Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Giải quyết tranh chấp tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn qua thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân tại tỉnh Phú Thọ (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (698.38 KB, 75 trang )

VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ BÍCH ĐÀO

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG
KHI LY HÔN QUA THỰC TIỄN XÉT XỬ
CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TẠI TỈNH PHÚ THỌ

Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số

: 60.38.01.07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS HÀ THỊ MAI HIÊN

Hà Nội – 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học, độc lập
của tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

NGUYỄN THỊ BÍCH ĐÀO



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN ....... 7
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò và ý nghĩa của việc giải quyết tranh chấp tài sản
chung của vợ chồng khi ly hôn .........................................................................................7
1.2. Cơ sở và căn cứ pháp luật của việc giải quyết tranh chấp chia tài sản chung của
vợ chồng khi ly hôn......................................................................................................... 17
1.3. Quy định của pháp luật tố tụng về giải quyết tranh chấp tài sản chung của vợ
chồng khi ly hôn ..............................................................................................................30
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG KHI LY
HÔN CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TẠI TỈNH PHÚ THỌ ........................... 36
2.1. Khái quát đặc điểm tình hình ly hôn và tình hình xét xử khi giải quyết tranh chấp
tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn của Tòa án nhân dân tại tỉnh Phú Thọ. .........36
2.2. Một số bất cập của áp dụng pháp luật và nguyên nhân trong xét xử các vụ án
tranh chấp chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn của Tòa án nhân dân tại tỉnh
Phú Thọ .............................................................................................................................47
CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
ĐẢM BẢO HIỆU QUẢ KHI GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TÀI SẢN
CHUNG CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ..... 57
3.1. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật khi giải quyết tranh chấp tài sản chung của vợ
chồng khi ly hôn ..............................................................................................................57
3.2. Các định hướng, giải pháp tăng cường hiệu quả áp dụng pháp luật khi giải quyết
tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn ...........................................63
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 68


DANH MỤC VIẾT TẮT

***
STT

Ký hiệu viết tắt

Nguyên văn

1

BLDS

Bộ luật dân sự

2

BLTTDS

Bộ luật tố tụng dân sự

3

HĐXX

Hội đồng xét xử

4

TAND

Tòa án nhân dân


5

VKS

Viện kiểm sát

6

HN&GĐ

Hôn nhân và gia đình

7

GCNQSH

Giấy chứng nhận quyền sở hữu đât


DANH MỤC BẢNG

Số hiệu

Bảng 2.1

Bảng 2.2

Bảng 2.3


Bảng 2.4

Tên bảng
Thống kê giải quyết tất cả các vụ án hôn nhân gia
đình hệ thống TAND hai cấp tỉnh Phú Thọ (cả sơ
thẩm, phúc thẩm của TAND hai cấp tỉnh Phú Thọ)
Thống kê số vụ án tranh chấp hôn nhân gia đình trên
tổng số án đã thụ lý của TAND hai cấp tỉnh Phú Thọ
Thống kê giải quyết các vụ án hôn nhân gia đình tại
TAND tỉnh Phú Thọ (vụ)
Các vụ án có tranh chấp chia tài sản chung của vợ
chồng khi ly hôn tại TAND tỉnh Phú Thọ (vụ)

Trang

37

37

38

39

Tỷ lệ giải quyết các vụ án có tranh chấp chia tài sản
Bảng 2.5

chung của vợ chồng khi ly hôn tại TAND tỉnh Phú
Thọ (%)

