Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Đối tác công tư trong thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ trọng điểm quốc gia (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (496.29 KB, 26 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
VIỆN CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

ĐỖ THỊ HỒNG GIANG

ĐỐI TÁC CÔNG TƯ TRONG THỰC HIỆN
NHIỆM VỤ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
TRỌNG ĐIỂM QUỐC GIA

Chuyên ngành: Quản lý Khoa học và Công nghệ
Mã số

: 60.34.02.12

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ
QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

HÀ NỘI, 2017


CÔNG TRÌNH ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VIỆN CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN NGỌC SONG


Phản biện 1:
Phản biện 2:
Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận
văn Thạc sĩ họp tại: Học viện Khoa học xã hội
....giờ...................ngày...................tháng...............năm...
Có thể tìm hiểú Luận văn tại:
- Thư viện Học viện Khoa học xã hội;
- Thư viện Viện Chiến lược và Chính sách Khoa
học
và Công nghệ.


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày 14/02/2015, Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành Nghị
định số 15/2015/NĐ-CP quy định về đầu tư theo hình thức đối tác
công - tư (sau đây gọi tắt là PPP). Trước đây đầu tư theo hình thức PPP
chủ yếu được nói đến trong phát triển cơ sở hạ tầng, xây dựng đường
sá, nhà máy phát điện hay cấp thoát nước… nhưng hiện nay khái niệm
này đã mở rộng ra nhiều lĩnh vực trong đó có KH&CN. Gần đây nhất,
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1931/QĐ-TTg ngày
07/10/2016 phê duyệt Đề án “Thí điểm cơ chế đối tác công - tư, đồng
tài trợ thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ”. Câu hỏi đặt ra là
tại sao cần phải áp dụng cơ chế đối tác công – tư trong thực hiện nhiệm
vụ KH&CN? Thực tế hiện nay đối với việc đầu tư tạo ra sản phẩm
mới, nhiều doanh nghiệp hoàn toàn có khả năng tự thực hiện. Tuy
nhiên, làm như vậy doanh nghiệp có thể chịu nhiều rủi ro nên vẫn
muốn có sự tham gia của các doanh nghiệp khác và sự hỗ trợ của Nhà
nước để chia sẻ rủi ro. Vì vậy, PPP sẽ mang lại lợi ích cho doanh
nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ muốn đổi mới công

nghệ, là điều kiện giúp doanh nghiệp chủ động thực hiện nhiệm vụ về
KH&CN. Ngoài ra, PPP còn là công cụ để giúp Nhà nước thực hiện
tốt nhiệm vụ của mình, tụ hợp mọi nguồn lực giải quyết vấn đề
KH&CN trung và dài hạn mang tính chiến lược then chốt, cốt lõi của
ngành, quốc gia. Từ những vấn đề nêu trên cho thấy việc áp dụng cơ
chế đối tác công tư trong thực hiện nhiệm vụ KH&CN hiện nay là hết
sức cần thiết, với mục đích tạo cơ chế hợp tác bình đẳng về quyền lợi
và trách nhiệm giữa Nhà nước và doanh nghiệp, khuyến khích doanh
nghiệp tham gia thực hiện nhiệm vụ, chia sẻ rủi ro và đảm bảo được
hiệu quả đầu tư. Trong khuôn khổ luận văn, tác giả xin chọn đề tài

1


“Đối tác công tư trong thực hiện nhiệm vụ khoa học và công
nghệ trọng điểm quốc gia” làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đầu tư theo hình thức PPP đã xuất hiện khá sớm trên thế giới
và thực tiễn áp dụng cũng rất phong phú. Tại Việt Nam, mô hình này
còn khá mới mẻ và chủ yếu được triển khai trong phát triển cơ sở hạ
tầng, xây dựng đường sá, nhà máy phát điện hay cấp thoát nước…Liên
quan đến vấn đề này có một số đề tài, bài viết. Tuy nhiên, có thể
khẳng định đến thời điểm này chưa có đề tài luận văn thạc sĩ nào
nghiên cứu về đối tác công tư trong thực hiện nhiệm vụ khoa học và
công nghệ trọng điểm quốc gia.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về PPP trong thực hiện
nhiệm vụ KH&CN trọng điểm quốc gia. Đề xuất giải pháp thúc đẩy
PPP trong thực hiện nhiệm vụ KH&CN trọng điểm quốc gia.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, tác giả cần làm rõ những
vấn đề sau:
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về PPP.
- Phân tích thực trạng PPP thực hiện nhiệm vụ KH&CN trọng
điểm quốc gia ở Việt Nam.
- Đề xuất giải pháp thúc đẩy PPP trong thực hiện nhiệm vụ
KH&CN trọng điểm quốc gia ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu cơ chế đối tác giữa khu vực công và khu vực tư
trong thực hiện nhiệm vụ KH&CN trọng điểm quốc gia.

2


4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu, phân tích số liệu về đầu tư từ
ngân sách nhà nước và tình hình thu hút vốn đầu tư ngoài ngân sách
thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ trọng điểm quốc gia giai
đoạn 2011-2015. Nghiên cứu cơ chế, chính sách áp dụng đối tác công
tư trong hoạt động KH&CN nói chung và thực hiện nhiệm vụ
KH&CN trọng điểm quốc gia nói riêng.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
- Phương pháp kế thừa các kinh nghiệm, thực tiễn đã có.
- Phương pháp nghiên cứu định tính.
- Hồi cứu tài liệu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận

Hệ thống hóa những vấn đề lý luận liên quan đến cơ chế PPP
hiện nay. Đề xuất những giải pháp thúc đẩy PPP trong thực hiện
nhiệm vụ KH&CN trọng điểm quốc gia.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Qua nghiên cứu và phân tích các vấn đề lý luận về cơ chế PPP
hiện nay, phân tích thực trạng và các chính sách đầu tư từ NSNN và
thu hút đầu tư ngoài NSNN cho các nhiệm vụ KH&CN quốc gia, tác
giả đề xuất một số giải pháp thúc đẩy PPP trong thực hiện nhiệm vụ
khoa học và công nghệ trọng điểm quốc gia. Thông qua cơ chế này
tạo ra sự hợp tác bình đẳng về lợi ích, chia sẻ rủi ro giữa khu vực
công và khu vực tư, khuyến khích các đối tác tư nhân tham gia thực
hiện nhiệm vụ KH&CN và kết quả cuối cùng là tạo ra các sản phẩm
chủ lực có năng lực cạnh tranh trong nền kinh tế, đảm bảo được hiệu
quả đầu tư từ NSNN.

