng tập quỏn quốc tế,
nếu việc áp dụng hoặc hậu quả của việc áp dụng không trái với các
nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam [1, Điều 759].
13


Thực tế cho thấy, đã có một số trường hợp doanh nghiệp
Việt Nam giao kết hợp đồng với một doanh nghiệp nước ngoài và
các bên thoả thuận áp dụng Công ước Viên năm 1980 về mua bán
hàng hoá quốc tế. Hiện tại, Việt Nam chưa phải là thành viên của
Công ước Viên về mua bán hàng hoá quốc tế, tuy nhiên, các doanh
nghiệp Việt Nam vẫn có thể lựa chọn Công ước Viên về mua bán
hàng hoá quốc tế là nguồn luật điều chỉnh hợp đồng. Điều này được
giải thích dựa trên các căn cứ sau:
Một là, việc lựa chọn Công ước Viên về mua bán hàng hoá
quốc tế sẽ giúp doanh nghiệp Việt Nam tránh được những khó khăn
nảy sinh khi phải đàm phán lựa chọn luật quốc gia làm nguồn luật
điều chỉnh hợp đồng. Thực tế cho thấy việc lựa chọn luật quốc gia
làm luật điều chỉnh hợp đồng thường gặp nhiều khó khăn do bất
đồng giữa các bên. Tất nhiên, Công ước Viên không phải là công cụ
vạn năng để có thể bao quát mọi vấn đề liên quan đến giao kết hợp
đồng mua bán hàng hoá với thương nhân nước ngoài, nhưng việc áp

dụng Công ước Viên giúp tạo lập một sự hiểu biết chung giữa các
bên tham gia giao kết hợp đồng.
Hai là, các quy định của Công ước Viên về mua bán hàng
hoá quốc tế phù hợp với tập quán thương mại quốc tế. Công ước
Viên thường được các doanh nghiệp và toà án, trọng tài quốc tế dẫn
chiếu tới khi giải quyết tranh chấp. Chẳng hạn, trong vụ kiện giữa
Công ty TNHH Ng Nam Bee (Xingapo) và Công ty Thương mại Tây
Ninh (Việt Nam), Toà án đã dựa vào Công ước Viên về mua bán
hàng hoá quốc tế để phán xử vụ việc, cụ thể là các Điều 29, 53, 61(3)
và 64 (1) của Công ước Viên về mua bán hàng hoá quốc tế [110].
Ba là, Công ước Viên về mua bán hàng hoá quốc tế là nguồn
luật phổ biến nhất điều chỉnh quan hệ mua bán hàng hoá với thương
14


nhân nước ngoài. Công ước Viên đã được các bên viện dẫn để áp
dụng với tư cách là nguồn luật điều chỉnh hợp đồng chủ yếu.
Như vậy, pháp luật Việt Nam đã có những quy định liên
quan xử lý xung đột pháp luật và lựa chọn luật áp dụng trong giao
kết hợp đồng mua bán hàng hoá với thương nhân nước ngoài. Tuy
nhiên, nhìn tổng thể có thể thấy, các quy định này chưa đầy đủ và
chưa tạo lập được cơ sở pháp lý cần thiết trong xử lý xung đột pháp
luật và lựa chọn luật áp dụng đối với việc giao kết hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế. Do đó, yêu cầu tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và
hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực này vẫn là nội dung quan trọng
trong nghiên cứu pháp luật Việt Nam hiện nay.
2.1.3. Thực trạng các quy định pháp luật về điều kiện có
hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế
Pháp luật Việt Nam không có dành riêng những phần quy định
về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hoá với thương

nhân nước ngoài. Các quy định về điều kiện có hiệu lực của giao
dịch và hợp đồng được xác định chung cho các loại hợp đồng. Theo
Bộ luật Dân sự, giao dịch có hiệu lực khi đáp ứng đầy đủ các điều
kiện đó là: (a) Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự;
(b) Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của
pháp luật, không trái đạo đức xã hội; (c) Người tham gia giao dịch
hoàn toàn tự nguyện; (d) Hình thức của giao dịch nếu pháp luật quy
định hình thức giao dịch là điều kiện có hiệu lực của giao dịch.
Các yêu cầu về điều kiện hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng
hoá với thương nhân nước ngoài về cơ bản cũng được xem xét với
các nội dung sau đây:
+ Yêu cầu về hình thức của hợp đồng;
+ Yêu cầu về nội dung của hợp đồng;
15