39



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hôn nhân và gia đình luôn là những vấn đề được quan tâm hàng đầu trong
đời sống xã hội, trong đó có vấn đề ly hôn, vấn đề tài sản vợ chồng. Ở bất kì quốc
gia nào trên thế giới, những quy định pháp luật về hôn nhân và gia đình luôn có
những tác động nhất định đến đời sống của mỗi thành viên trong xã hội. Quả thực
không sai khi có quan điểm cho rằng Gia đình là trọng tâm của cuộc sống và là
chiếc chìa khóa mở ra cánh cửa hạnh phúc thường nhật của loài người [38].
Trong một cuộc hội thảo về Hôn nhân và gia đình tại Rome, Đức Giáo
Hoàng Francis đã khai mạc phiên họp đầu tiên của cuộc hội thảo với lời phát
biểu này: “Chúng ta hiện đang sống trong một nền văn hóa vật chất, trong đó
càng ngày càng có nhiều người hoàn toàn từ bỏ hôn nhân như là một cam kết
công khai. Cuộc cách mạng này về cách cư xử và đạo đức đã thường xuyên phất
cao ngọn cờ tự do, nhưng trong thực tế điều đó đã gây ra sự tàn phá về mặt tinh
thần và vật chất đối với vô số người, đặc biệt là những người nghèo nhất và dễ
bị tổn thương nhất… Họ chính là những người đau khổ nhất trong cuộc khủng
hoảng này”. [38] Kết tinh của tình yêu là những gia đình được xây dựng thông
qua hôn nhân. Dù không ai mong muốn một gia đình được xây dựng từ những
nỗ lực của hai bên tan vỡ, nhưng đôi khi trong cuộc sống, ly hôn lại là cách thức
giải quyết tốt nhất. Khi đời sống con người ngày càng phát triển, đặc biệt trên
phương diện vật chất, của cải, tài sản mà con người tích góp được ngày càng lớn
thì càng nảy sinh nhiều vấn đề. Một trong những hệ lụy đó chính là sự mâu
thuẫn, tranh chấp gay gắt khi xử lý tài sản chung của vợ chồng sau ly hôn. Bản
chất mối quan hệ hôn nhân gia đình luôn phức tạp với sự đan xen tình cảm của
các chủ thể, bởi vậy, giải quyết tranh chấp liên quan đến tài sản chung của vợ
chồng khi ly hôn luôn đòi hỏi người giải quyết phải có kiến thức pháp luật
chuyên ngành thực sự vững chắc. Đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay, tuy Luật
Hôn nhân và gia đình 2014 đã có hiệu lực thi hành, với sự đột phá trong chế

1


định về tài sản của vợ chồng nói chung và tài sản chung của vợ chồng nói riêng,
càng cần có những nghiên cứu làm rõ vấn đề này. Đây là một trong những đề tài
nghiên cứu rất hay và thiết thực. Bởi, hôn nhân gia đình luôn gắn bó mới mỗi
chủ thể trong cuộc sống.chúng ta đối diện với mối quan hệ hằng ngày, hằng giờ.
Chính bởi sự thiết thực của đề tài này, cùng với sự thay đổi của pháp luật trong
thời gian gần đây, sự phát triển của xã hội, số lượng các vụ án ly hôn có tranh
chấp về tài sản khi ly hôn tăng lên, giá trị tranh chấp ngày càng lớn tạo ra nhiều
khó khăn và áp lực cho các cơ quan tiến hành tố tụng, do vậy việc nghiên cứu về
vấn đề giải quyết tranh chấp tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn là vấn đề có
ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Tuy vậy, đây cũng là đề tài gây nhiều tranh
cãi, có khá nhiều quan điểm khác nhau của những nhà nghiên cứu luật pháp liên
quan đến nội dung tài sản chung của vợ chồng; đặc biệt, thực tiễn xét xử của
Tòa án nhân dân tại tỉnh Phú Thọ cho thấy tranh chấp nảy sinh xung quanh nội
dung này vô cùng đa dạng, phức tạp. Vì những lý do trên, học viên lựa chọn đề
tài: "Giải quyết tranh chấp tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn qua thực
tiễn xét xử của Tòa án nhân dân tại tỉnh Phú Thọ" làm luận văn thạc sĩ Luật
học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đã có khá nhiều công trình nghiên cứu khoa học về việc giải quyết tranh
chấp tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn như: "Chế độ tài sản của vợ chồng
theo pháp luật" của tác giả Nguyễn Văn Cừ, "Thời kỳ hôn nhân – Căn cứ xác
lập tài sản chung" của tác giả Nguyễn Văn Cừ, "Nguyên tắc suy đoán tài sản
chung trong Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam và luật dân sự Pháp" của tác
giả Đoàn Thị Phương Diệp, "Chia nhà đất khi vợ chồng ly hôn" của tác giả
Nguyễn Hồng Nam. Trong các giáo trình giảng dạy luật học tại các cơ quan đào
tạo luật học ở nước ta những năm qua như giáo trình Luật dân sự, Luật hôn nhân
gia đình của trường Đại học Luật Hà Nội, đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh,