3


7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham
khảo và các biểu số liệu, nội dung chính của Luận văn gồm có 3
chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về đối tác công tư trong lĩnh vực
khoa học và công nghệ.
Chương 2: Thực trạng đối tác công tư thực hiện nhiệm vụ
khoa học và công nghệ trọng điểm quốc gia ở Việt Nam.
Chương 3: Đề xuất giải pháp thúc đẩy đối tác công - tư trong
thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ trọng điểm quốc gia.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỐI TÁC CÔNG TƯ TRONG

LĨNH VỰC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
1.1. Cơ sở lý luận chung về đối tác công tư - PPP (Pupblic
– Private – Partnership)
1.1.1. Khái niệm về đối tác công tư và một số khái niệm chính
liên quan đến đối tác công tư
Đối tác công tư (PPP): PPP là sự cộng tác giữa khu vực công
và khu vực tư nhân dựa trên một hợp đồng để cung cấp tài sản hoặc
dịch vụ, trong đó phân định hợp lý vai trò và chia sẻ công bằng trách
nhiệm, chi phí và rủi ro giữa khu vực công và khu vực tư.
Đầu tư theo hình thức đối tác công tư: Đầu tư theo hình thức
đối tác công tư là hình thức đầu tư được thực hiện trên cơ sở hợp
đồng giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư, doanh
nghiệp dự án để thực hiện, quản lý, vận hành dự án kết cấu hạ tầng,
cung cấp dịch vụ công.

4


Quan hệ đối tác công tư (PPP): Quan hệ này được dùng để
chỉ quan hệ hợp đồng giữa khu vực tư nhân (hoạt động vì lợi nhuận
hoặc phi lợi nhuận) và khu vực công trong việc cung cấp những loại
hàng hoá thường do khu vực công cung cấp.
Khu vực công: Tất cả các cơ quan, Chính phủ ở cấp Trung
ương hoặc địa phương cũng như tất cả các công ty, tổng công ty và tập
đoàn do Chính phủ sở hữu, quản lý, vận hành (Doanh nghiệp nhà
nước) đều được coi là thuộc về khu vực công. Các nhà tài trợ quốc tế
hỗ trợ cho ngân sách cũng được xem là khu vực công.
Khu vực tư nhân: Bao gồm tất cả các đơn vị, doanh nghiệp hoạt
động vì mục đích lợi nhuận không thuộc sở hữu hoặc điều hành bởi
Chính phủ. Các tổ chức từ thiện và các tổ chức phi lợi nhuận không

thuộc sở hữu hoặc điều hành của Chính phủ cũng được xem là một
phần thuộc khu vực tư nhân tự nguyện.
Hàng hoá, dịch vụ công: Bản chất chung nhất của hàng hoá
công là nó có thể phục vụ, đáp ứng nhu cầu và lợi ích của nhiều người
cùng một lúc. Hàng hoá công có hai loại thuộc tính cơ bản là không có
tính cạnh tranh và không có tính loại trừ.
1.1.2. Đặc điểm của cơ chế đối tác công - tư
PPP là tổng hợp của các nhân tố sau:
(i) Là sự cộng tác giữa khu vực công và khu vực tư dựa trên
một hợp đồng dài hạn để cung cấp hàng hóa hoặc dịch vụ;
(ii) Phân bổ hợp lý về lợi ích, chi phí, rủi ro và trách nhiệm
giữa hai khu vực;
(iii) Kết quả mong đợi là hiệu quả về chất lượng hàng hóa/dịch
vụ và sử dụng vốn;
(iv) Đối tác tư nhân thực hiện việc thiết kế, xây dựng, tài trợ
vốn và vận hành;

5


(v) Đối tác công chú trọng vào việc xác định các mục tiêu cần
đạt được;
(vi) Việc thanh toán thực hiện trong suốt thời gian hợp đồng
(thanh toán theo mức độ sử dụng).
1.1.3. Các hình thức đối tác công tư
Các hình thức PPP phổ biến trên thế giới hiện nay bao gồm:
(1) Nhượng quyền khai thác (Franchise).
(2) Mô hình thiết kế - xây dựng - tài trợ - vận hành DBFO
(Design-Build - Finance - Operate).
(3) Xây dựng - vận hành - chuyển giao BOT (Build - Operate

– Transfer.
(4) Mô hình BTO xây dựng - chuyển giao - vận hành (Build Transfer - Operate)
(5) phương thức xây dựng - sở hữu - vận hành BOO (Build Own – Operate.
1.1.4. Các dạng hợp đồng đầu tư theo hình thức đối tác công tư
- Hợp đồng Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao (BOT)
- Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao - Kinh doanh (BTO)
- Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao (BT)
- Hợp đồng Xây dựng - Sở hữu - Kinh doanh (BOO)
- Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao - Thuê dịch vụ (BTL)
- Hợp đồng Xây dựng - Thuê dịch vụ - Chuyển giao (BLT)
- Hợp đồng Kinh doanh - Quản lý (O&M)
1.1.5. Tính vượt trội của đầu tư theo hình thức đối tác công
tư so với các hình thức đầu tư truyền thống
Hình thức đầu tư truyền thống được tài trợ từ thuế và nợ công.
Nhà nước tài trợ toàn bộ chi phí, bao gồm cả chi phí vượt trội. Đầu tư
theo hình thức truyền thống, thời gian chuẩn bị và thực hiện dự án

6


thường bị kéo dài dẫn đến chi phí đầu tư thực tế trượt xa dự toán ban
đầu. Bên cạnh đó, các chi phí vận hành và bảo dưỡng biến động khó
xác định nên hiệu quả đầu tư rất thấp.
Đối với PPP, chi phí đầu tư là ổn định, ít phát sinh do đã được
xác định và phê duyệt ngay từ đầu và Chính phủ chỉ thanh toán khi có
dịch vụ. Chính phủ sẽ xác định những yêu cầu đối với dự án, giao cho
tư nhân thiết kế, tài trợ, xây dựng và vận hành dự án đáp ứng các tiêu
chí dự án trong dài hạn. Doanh nghiệp dự án sẽ nhận được khoản thanh
toán trong suốt vòng đời của hợp đồng PPP (trung bình 25 năm) theo
một thỏa thuận trước và không trả thêm cho phần vượt dự toán