+ Yêu cầu về chủ thể của hợp đồng;
+ Yêu cầu về đối tượng của hợp đồng
Cách quy định này của pháp luật Việt Nam có nét tương đồng
với pháp luật Trung Quốc. Luật Hợp đồng Trung Quốc không quy
định về các điều khoản chủ yếu của hợp đồng mà quy định rằng, các
điều khoản của hợp đồng do các bên ấn định. Theo Luật Hợp đồng
Trung Quốc, các điều khoản do các bên ấn định thông thường bao
gồm: Tên của các bên và địa chỉ của họ; Đối tượng hợp đồng; Số
lượng; Chất lượng; Giá cả hoặc mức thù lao; Thời gian, địa điểm và
phương thức thực hiện hợp đồng; Các trách nhiệm do vi phạm hợp
đồng; Phương thức giải quyết tranh chấp [62, điều 12]. Như vậy,
pháp luật Việt Nam có sự thay đổi so với trước đây khi không quy
định điều khoản chủ yếu của hợp đồng mà dành quyền thoả thuận
các điều khoản hợp đồng cho các bên. Điều này thể hiện sự tôn trọng

và đề cao ý chí tự nguyện của các bên khi thoả thuận các điều khoản
của hợp đồng.
2.2. Thực tiễn giao kết Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
của Tập đoàn công nghiệp cao su Việt Nam
2.2.1. Mục tiêu và Chiến lược phát triển của Tập đoàn cao su
Việt Nam
Về giải pháp để thực hiện kế hoạch giai đoạn 2016-2020, cần
tăng cường các giải pháp kỹ thuật, trong đó chú trọng đến trồng,
chăm sóc, khai thác và chế biến mủ cao su; phát huy những lợi thế,
tiếp tục đổi mới cơ chế, đa dạng hóa hoạt động sản xuất kinh doanh,
áp dụng những thành tựu khoa học - công nghệ mới với mục tiêu
tăng năng suất lao động; dự báo tốt thị trường để linh hoạt điều chỉnh
các chủng loại sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị trường và có giá trị
gia tăng cao để tăng doanh thu và hiệu quả; sử dụng đúng mục đích,
16


hiệu quả và phù hợp với quy định nguồn vốn tự có của Tập đoàn và
nguồn vốn tích lũy hàng năm. Mở rộng quan hệ với các định chế tài
chính trong và ngoài nước để huy động nguồn cho các dự án thông
qua nhiều hình thức như vay hợp vốn, phát hành trái phiếu…; thực
hiện tốt công tác đào tạo cho lao động trực tiếp, tăng cường đội ngũ
quản lý kỹ thuật cấp công ty và nông trường để xây dựng chương
trình nâng cấp vườn cây trong thời gian sớm nhất.
2.2.2. Những vấn đề pháp lý khi giao kết Hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế của Tập đoàn công nghiệp cao su Việt Nam
Có thể khẳng định rằng, do đặc điểm của hàng hóa là cao su
nên phần lớn cao su ở Việt Nam được xuất khẩu và hơn thế là mặt
hàng xuất khẩu chiến lược của Việt Nam trong thời gian qua. Do chủ
yếu là xuất khẩu mủ cao su dưới dạng bán thành phẩm nên khách

hàng chủ yếu là các doanh nghiệp đến từ các quốc gia: Trung Quốc,
Hàn Quốc, các quốc gia trong ASEAN và một số quốc gia Nam Âu.
Từ thực tiễn giao kết Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
của Tập đoàn công nghiệp cao su Việt Nam đã cho thấy các vấn đề
pháp lý cần lưu ý như sau:
-

Về luật điều chỉnh hợp đồng (luật áp dụng cho hợp

đồng):
Luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế mang
tính chất đa dạng và phức tạp. Điều này có nghĩa là hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế có thể phải chịu sự điều chỉnh không phải chỉ
của luật pháp nước đó mà cả của luật nước ngoài (luật nước người
bán, luật nước người mua hoặc luật của bất kỳ một nước thứ ba nào),
thậm chí phải chịu sự điều chỉnh của điều ước quốc tế, tập quán
thương mại quốc tế hoặc cả án lệ (tiền lệ pháp) để điều chỉnh hợp
đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
17