đại học Cần Thơ… cũng mới chỉ đề cập đến một lượng kiến thức cơ bản và khái
2


quát về chế độ tài sản của vợ chồng trong chương trình đào tạo cử nhân luật
hoặc cán bộ pháp lý. Một số sách chuyên khảo liên quan đến chế độ tài sản
chung của vợ chồng như "Một số vấn đề về pháp luật dân sự Việt Nam từ thế kỉ
XV đến thời kỳ Pháp thuộc" của Viện nghiên cứu khoa học pháp lý – Bộ tư
pháp, "Chế độ hôn sản và thừa kế trong Luật dân sự Việt Nam" của Nguyễn
Mạnh Bách, "Bình luận Luật hôn nhân và gia đình năm 2000" của tác giả Ngô
Thu Hường….
Tuy nhiên, xuất phát từ xu hướng các vụ án ly hôn và chia tài sản chung
của vợ chồng khi ly hôn hiện nay càng ngày càng tăng và việc áp dụng pháp luật
từ thực tiễn xét xử còn nhiều bất cập thì việc nghiên cứu các quy định của pháp
luật và thực tiễn xét xử về việc giải quyết tranh chấp chia tài sản chung của vợ
chồng khi ly hôn là rất quan trọng. Qua nghiên cứu thực tiễn xét xử các vụ án
tranh chấp tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn của Tòa án nhân dân tại tỉnh
Phú Thọ, học viên rút ra được những thành tựu và điểm tiến bộ của Luật hôn
nhân gia đình năm 2014 và những hạn chế bất cập trong quá trình áp dụng các
quy định của pháp luật một cách cụ thể nhất để giải quyết chia tài sản chung của
vợ chồng khi ly hôn cũng như đề ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật và
phương hướng nhằm nâng cao hiệu quả của công tác xét xử giải quyết tranh
chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Làm rõ một số vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp tài sản chung của vợ
chồng khi ly hôn tại tòa án, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng
pháp luật trong giải quyết ly hôn của Tòa án nhân dân tại tỉnh Phú Thọ; Từ đó
đề xuất những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và tăng cường hiệu quả áp
dụng pháp luật về giải quyết chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn, bảo vệ

quyền và lợi ích của các đương sự.

3


3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích cơ sở lý luận và làm rõ các quy định của pháp luật Việt Nam hiện
hành bao gồm pháp luật về nội dung và pháp luật về hình thức được áp
dụng trong việc giải quyết các tranh chấp về tài sản chung của vợ chồng
khi ly hôn.
- Nghiên cứu, đánh giá việc áp dụng các quy định của pháp luật Việt Nam
hiện hành vào việc giải quyết các tranh chấp về tài sản chung của vợ chồng
khi ly hôn qua thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân tại tỉnh Phú Thọ;.
- Đề xuất và luận giải những giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật và
tăng cường hiệu quả áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp về tài
sản chung của vợ chồng khi ly hôn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Các công trình khoa học về tài sản chung của vợ chồng và giải quyết
tranh chấp tài sản chung vợ chồng khi ly hôn; các quy định của pháp luật hiện
hành bao gồm pháp luật nội dung và pháp luật hình thức, các căn cứ pháp lý khi
giải quyết tranh chấp về tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn và thực tiễn xét
xử tại Tòa án.
- Các vụ án cụ thể mà Tòa án nhân tại tỉnh Phú Thọ đã xét xử giải quyết
tranh chấp về tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn.
- Các báo cáo tổng kết công tác xét xử và nhiệm vụ trọng tâm của hệ
thống Tòa án nhân dân trong 05 năm từ 2011 đến 2016.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Đề tài thực hiện trên phạm vi nghiên cứu các vụ án cụ thể của Tòa án
nhân dân tại tỉnh Phú Thọ khi giải quyết các tranh chấp về tài sản chung của vợ

chồng khi ly hôn.
- Đề tài được nghiên cứu dựa trên các quy định của BLTTDS năm 2015,
BLDS năm 2015, Luật HN&GĐ năm 2014 và các văn bản quy phạm pháp luật
4