1.1.6. Những thuận lợi và hạn chế của PPP
1.1.6.1. Những thuận lợi khi áp dụng PPP
- Tạo ra nhiều khoản đầu tư hơn cho cơ sở hạ tầng, dịch vụ công.
- Tạo ra sự ổn định và tăng trưởng cho khu vực tư nhân.
- Phân bổ và quản lý rủi ro tốt hơn và hiệu quả hơn.
- Cải thiện chất lượng dịch vụ cung cấp.
- Nâng cao khả năng quản lý công.
- Uy tín về mặt chính trị tốt hơn cho Nhà nước
1.1.6.2. Những hạn chế khi áp dụng PPP
- Gây ra chi phí cao hơn.
- Làm giảm tính cạnh tranh.
- Thiếu năng lực và những rủi ro chính trị
- Thách thức mang tên "quyền kiểm soát".
- Tính minh bạch và trách nhiệm giải trình thấp.
- Thời gian dài hơn.
1.2. Đối tác công tư trong lĩnh vực khoa học và công nghệ
1.2.1. Khái niệm PPP trong hoạt động khoa học, công nghệ
và đổi mới (STI)

7


Trong các tài liệu của OECD về khoa học công nghệ và đổi
mới sáng tạo, PPP được định nghĩã là “bất kỳ hình thức thỏa thuận
hợp tác chính thức nào trong một khoảng thời gian cố định hoặc
không hạn định giữa các đối tác nhà nước và tư nhân, trong đó cả hai
bên cùng tương tác trong quá trình ra quyết định và cùng đầu tư các
nguồn lực khan hiếm như tiền bạc, nhân lực, phương tiện và thông tin
nhằm đạt được các mục tiêu cụ thể trong hoạt động STI”. PPP trong
STI chính là các bên đóng góp nguồn lực cùng nhau tham gia thực

hiện một hoặc một số dự án nào đó. Điều kiện đảm bảo tính bền vững
của PPP là nguyên tắc tự nguyện, vì lợi ích căn bản của các bên.
1.2.2. Ý nghĩa của PPP trong hoạt động khoa học, công nghệ
và đổi mới
Có thể thấy PPP là một công cụ hữu ích để thúc đẩy hợp tác
nghiên cứu giữa khu vực công và khu vực tư. Việc áp dụng PPP trong
hoạt động STI có một số ý nghĩa như sau: (i) PPP có tác động lâu dài
đến hành vi của các nhà nghiên cứu công và tư; (ii) PPP là công cụ huy
động các nguồn lực tài chính và năng lực tư nhân trong việc thực hiện
các nhiệm vụ của Chính phủ; (iii) PPP mang lại cho doanh nghiệp
tham gia khả năng tiếp cận dễ dàng hơn đến các kết quả nghiên cứu
công; (iv) PPP đóng vai trò quan trọng trong việc liên kết các doanh
nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) với nghiên cứu khoa học.
1.2.3. Vai trò của Chính phủ và các tương tác công tư trong
hoạt động khoa học công nghệ và đổi mới
1.2.3.1. Vai trò của Chính phủ
Các chính sách và quy định của Chính phủ có ảnh hưởng đến
động lực đổi mới sáng tạo theo nhiều cách khác nhau. Chính phủ đóng
vai trò quan trọng trong việc điều hành PPP để đảm bảo rằng nguồn

8


kinh phí công được sử dụng tốt và công cụ PPP là lựa chọn tốt nhất
trong việc đáp ứng các mục tiêu của Chính phủ.
1.2.3.2. Các tương tác công tư trong STI
Một cách khái quát, tương tác giữa các thực thể thuộc khu vực
công va khu vực tư có thể phân theo các tiêu chí sau đây:
- Chính thức hay không chính thức;
- Khung thời gian;.

- Tham vọng;
- Mức độ chuyên biệt.
Về loại hoạt động, PPP trong hoạt động STI có thể thực hiện
gắn với các hoạt động như: (i) nghiên cứu theo đặt hàng; (ii) chương
trình/dự án nghiên cứu chung; (iii) hợp tác khai thác tài sản trí tuệ; (iv)
doanh nghiệp khởi nghiệp từ đại học, viện nghiên cứu và liên doanh
giữa các cơ quan nghiên cứu và doanh nghiệp; (v) tư vấn kỹ thuật; (vi)
trao đổi chuyên gia giữa doanh nghiệp và cơ quan khoa học.
1.3. Đối tác công tư trong hoạt động khoa học, công nghệ
và đổi mới ở một số nước trên thế giới
1.3.1. Đối tác công tư trong hoạt động STI ở Hoa Kỳ
PPP trong hoạt động STI tại Hoa kỳ có thể được hiểu dưới hai
hình thức: (i) Nhà nước tham gia các liên minh nghiên cứu và phát
triển của giới doanh nghiệp; (ii) Doanh nghiệp tham gia hỗ trợ NC&PT
của đại học và cơ quan nghiên cứu nhà nước.
Thực tiễn Hoa Kỳ cho thấy, PPP trong NC&PT một mặt khai
thác được những ưu điểm như huy động được thêm nguồn lực tài
chính cho nghiên cứu, nâng cao tính thực tiễn, khả năng áp dụng của
kết quả nghiên cứu, mặt khác, nó cũng đặt ra nhiều vấn đề cần giải
quyết, như vấn đề sở hữu các tài sản trí tuệ được tạo ra bằng cả hai