Nếu có tranh chấp xảy ra, bất lợi sẽ rơi vào doanh nghiệp
không có khả năng bảo mật và kiểm soát việc sử dụng các phương
tiện điện tử, bởi vì, bằng chứng để chứng minh nhằm ràng buộc bên
có hành vi mạo nhận hoặc lừa đảo là rất khó khăn và tốn kém. Nói
chung, các toà án sẽ không bắt giữ các cá nhân hoặc tổ chức bị mạo
danh với các điều khoản của hợp đồng, tuy nhiên nếu do tính cẩu thả
của các cá nhân hoặc tổ chức này khiến cho việc giả mạo phát triển
tới mức thành lừa đảo thì họ có thể bị toà án buộc tội cho việc phá vỡ
hợp đồng. Ví dụ, nếu một công ty cẩu thả trong việc bảo vệ mật khẩu

và khiến cho người giả mạo dễ dàng gia nhập vào hệ thống của công
ty và chấp nhận đơn chào hàng, toà án có thể bắt công ty này phải
thực hiện hợp đồng.
Kết luận chương 2
Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, pháp luật về giao
kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế đóng vai trò quan trọng.
Nhìn chung, pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc
tế của Việt Nam đã thể hiện được những thay đổi tích cực phù hợp
với điều kiện hoàn cảnh Việt Nam và nhiều quy định phù hợp với
pháp luật và thông lệ quốc tế... Tuy nhiên, vẫn còn những tồn tại
trong việc ban hành và thực hiện pháp luật về giao kết hợp đồng./.
này trong điều kiện hiện hành ở Việt Nam. Do đó, yêu cầu hoàn
thiện pháp luật Việt Nam để tăng cường vai trò của pháp luật về giao
kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế trong thực tiễn đang là vấn
đề cấp thiết hiện nay.

18


CHƯƠNG 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
GIAO KẾT HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1 . Những định hướng cơ bản của việc hoàn thiện pháp
luật Việt Nam về giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế
Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh
tế quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ ở Việt Nam hiện nay, việc hoàn
thiện pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là
một yêu cầu mang tính tất yếu khách quan, đồng thời cần phải đảm
bảo các định hướng cơ bản sau đây:

3.1.1 Thể chế hoá đầy đủ, kịp thời đường lối, chính sách của
Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế
Công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng
và lãnh đạo đã mở đường cho sự chuyển đổi nền kinh tế Việt Nam từ
nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung chuyển sang nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước định hướng xã hội chủ nghĩa. Cùng với sự đổi mới về
đường lối kinh tế xã hội trong nước là sự chuyển hướng về đường lối
kinh tế đối ngoại. Đặc biệt, chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế đã có
sự phát triển mới kể từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII [27] đến
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã khẳng định: “Đẩy nhanh quá
trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới“ [28].
Trên cơ sở quan điểm chỉ đạo của Đảng về hội nhập kinh tế
quốc tế nêu trên, việc hoàn thiện pháp luật thương mại nói chung và
pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá với thương nhân
nước ngoài nói riêng cần tập trung làm rõ những vấn đề sau:
19


Một là, hội nhập kinh tế quốc tế và phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau.
Hai là, xây dựng pháp luật thương mại nói chung và pháp luật
về giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá với thương nhân nước ngoài
nói riêng phù hợp với pháp luật và thông lệ quốc tế, nhưng phải đảm
bảo định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam.
3.1.2 Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hoá
quốc tế cần đảm bảo sự phù hợp với các đặc điểm của nền kinh tế
Việt Nam
Việc hoàn thiện pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc

tế cần được thực hiện trên cơ sở những điều kiện kinh tế, xã hội đặc
thù của Việt Nam, phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa những mục tiêu
cơ bản lâu dài với việc đáp ứng nhu cầu giải quyết những nhiệm vụ
cơ bản trước mắt. Việc xây dựng pháp luật về hợp đồng mua bán
hàng hoá quốc tế cần quán triệt được phương châm là tự do hoá
thương mại, mở rộng phạm vi các chủ thể trong hoạt động kinh
doanh và đảm bảo quyền bình đẳng của các thương nhân trong hoạt
động thương mại, kết hợp với lợi ích chung vì công bằng và tiến bộ
xã hội, trên cơ sở phù hợp với những đặc điểm kinh tế, xã hội của
Việt Nam.
3.1.3 Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hoá
quốc tế cần đảm bảo sự phù hợp với pháp luật, thông lệ quốc tế và
cần phải đặt trong giải pháp tổng thể với việc hoàn thiện hệ thống
pháp luật thương mại
- Việc tiếp tục khắc phục những khiếm khuyết của hệ thống
pháp luật nhằm thúc đẩy hoạt động thương mại và sự tự do hoá
thương mại, từ đó tạo dựng môi trường pháp lý thuận lợi nhằm thúc
20


đẩy mạnh mẽ hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế là nhiệm vụ quan
trọng hiện nay. Để làm được điều đó, trước hết Nhà nước cần có
chiến lược đồng bộ để xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh
để đồng bộ hoá và phối hợp các hoạt động lập pháp, thi hành pháp
luật, giáo dục pháp luật, thông tin pháp luật, và phổ biến pháp luật,
trong đó có pháp luật về thương mại.
3..2. Những giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện pháp luật
Việt Nam về giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế
3.2.1. Hoàn thiện các quy định về quan hệ tiền hợp đồng
trong giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế

Để hoàn thiện pháp luật Việt Nam về quan hệ tiền hợp đồng
trong giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế, cần thực hiện
những biện pháp sau đây:
Một là, xây dựng và ban hành quy định về lời mời đưa ra đề
nghị giao kết hợp đồng và giá trị pháp lý của những lời mời.
Hai là, xây dựng và ban hành các quy định về giá trị pháp lý
của các quan hệ có tính chất tiến triển hướng tới việc giao kết hợp
đồng nhưng trên thực tế hợp đồng không được giao kết.
Ba là, xây dựng và ban hành các quy định xác định cụ thể giá
trị pháp lý của các thoả thuận đạt được trong quá trình đàm phán hợp
đồng.
Bốn là, xây dựng và ban hành các quy định về chế độ trách
nhiệm đối với những hành vi xâm phạm quan hệ tiền hợp đồng.
3.2. Hoàn thiện các quy định về xử lý xung đột pháp luật và
lựa chọn luật áp dụng đối với hợp đồng trong giao kết hợp đồng
mua bán hàng hoá quốc tế

21


Thứ nhất, xây dựng và ban hành những quy định cụ thể về lựa
chọn luật áp dụng đối với các quan hệ tiền hợp đồng trong giao kết
hợp đồng có yếu tố nước ngoài.
Thứ hai, xây dựng và ban hành những quy định cụ thể về xác
định luật áp dụng, chế độ trách nhiệm đối với một số trường hợp liên
quan đến lời mời đưa ra đề nghị giao kết hợp đồng.
Thứ ba, xây dựng và ban hành những quy định cụ thể về luật
áp dụng đối với hoạt động quảng cáo, trưng bày giới thiệu hàng hoá,
hội chợ, triển lãm thương mại…
Thứ tư, xây dựng và ban hành những quy định cụ thể về lựa

chọn luật áp dụng đối với quan hệ tiền hợp đồng.
Thứ năm, thực tiễn áp dụng pháp luật ở Việt Nam cần làm
quen với các nguyên tắc đã được áp dụng phổ biến trên thế giới.
Thứ sáu, ban hành những quy định thống nhất về mối quan hệ
giữa luật quốc gia và luật quốc tế trong việc điều chỉnh hợp đồng
mua bán hàng hoá quốc tế.
Thứ bảy, thực hiện tuyên truyền phổ biến việc áp dụng pháp
luật và tập quán thương mại quốc tế.
Thứ tám, làm quen với việc hiểu và áp dụng Incoterms với tư
cách là một tập quán thương mại quốc tế.
3.2.3. Hoàn thiện các quy định về điều kiện có hiệu lực của
hợp đồng trong giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế
Để hoàn thiện pháp luật Việt Nam về điều kiện có hiệu lực của
hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế, cần thực hiện các giải pháp sau
đây:
Thứ nhất, đối với các quy định pháp luật về hàng hoá là đối
tượng của hợp đồng mua bán hàng hoá với thương nhân nước ngoài,
cần nhanh chóng bổ sung, xây dựng hệ thống tiêu chuẩn Việt Nam
22


về tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh an toàn thực phẩm đầy đủ và phù hợp
với tiêu chuẩn quốc tế.
Thứ hai, đối với các quy định pháp luật về chủ thể của hợp
đồng mua bán hàng hoá với thương nhân nước ngoài.
Thứ ba, đối với các quy định pháp luật về nội dung của hợp
đồng mua bán hàng hoá với thương nhân nước ngoài, cần làm rõ hiệu
lực của những giao dịch kinh doanh với nước ngoài có tính hợp pháp
nhưng lại trái với các quy tắc đạo đức.
3.2.4. Thực hiện hợp lý các điều ước quốc tế liên quan đến

hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế
Để thực hiện điều này, Việt Nam cần tuân thủ các điều ước
quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Kết luận chương 3
Việc hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán
hàng hoá quốc tế trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện nay là vấn
đề cấp bách và có tầm quan trọng đặc biệt. Trong Chương 3, trên cơ
sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đã phân tích để làm rõ
các định hướng và giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện pháp luật, đảm
bảo tính khả thi của pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán hàng
hoá quốc tế, từng bước nâng cao hiệu quả của việc áp dụng pháp luật
trong điều kiện hiện hành ở Việt Nam.

23


×