còn hiệu lực hoặc có hiệu lực mới nhất của luật nội dung và luật hình thức liên
quan đến việc giải quyết tranh chấp chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn.
- Đề tài chỉ nghiên cứu giải quyết các tranh chấp về tài sản chung của vợ
chồng khi ly hôn, không nghiên cứu những tranh chấp về tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân hoặc các tranh chấp về tài sản vợ chồng có yếu tố
nước ngoài, về tài sản riêng của vợ chồng khi ly hôn;
- Đề tài được nghiên cứu trong phạm vi của chuyên ngành Luật Kinh tế.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận của đề tài là chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử theo quan điểm khoa học của chủ nghĩa Mác – Lê Nin,
đó là tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, đồng thời giữa chúng có mối quan
hệ biện chứng với nhau. Pháp luật là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng xã
hội, được hình thành từ một cơ sở hạ tầng phù hợp.Pháp luật được coi là tấm
gương phản chiếu xã hội, còn về phần mình, xã hội được coi là cơ sở thực tiễn của
pháp luật.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể: Trong quá trình nghiên cứu, học
viên sử dụng phương pháp lịch sử để nghiên cứu tìm hiểu chế độ tài sản chung
của vợ chồng qua các thời kỳ lịch sử. Phương pháp phân tích và phương pháp
tổng hợp khi làm rõ các vấn đề liên quan đến việc giải quyết tranh chấp tài sản
chung của vợ chồng khi ly hôn. Phương pháp so sánh để tìm hiểu những nét
tương đồng và khác biệt của pháp luật Việt Nam và pháp luật các nước trên thế
giới quy định về các vấn đề tài sản chung của vợ chồng và giải quyết tranh chấp
tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn từ đó rút ra những điểm khác biệt, tiến bộ
để học hỏi. Phương pháp thống kê khi nghiên cứu các báo cáo công tác xét xử,

các bản án của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ khi giải quyết các tranh chấp về
tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn.

5


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Nội dung của luận văn có ý nghĩa thiết thực, là cơ sở để có cái nhìn toàn
diện hơn, thống nhất hơn về hệ thống pháp luật được áp dụng qua khảo sát thực
tiễn xét xử các tranh chấp tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn tại tỉnh Phú
Thọ, qua đó phát hiện những vướng mắc bất cập, sai sót trong quá trình thực tiễn
xét xử các vụ án tranh chấp về chia tài sản chung khi ly hôn, đề cập những kiến
nghị hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp chia tài sản chung của vợ
chồng khi ly hôn để có thể đảm bảo tốt nhất quyền và lợi ích của các bên đương
sự, đảm bảo sự khách quan, công bằng, có tình, có lý, tiết kiệm được thời gian
và chi phí giữa các bên đương sự.
7. Cơ cấu của luận văn
Luận văn ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1.Cơ sở lý luận và pháp luật về giải quyết tranh chấp tài sản
chung của vợ chồng khi ly hôn.
Chương 2.Thực trạng áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp tài
sản chung của vợ chồng khi ly hôn của Tòa án nhân dân tại tỉnh Phú Thọ.
Chương 3.Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật, đảm bảo hiệu
quả khi giải quyết tranh chấp tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn ở Việt Nam
hiện nay.