9


nguồn tiền, sự hạn chế tính mở của khoa học, khuynh hướng nghiên
cứu khoa học thiên về lợi ích kinh tế mà coi nhẹ lợi ích nhân văn khác.
1.3.2. PPP trong các chương trình khung về khoa học và công
nghệ của Liên minh châu Âu (EU)
PPP trong hoạt động STI đã tồn tại ở các nước thành viên EU từ
khá lâu dưới nhiều hình thức, qui mô và trong các lĩnh vực công nghệ

khác nhau. Tuy nhiên, phải đến giai đoạn 2005-2007, PPP trong hoạt
động khoa học và công nghệ ở EU dưới hình thức các sáng kiến công
nghệ chung (JTIs – Joint Technology Initiatives) mới bắt đầu được bàn
thảo và sau đó được đưa vào nội dung của Chương trình khung thứ 7
của EU về nghiên cứu, phát triển công nghệ và các hoạt động trình
diễn cho giai đoạn 2007-2013.
JTIs được xem như một cách thức mới thực hiện PPP trong hoạt
động STI ở cấp độ châu Âu. JTIs được đề xuất từ các hoạt động của
các Diễn đàn công nghệ Châu Âu (European Technology Platforms –
ETPs), được thành lập theo quyết định của EU với tư cách một cơ
quan “nhà nước’ nhằm hợp thức hóa việc góp vốn của EU với các đối
tác thuộc khu vực tư. Tỷ lệ đóng góp phổ biến trong JTIs là 50:50,
nhưng cũng có những ngoại lệ.
1.3.3. Bài học kinh nghiệm quốc tế từ PPP
Thực tiễn quốc tế cho thấy cách hiểu về PPP trong hoạt động
STI là rất đa dạng. Một thiết kế PPP cụ thể bị chi phối bới nhiều yếu tố
như môi trường pháp lý, năng lực, nhu cầu của các bên tham gia, mục
tiêu đề ra, tỷ lệ phân chia về lợi ích, rủi ro… Để PPP có kết quả tốt cần
những thử nghiệm, những điều chỉnh chính sách, pháp luật liên quan,
làm rõ nguyên nhân, bối cảnh, vấn đề đặt ra với PPP. Từ đó mới tính
đến những phương án triển khai cụ thể.

10


So với PPP trong các lĩnh vực khác, PPP trong khoa học và
công nghệ có một số điểm đặc thù. Thứ nhất, rủi ro khi thực hiện các
dự án có thể được phân bổ khác nhau giữa các đối tác tùy theo các giai
đoạn khác nhau của dự án. Đối tác công có thể chịu trách nhiệm về các
rủi ro liên quan đến phát triển công nghệ mới trong suốt giai đoạn đầu

của dự án/hợp đồng, trong khi đối tác tư nhân sẽ chịu trách nhiệm
thương mại hóa công nghệ khi công nghệ khi công nghệ đã được phát
triển. Thứ hai, trong lĩnh vực phát triển chuỗi giá trị, rủi ro thị trường
thường thuộc về đối tác tư nhân là chính vì khu vực tư nhân thường
phải chịu trách nhiệm đảm bảo thị trường đầu ra.
Chương 2
THỰC TRẠNG ĐỐI TÁC CÔNG TƯ THỰC HIỆN NHIỆM VỤ
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TRỌNG ĐIỂM QUỐC GIA
Ở VIỆT NAM
2.1. Cơ chế tài chính cho hoạt động khoa học và công nghệ
Để thúc đẩy hoạt động KH&CN, các cơ chế tài chính liên
quan đến phát triển KH&CN ở Việt Nam đã không ngừng được hoàn
thiện trên nhiều mặt. Có thể khái quát về các cơ chế tài chính đối với
lĩnh vực KH&CN như sau:
Thứ nhất, đầu tư từ NSNN cho phát triển hoạt động KH&CN
đảm bảo theo Nghị quyết TW2 Khóa VIII là đạt 2% tổng chi NSNN
(tương đương 0,5-0,6% GDP) và đạt tốc độ tăng chi NSNN bình
quân là 17,9% trong giai đoạn 2006-2014, tương đương với tốc độ
tăng tổng chi NSNN. Đến nay, NSNN vẫn là nguồn lực chủ đạo,
chiếm tới 65-70% tổng đầu tư của toàn xã hội cho hoạt động
KH&CN.
Thứ hai, cơ chế trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các
tổ chức khoa học và công nghệ được đẩy mạnh.

11


Thứ ba, các quy định về phân bổ ngân sách, xây dựng dự toán
đề tài, nhiệm vụ KH&CN, định mức, cơ chế khoán sử dụng kinh phí
NSNN cũng đã được hoàn thiện.

Thứ tư, cơ chế chuyển nguồn kinh phí được thực hiện phù hợp
với yêu cầu đặc thù của hoạt động nghiên cứu khoa học.
Thứ năm, hình thành hệ thống các Quỹ trong lĩnh vực
KH&CN để có thể chủ động cấp phát cho các nhiệm vụ KH&CN đột
xuất, phát sinh ở mọi thời điểm trong năm (khác với cơ chế kế
hoạch).
Thứ sáu, khuyến khích các thành phần kinh tế khác đầu tư vào
KH&CN.
2.2. Đầu tư từ ngân sách nhà nước thực hiện nhiệm vụ
khoa học và công nghệ trọng điểm quốc gia giai đoạn 2011-2015
và tình hình huy động vốn ngoài ngân sách cho KH&CN
2.2.1. Nhiệm vụ khoa học và công nghệ trọng điểm quốc gia
Luật khoa học và công nghệ 2013 quy định “Nhiệm vụ khoa
học và công nghệ là những vấn đề khoa học và công nghệ cần được
giải quyết để đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội,
bảo đảm quốc phòng, an ninh, phát triển khoa học và công nghệ”.
Các nhiệm vụ khoa học và công nghệ trọng điểm quốc gia: bao
gồm các nhiệm vụ thuộc Chương trình/Đề án cấp quốc gia về
KH&CN, các Chương trình KH&CN trọng điểm cấp Nhà nước và
các nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp quốc gia khác tập trung vào
nghiên cứu, phát triển hướng công nghệ ưu tiên, phát triển các sản
phẩm trọng điểm, chủ lực của đất nước.
2.2.2. Cơ chế xác định nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp
quốc gia sử dụng ngân sách nhà nưcớc

12


Việc xác định nhiệm vụ KH&CN cấp quốc gia sử dụng NSNN
thực hiện theo quy định tại Thông tư số 07/2014/TT-BKHCN ngày

26/5/2014 của Bộ KH&CN quy định trình tự, thủ tục xác định nhiệm
vụ khoa học và công nghệ cấp quốc gia sử dụng NSNN. Về trình tự,
thủ tục xác định nhiệm vụ theo Thông tư 07/2014/TT-BKHCN về cơ
bản có các bước sau:
- Các cơ quan, tổ chức, cá nhân gửi đề xuất đến Bộ KH&CN;
- Bộ KH&CN thay mặt Nhà nước đưa ra mục tiêu, yêu cầu,
nội dung đặt hàng với tổ chức, cá nhân có đề xuất;
- Bộ KH&CN tổ chức Hội đồng xác định nhiệm vụ và trong
trường hợp cần thiết, lấy thêm ý kiến của chuyên gia tư vấn độc lập;
- Bộ KH&CN phê duyệt danh mục nhiệm vụ KH&CN để đặt
hàng theo tuyển chọn hoặc giao trực tiếp.
2.2.3. Đầu tư từ ngân sách nhà nước thực hiện nhiệm vụ
khoa học và công nghệ trọng điểm quốc gia giai đoạn 2011-2015
Trong Chiến lược phát triển KH&CN giai đoạn 2011-2020 đã
được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 418/QĐ-TTg
ngày 11/4/2012, được cập nhật vào tháng 12 năm 2014, đã xác định
những lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên và các
hướng công nghệ ưu tiên của ngành KH&CN, bao gồm: Công nghệ
thông tin và truyền thông; Công nghệ sinh học; Công nghệ vật liệu
mới; Công nghệ Chế tạo máy - Tự động hóa và Công nghệ môi trường.
Tỷ trọng chi ngân sách cho các nhiệm vụ KH&CN cấp quốc
gia trong giai đoạn 2006-2009 chiếm khoảng 13% tổng chi ngân sách
cho KH&CN; trong một vài năm gần đây tỷ lệ này đã tăng lên trên
15%. Tình trạng này rất cần được cải thiện trong thời gian tới; cần ưu
tiên tăng tỷ trọng phân bổ ngân sách cho các nhiệm vụ KH&CN cấp
quốc gia, đặc biệt là cho các Chương trình/Đề án trọng điểm nhằm

13



tạo được những đột biến về đóng góp của KH&CN trong phát triển
kinh tế xã hội và tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế.
2.2.4. Tình hình huy động vốn ngoài ngân sách nhà nước
cho khoa học và công nghệ
Cho đến nay, mặc dù Bộ KH&CN chưa có số liệu chính xác
về tổng thể huy động vốn đầu tư ngoài ngân sách cho KH&CN qua
các năm nhưng có thể ước tính NSNN vẫn là nguồn đầu tư chính cho
hoạt động KH&CN.
Theo kết quả tổng hợp Điều tra NC&PT 2014 do Bộ KH&CN
thực hiện và Điều tra doanh nghiệp 2014 do Tổng cục Thống kê thực
hiện, cho thấy năm 2013, tổng đầu tư toàn xã hội cho KH&CN là
31.159,2 tỷ đồng, tương đương 0,87% GDP. Như vậy, trong điều
kiện quy mô và trình độ phát triển của nền kinh tế còn thấp, mức đầu
tư của toàn xã hội cho hoạt động KH&CN của Việt Nam hiện nay
còn quá nhỏ bé so với các nước trong khu vực và thế giới. Mức đầu
tư cho NC&PT trung bình của cả thế giới năm 2011 đạt 1,76% GDP;
của Trung Quốc đạt 1,55% GDP, Hàn Quốc 3,4% GDP, Cộng hòa
Liên bang Đức 2,78% GDP, Hoa Kỳ 2,79% GDP, Nhật Bản 3,33%
GDP, Israel 4,25% GDP.
Trong tổng đầu tư xã hội cho KH&CN năm 2013, đầu tư từ
NSNN cho KH&CN là 19.560 tỷ đồng, chiếm 63%; đầu tư từ doanh
nghiệp là 10.454,6 tỷ đồng, chiếm 33%; đầu tư từ vốn nước ngoài là
1.144,6 tỷ đồng, chiếm 4%. Như vậy, có thể thấy đầu tư từ khu vực tư
nhân cho KH&CN còn thấp, tỷ lệ này cần tăng lên trong thời gian tới.
Tỷ trọng chi quốc gia cho NC&PT (GERD) đã tăng đáng kể từ
0,19 % GDP năm 2011 đến 0,37% GDP năm 2013 và 0,44% GDP
năm 2015. Tuy nhiên, tỷ lệ này vẫn còn thấp hơn nhiều so với các
nước phát triển và nhiều nước trong khu vực ASEAN.

14



Đầu tư từ khu vực tư nhân cho NC&PT và cho KH&CN nói
chung còn thấp, chủ yếu tập trung ở các doanh nghiệp nhà nước lớn,
có tiềm lực tài chính.
2.3. Thực trạng đối tác công tư thực hiện nhiệm vụ khoa
học và công nghệ trọng điểm quốc gia hiện nay
2.3.1. Đánh giá chung về thực trạng áp dụng PPP thực hiện
nhiệm vụ khoa học và công nghệ trọng điểm quốc gia hiện nay
Hiện nay, tuy chưa có nhiệm vụ KH&CN nào áp dụng cơ chế
PPP để thực hiện nhưng có nhiều nhiệm vụ triển khai thời gian qua
mang đặc điểm của cơ chế này. Đó là Nhà nước hỗ trợ một phần kinh
phí để thực hiện, phần còn lại do doanh nghiệp đối ứng hoặc huy
động từ nguồn khác để thực hiện. Trong giai đoạn 2011-2016 thực
hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về KH&CN,
Bộ Tài chính đã phối hợp với Bộ KH&CN ban hành các Thông tư
quy định về cơ chế tài chính thực hiện một số nhiệm vụ KH&CN
quốc gia, trong đó bao gồm nội dung quy định về: (i) nguồn kinh phí
thực hiện (từ NSNN và từ các nguồn huy động của tổ chức, cá nhân
tham gia thực hiện chương trình); (ii) nội dung và định mức chi từ
NSNN (có thể được hiểu là phần đóng góp của đối tác công) để thực
hiện các nhiệm vụ KH&CN quốc gia
Qua số liệu phân tích thực trạng đầu tư từ NSNN và tình hình
huy động các nguồn vốn ngoài ngân sách, có thể thấy, đầu tư từ ngân
sách nhà nước cho các nhiệm vụ KH&CN còn khiêm tốn, dàn trải
nhiều đầu mối. Trong khi đó, tiềm năng đầu tư cho KH&CN từ khu
vực tư nhân được cho là rất lớn nhưng chưa được huy động đúng
mức. Sự phối hợp giữa khu vực công và khu vực tư nhân để thực
hiện nhiệm vụ chưa đạt được hiệu quả cao. Ngày 7/10/2016, Thủ
tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1931/QĐ-TTg phê duyệt Đề án