6



Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN

1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò và ý nghĩa của việc giải quyết tranh chấp
tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
1.1.1. Khái niệm tài sản chung vợ chồng và tranh chấp tài sản chung vợ
chồng khi ly hôn
Tài sản vợ chồng luôn là một trong những vấn đề đặc biệt quan trọng của
pháp luật hôn nhân và gia đình, điều này được khẳng định qua những văn bản
pháp lý điều chỉnh, đồng thời bộc lộ rõ nét trong cả thực tiễn. Sau khi kết hôn,
tài sản chung giữa vợ và chồng được hình thành, các lợi ích cũng như các quyền
năng chiếm hữu, sử dụng, định đoạt... đối với khối tài sản này thông qua sự kiện
này mà được hình thành. Do tài sản không chỉ gắn liền với những lợi ích thiết
thực của hai bên trong quan hệ vợ chồng mà còn liên quan đến những chủ thể
khác (được gọi là người thứ ba). Đặc biệt, trong nền kinh tế thị trường đang
ngày càng phát triển, vợ chồng tham gia vào hoạt động kinh doanh thương mại
ngày càng nhiều thì vấn đề này lúc nào cũng nảy sinh nhiều mâu thuẫn, nhất là
sau khi vợ chồng ly hôn. Thực tiễn xét xử cho thấy, phần lớn các tranh chấp của
vợ chồng sau khi ly hôn đều có liên quan đến tài sản. Sự phức tạp trong việc xác
định tài sản chung, tài sản riêng vợ chồng một phần bắt nguồn từ sự phức tạp
trong mối quan hệ hôn nhân, gia đình trước đó của các chủ thể. Mặt khác, sự
phức tạp trong xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng còn bắt nguồn
từ những hạn chế trong việc qui định về chế độ tài sản vợ chồng trong Bộ luật
Dân sự, Luật Hôn nhân và Gia đình nước ta còn nhiều thiếu sót, sự không rõ
ràng trong các quy định dẫn đến nhiều cách hiểu khác, cách giải thích khác nhau
về pháp luật. Việc giải quyết các xung đột trên không thể đảm bảo được công

7



bằng, bình đẳng giữa các chủ thể (có thể thấy người vợ thường thiệt thòi về tài
sản khi ly hôn). Cùng với đó, số lượng và độ phức tạp của các vụ việc liên quan
đến tranh chấp tài sản vợ chồng ngày càng gia tăng gây khó khăn và tốn kém
cho ngành tư pháp. Sự ra đời của Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 cùng với
một số văn bản hướng dẫn thi hành đã phần nào đó giúp cải thiện tình trạng
trên, tuy nhiên, việc mới có hiệu lực trong một thời gian ngắn của các văn bản
pháp luật mà những mối quan hệ hôn nhân vợ chồng đã tồn tại trước đó rất
lâu, khiến việc áp dụng gặp không ít khó khăn. Trước khi nghiên cứu giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả pháp luật, khắc phụ tình trạng nêu trên thì việc
làm rõ các khái niệm chế độ tài sản vợ chồng, chế độ tài sản chung của vợ
chồng và các hình thức là cần thiết.
Nhìn chung, có thể hiểu chế độ tài sản vợ chồng thực chất là sự tổng hợp
các qui phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ tài sản của vợ chồng, trong đó gồm:
các qui định về căn cứ xác lập tài sản, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với
tài sản chung, tài sản riêng; nguyên tắc phân chia tài sản giữa vợ chồng. [39]
Tài sản vợ chồng được phân loại thành: tài sản chung và tài sản riêng. Đối với
quan hệ tài sản chung, vợ chồng cùng tham gia vào việc tạo lập, duy trì và phát
triển khối tài sản mà họ có quyền sở hữu chung. Trong khi quan hệ tài sản riêng
bảo tồn sự độc lập của mỗi người trong việc xác lập và thực hiện quyền sở hữu
đối với tài sản. Việc qui định chế độ tài sản vợ chồng ở các quốc gia đều có
những khác biệt, tùy thuộc vào chế độ kinh tế, xã hội cũng như tập quán, thuần
phong, mỹ tục, cũng như tư tưởng lập pháp của mỗi thời kì. Tuy nhiên, riêng đối
với việc xác lập tài sản của vợ chồng, pháp luật hôn nhân gia đình nói chung qui
định hai cách thức tương ứng với hai chế độ tài sản vợ chồng : chế độ tài sản vợ
chồng theo pháp luật (chế độ tài sản pháp định) và chế độ tài sản vợ chồng theo
thỏa thuận (chế độ hôn tài sản ước định).[37, tr.18]
Trong quá trình vợ chồng chung sống, tình cảm giữa vợ chồng luôn là yếu
tố quan trọng nhất, chi phối toàn bộ những vấn đề liên quan đến đời sống hôn
8