15


thí điểm cơ chế đối tác công – tư đồng tài trợ thực hiện nhiệm vụ
khoa học và công nghệ. Mục tiêu là xây dựng và thực hiện thí điểm
cơ chế đối tác công tư, đồng tài trợ một số Chương trình KH&CN theo
hướng huy động nguồn lực và sự tham gia thực hiện của nhiều đối tác
khác nhau nhằm giải quyết các vấn đề lớn của ngành, lĩnh vực; thúc
đẩy sự hợp tác và gắn kết giữa doanh nghiệp, tổ chức KH&CN, các cơ
quan quản lý nhà nước và các bên liên quan góp phần nâng cao hiệu
quả đầu tư trong hoạt động khoa học và công nghệ
2.3.2. Thực tế triển khai các Chương trình quốc gia về khoa
học và công nghệ và kết quả đạt được
Điểm quan trọng khi triển khai các Chương trình quốc gia là
lấy doanh nghiệp làm trung tâm để đổi mới và ứng dụng KH&CN;
tập trung các nguồn lực đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, đầu tư tới
ngưỡng để hình thành, phát triển các sản phẩm, hàng hóa thương hiệu
Việt Nam bằng công nghệ cao, công nghệ tiên tiến, có khả năng cạnh
tranh về tính mới, về chất lượng và giá thành dựa trên việc khai thác
các lợi thế so sánh về nhân lực, tài nguyên và điều kiện tự nhiên của
đất nước; nâng cao năng lực đổi mới công nghệ của doanh nghiệp và
tiềm lực công nghệ quốc gia.
Việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ KH&CN trọng điểm
nhằm tạo ra các sản phẩm chủ lực quốc gia có ý nghĩa rất lớn đối với
lợi ích cộng đồng và sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Nó không
chỉ mang lại lợi ích, giá trị kinh tế cao cho các đối tác tư nhân tham
gia thực hiện, đồng thời đóng góp giá trị gia tăng lớn cho xã hội. Để
đạt được sự thành công cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước
và các tổ chức thực hiện. Tuy nhiên, một trong các khó khăn khi triển

khai các dự án này là việc tìm kiếm, lựa chọn được các tổ chức chủ

16


trì, doanh nghiệp phù hợp, có đủ năng lực để sẵn sàng đầu tư, phát
triển sản phẩm quốc gia, đảm bảo được giá trị doanh thu từ sản phẩm.
2.3.3. Loại nhiệm vụ khoa học và công nghệ phù hợp áp
dụng cơ chế PPP
Về cơ bản, những nhiệm vụ KH&CN thực hiện theo cơ chế
PPP phải xuất phát từ sứ mệnh, lợi ích của Nhà nước, của cộng đồng
và từ mục tiêu lợi nhuận của đối tác tư nhân. Có thể thấy một số loại
nhiệm vụ KH&CN cần phải được định hướng đầu tư theo hình thức
PPP như:
(i) Các nhiệm vụ hướng tới mục tiêu cuối cùng là tạo ra sản
phẩm, hàng hóa chủ lực quốc gia đem lại lợi ích cho cộng đồng, có
chất lượng và cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Việc tạo ra những
sản phẩm như vậy mang lại lợi ích cho cả khu vực công và khu vực
tư, tạo giá trị gia tăng cho xã hội, đảm bảo hiệu quả đầu tư;
(ii) Các dự án sản xuất thử nghiệm: các dự án này mức độ rủi
ro lớn. Do vậy doanh nghiệp cần chia sẻ rủi ro và nhà nước cũng có
sứ mệnh phải tham gia thực hiện;
(iii) Các nhiệm vụ phát triển công nghệ, đổi mới công nghệ
theo hướng công nghệ ưu tiên. Sự thành công của một công nghệ,
đặc biệt là công nghệ nền tảng có thể mở ra sự phát triển của một
ngành kinh tế mới, mang lại lợi ích lớn cho toàn xã hội.
Việc xác định loại nhiệm vụ KH&CN phù hợp để áp dụng cơ
chế PPP tùy thuộc vào hoàn cảnh cụ thể. Thực tiễn ở nhiều nước,
nhiều tổ chức quốc tế cũng phản ánh sự đa dạng trong cách tiếp cận
đối với PPP trong nghiên cứu, phát triển và đổi mới.


17


Chương 3
ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY ĐỐI TÁC CÔNG
- TƯ TRONG THỰC HIỆN NHIỆM VỤ KHOA HỌC VÀ
CÔNG NGHỆ TRỌNG ĐIỂM QUỐC GIA
3.1. Các bài học được rút ra từ nghiên cứu PPP nói chung
Một số bài học rút ra từ nghiên cứu PPP nói chung có thể khái
quát như sau:
Thứ nhất: Hình thức PPP có phù hợp với tất cả các dự án
không?
Thứ hai: các nhân tố quyết định sự thành công của hình thức
PPP
Thứ ba: Cơ chế phân bổ rủi ro hiệu quả.
Thứ tư: Chính phủ cần tạo môi trường thuận lợi cho hình thức
PPP để thu hút đầu tư tư nhân.
3.2. Đề xuất một số giải pháp về chính sách thúc đẩy PPP
trong thực hiện nhiệm vụ KH&CN trọng điểm quốc gia
3.2.1. Căn cứ pháp lí
Hiện nay, có khá nhiều văn bản pháp lí có liên quan đến việc
hình thành và vận hành các dự án PPP, là cơ sở chính để xây dựng các
chính sách thúc đẩy PPP trong thực hiện nhiệm vụ KH&CN nói chung
và các nhiệm vụ KH&CN trọng điểm quốc gia nói riêng, bao gồm:
Luật Đầu tư 2014; Luật Đầu tư công 2014; Luật Đấu thầu 2013; Luật
doanh nghiệp 2014; Nghị định 15/2015/NĐ-CP về đầu tư theo hình
thức đối tác công tư; Thông tư số 02/2016/TT-BKHĐT hướng dẫn lựa
chọn sơ bộ dự án, lập, thẩm định, phê duyệt đề xuất dự án và báo cáo
nghiên cứu khả thi dự án đầu tư theo hình thức đối tác công tư; Thông

tư số 06/2016/TT-BKHĐT hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị

18


định số 15/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ về đầu tư
theo hình thức đối tác công tư.
3.2.2. Về yêu cầu thực tiễn
Thực tế cho thấy yêu cầu phát triển các dự án đầu tư theo hình
thức PPP ngày càng trở nên cấp thiết không chỉ đối với lĩnh vực khoa
học và công nghệ mà còn đối với nền kinh tế nước ta nói chung. Các
mô hình/ dự án đầu tư theo hình thức PPP đã và đang được hình thành
và vận hành trong thực tiễn bất chấp việc chưa có khung pháp lí điều
chỉnh cũng như chưa có các chính sách hỗ trợ là một minh chứng thể
hiện rõ yêu cầu này.
Yêu cầu về đẩy mạnh đầu tư cho khoa học và công nghệ: Việc
đầu tư cho KH&CN cần bám sát nhu cầu thực tiễn hơn và thiết thực
hơn, ưu tiên đầu tư các đề án, đề tài phục vụ thiết thực cho đất nước,
có tính ứng dụng cao trong thực tiễn. Như vậy để thực hiện được
những vấn đề trên rất cần có một cơ chế đầu tư đột phá, hiệu quả và
bền vững. Và việc thí điểm cơ chế PPP trong thực hiện nhiệm vụ
KH&CN là rất phù hợp với bối cảnh kinh tế đất nước hiện nay.
Về ngân sách nhà nước: Việt Nam đang ở trong tình trạng bội chi
ngân sách khá cao, chi ngân sách chủ yếu là chi thường xuyên (khoảng
70%), chi trả nợ (khoảng 20%), còn lại là chi đầu tư phát triển rất hạn hẹp.
Điều này cho thấy khả năng đầu tư từ ngân sách là rất hạn chế.
Về hiệu quản quản lý nhà nước: Hiệu quả quản lý nhà nước
nhìn chung là chưa cao đặc biệt là các dự án đầu tư bằng vốn ngân
sách, trong khi khối doanh nghiệp tư nhân thường có hiệu quả quản lý
đầu tư cao hơn do sự tiếp cận linh hoạt và có thực tiễn hơn. Vì vậy,

việc thu hút và tận dụng được các lợi thế của doanh nghiệp tư nhân
trong cả quá trình từ đầu tư đến khai thác quản lý các công trình, dịch
vụ công là rất quan trọng.

19


3.2.3. Giải pháp về chính sách thúc đẩy PPP trong thực hiện
nhiệm vụ KH&CN trọng điểm quốc gia
3.2.3.1. Quan điểm về chính sách thúc đẩy PPP trong thực hiện
nhiệm vụ KH&CN trọng điểm quốc gia
Các chính sách thúc đẩy PPP trong thực hiện nhiệm vụ KH&CN
trọng điểm quốc gia phải được xây dựng trên các quan điểm sau:
(1) Đảm bảo duy trì được các đặc trưng của PPP
(2) Đảm bảo tính hiệu quả và bền vững của dự án PPP
3.2.3.2. Đề xuất một số giải pháp về chính sách thúc đẩy PPP
trong thực hiện nhiệm vụ KH&CN trọng điểm quốc gia
(i) Chính sách hỗ trợ, thu hút đầu tư: Để các chính sách hỗ trợ,
thu hút đầu tư của đối tác tư có thể phát huy được hiệu quả trong thực
tiễn thì trước hết Nhà nước cần cải thiện được hai vấn đề, bao gồm:
Thứ nhất, chính sách ban hành phải luôn gắn liền với việc sắp
xếp các nguồn lực thực hiện đặc biệt là các nguồn lực về tài chính,
nhân lực, cơ sở vật chất.
Thứ hai, các thủ tục, điều kiện thụ hưởng chính sách cần được
xác định cụ thể và có tính thực tiễn cao, được hướng dẫn rõ ràng để
triển khai thực hiện.
(ii) Chính sách về tài chính, tín dụng: Về nguồn lực tài chính,
ngoài nguồn kinh phí được cấp hàng năm, nguồn kinh phí được huy
động từ Quỹ phát triển KH&CN quốc gia, Quỹ đổi mới công nghệ
quốc gia, Quỹ phát triển KH&CN của các Bộ, ngành, địa phương;

Quỹ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, các chương trình, dự án
khác có mục tiêu phù hợp, các nguồn kinh phí hợp pháp khác; Bộ
KH&CN (đơn vị được giao đầu mối xây dựng quy định quản lý thực
hiện Đề án thí điểm cơ chế đối tác công tư đồng tài trợ thực hiện
nhiệm vụ KH&CN) cần có kế hoạch đầu tư trung và dài hạn để

20


Chính phủ xem xét, phê duyệt và phân bổ ngân sách thực hiện từ
NSNN, đặc biệt là với những dự án có quy mô lớn. Bên cạnh đó, cần
tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác với các tổ chức quốc tế, các tập
đoàn xuyên quốc gia nhằm tạo nguôn lực tài chính đủ mạnh để thực
hiện các dự án PPP.
Chính sách ưu đãi về lãi suất, được nhà nước bảo lãnh vay vốn
cũng cần được cân nhắc. Ví dụ, doanh nghiệp tham gia thực hiện các
nhiệm vụ KH&CN trọng điểm theo cơ chế PPP có thể được bảo lãnh
vay vốn tại một tổ chức tín dụng nào đó và được hưởng lãi suất ưu đãi.
(iii) Chính sách chia sẻ lợi ích, rủi ro giữa các đối tác tham
gia: Chia sẻ rủi ro là một trong những điểm rất quan trọng và thường
khó dàn xếp trong quá trình xây dựng các dự án PPP nói chung và
các nhiệm vụ KH&CN trọng điểm thực hiện theo cơ chế PPP nói
riêng. Nhà nước cần có chính sách, cơ chế phù hợp để phía đối tác
công có thể chủ động tham gia các dự án PPP như một nhà đầu tư
thực thụ. Điểm khác biệt nhất cần được tạo ra ở đây để khuyến khích
tư nhân tham gia vào các dự án PPP là phía đối tác công (Nhà nước)
cần có vai trò phù hợp trong chia sẻ và hỗ trợ xử lí các rủi ro có thể
phát sinh trong quá trình thực hiện dự án PPP. Các bên sẽ tùy thuộc
vào mức độ gánh chịu rủi ro của mình trong dự án để xác định mức
bù đắp hoặc nhận lại phần bù đắp để đảm bảo các bên liên quan trong

dự án đều có đóng góp công bằng và hợp lí để chia sẻ rủi ro. Cơ chế
chia sẻ rủi ro này cần được xác định và cam kết trong hợp đồng PPP
ký kết giữa đối tác công và đối tác tư để đảm bảo tính pháp lí.
(iv) Chính sách liên quan đến việc kiểm tra, đánh giá và giám
sát các nhiệm vụ thực hiện theo cơ chế PPP: Để việc triển khai thực
hiện nhiệm vụ KH&CN theo cơ chế PPP có hiệu quả rất cần có một
cơ chế kiểm tra, đánh giá và giám sát. Việc kiểm tra, đánh giá và

21


giám sát sẽ được thực hiện bởi đại diện các đối tác tham gia thực hiện
nhiệm vụ để đảm bảo sự minh bạch trong quá trình triển khai. Cần có
quy định cụ thể hơn về cơ chế phối hợp giữa các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền trong việc thực hiện, quản lý, giám sát dự án PPP.
Đồng thời phải có các chế tài xử lý cho những trường hợp không làm
hết trách nhiệm hoặc vi phạm các quy định trong quá trình thực hiện.
(v) Chính sách nâng cao nhận thức và tăng cường năng lực
PPP: Đây là chính sách đặc biệt cần thiết cho thúc đẩy PPP trong
thực hiện nhiệm vụ KH&CN hiện nay do nội dung này còn quá mới
đối với cả phía đối tác công, đối tác tư và những người được hưởng
lợi hoặc sử dụng hàng hóa, dịch vụ công. Do vậy, cần có chính sách
về truyền thông, phổ biến kiến thức pháp luật, tập huấn sâu rộng với
từng đối tượng có liên quan để làm rõ về khái niệm, nội dung, quyền
lợi, trách nhiệm của các bên liên quan cũng như hướng dẫn cách thức
triển khai thuận lợi nhất quy trình xây dựng và vận hành dự án. Bên
cạnh đó các hoạt động tăng cường năng lực cho các bên liên quan
cũng rất quan trọng nhằm tạo điều kiện để các bên tham gia trong các
dự án PPP xây dựng và vận hành dự án được thuận lợi và gia tăng lợi
ích của dự án cho tất cả các bên tham gia. Đối tượng truyền thông

của chính sách này sẽ bao gồm cả khối cán bộ quản lí nhà nước,
doanh nghiệp và người hưởng lợi từ các dự án PPP.
3.3. Đề xuất một số giải pháp tổ chức thực hiện nhiệm vụ
KH&CN trọng điểm quốc gia theo cơ chế PPP
3.3.1. Nguồn lực thực hiện
Nguồn lực triển khai PPP thực hiện các nhiệm vụ KH&CN
trọng điểm quốc gia bao gồm các nguồn lực về nhân lực, tài lực, tài
sản, cơ sở vật chất và các nguồn lực khác của đối tác công và đối tác
tư tham gia đóng góp để thực hiện. Đây là một vấn đề quan trọng

22


quyết định sự thành công của nhiệm vụ. Vì vậy, để các chính sách có
thể triển khai và phát huy tác dụng trên thực tế, có thể xem xét một
số giải pháp sau:
Thứ nhất,cần tập trung đầu tư có trọng tâm vào các nhiệm vụ
KH&CN trọng điểm, không đầu tư dàn trải. Các nhiệm vụ được xác
định theo nhóm để phối hợp giải quyết các vấn đề KH&CN chung.
Tăng tỷ trọng nguồn vốn đầu tư từ NSNN (đầu tư công) cho các
nhiệm vụ thực hiện theo cơ chế PPP.
Thứ hai, xây dựng kế hoạch đầu tư thí điểm, triển khai rộng rãi
từng giai đoạn đối với các nhiệm vụ KH&CN trọng điểm thực hiện
theo cơ chế PPP.
Thứ ba, đẩy mạnh thu hút nguồn lực đầu tư từ đối tác tư, các
tổ chức hợp tác phát triển song phương, đa phương, các quỹ và các tổ
chức, cá nhân khác tham gia đóng góp nguồn lực thực hiện.
3.3.2. Tổ chức thực hiện
Chính phủ cần đứng vai trò chủ đạo, giao Bộ KH&CN chịu trách
nhiệm chính ban hành các chính sách triển khai PPP trong thực hiện

nhiệm vụ KH&CN và sắp xếp các nguồn lực thực hiện chính sách.
Bộ KH&CN chịu trách nhiệm ban hành quy định quản lý Đề
án thí điểm cơ chế đối tác công tư đồng tài trợ thực hiện nhiệm vụ
KH&CN trong thời gian sớm nhất.
Bộ Tài chính ban hành quy định quản lý tài chính phần đóng
góp của các đối tác công trong việc thực hiện các nhiệm vụ và bố trí
kinh phí từ NSNN để thực hiện nhiệm vụ.
Bộ KH&CN phối hợp với các địa phương tổ chức triển khai
thực hiện các hoạt động truyền thông, nâng cao nhận thức, tăng
cường năng lực… để thu hút các nhà đầu tư tư nhân tham gia thực
hiện nhiệm vụ.

23


×