nhân. Tuy nhiên, quá trình chung sống giữa vợ chồng không chỉ và không thể
chỉ tồn tại tình cảm mà còn có tài sản, thậm chí, cần có tài sản chung, đây được
coi là một điều kiện không thể thiếu để duy trì mối quan hệ vợ, chồng, đảm bảo
cuộc sống gia đình.
Dưới góc độ ngôn ngữ học, theo từ điển Việt Nam thì"tài sản là của cải,
vật chất dùng vào mục đích sản xuất và tiêu dùng".[36, tr.963]
Dưới góc độ pháp lý, theo quy định tại Điều 105 Bộ luật Dân sự năm
2015, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2017 thì “Tài sản là vật, tiền, giấy
tờ có giá và quyền tài sản. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản.Bất
động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong
tương lai".
Tài sản chung của vợ chồng là tài sản thuộc sở hữu chung vợ chồng, là
hình thức sở hữu chung đặc biệt. Chế độ tài sản chung của vợ chồng xuất phát từ
quan hệ hôn nhân. Do vậy, sự tồn tại của chế độ tài sản chung vợ chồng phụ
thuộc vào sự tồn tại của quan hệ hôn nhân và chấm dứt khi một trong hai vợ
chồng chết hoặc có bản án, quyết định của Tòa án cho vợ chồng ly hôn. Tài sản
chung của vợ chồng là tài sản do vợ, chồng tạo ra do lao động, hoạt động sản
xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và những thu nhập
hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, tài sản mà vợ chồng được
thừa kế chung, tặng cho chung và những tài sản vợ chồng thỏa thuận là tài sản
chung, quyền sử dụng đất của vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản
chung của vợ chồng. Khác với tài sản chung đơn thuần trong các quan hệ dân
sự, tài sản chung vợ, chồng có nguồn gốc tạo ra từ thời kỳ hôn nhân, có thể là do
vợ, chồng lao động tạo ra hoặc từ những hành vi pháp lý diễn ra trong thời kỳ
hôn nhân như: thỏa thuận tài sản riêng trở thành tài sản chung, thừa kế, tặng
cho... Hôn nhân là sự kết hợp của các cá nhân về mặt tình cảm một cách hợp
pháp, đó thường là kết quả của tình yêu và là mối quan hệ cơ bản trong gia đình


9


ở hầu hết các xã hội. Vai trò, nghĩa vụ và trách nhiệm của vợ chồng trong việc
xây dựng một gia đình hạnh phúc và ổn định là như nhau, không phân biệt ai
hơn ai kém. Truyền thống ở một quốc gia phương Đông như Việt Nam, từ lâu về
trước, cha ông ta để lại cho con cháu lời khuyên răn “Của chồng công vợ”, áp
dụng câu tục ngữ này vào bối cảnh hiện đại vẫn hoàn toàn hợp lý về cả ngữ
nghĩa lẫn pháp lý, tài sản chung của vợ chồng không nhất thiết do hai vợ, chồng
trực tiếp tạo ra hay tạo ra ngang bằng nhau. Tài sản chung có thể chỉ do vợ,
chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân, quy định này thể hiện sự gắn kết “tuy một
mà hai, tuy hai mà một” của quan hệ hôn nhân… Đây là điểm khác biệt rõ rệt
nhất của chế độ tài sản chung vợ chồng so với các chế độ tài sản chung theo
phần khác.
Tài sản chung vợ, chồng là tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất, vợ chồng
cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung bằng công sức của mỗi người;
có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung,
khối tài sản chung được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa
vụ chung của vợ chồng. Khi vợ, chồng chưa phân chia tài sản thì không xác định
được tỷ lệ tài sản của mỗi người. Khi hai bên thỏa thuận phân chia xong hoặc có
quyết định phân chia của Tòa án thì phần tài sản của vợ, chồng trong khối tài
sản chung mới được xác định. Vợ, chồng có quyền ngang nhau trong việc chiếm
hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung. Tài sản chung vợ chồng có thể phân chia
theo thoả thuận hoặc theo quyết định của Toà án.
Theo quy định hiện hành tại Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 thì các căn
cứ xác lập tài sản chung vợ chồng như sau: “1. Tài sản chung của vợ chồng gồm
tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh
doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác
trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của
Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung


10


và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung. Quyền sử dụng đất mà
vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường
hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông
qua giao dịch bằng tài sản riêng. 2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu
chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa
vụ chung của vợ chồng. 3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài
sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó
được coi là tài sản chung”. [28, Đ33]
Từ những phân tích trên, cùng với quy định của pháp luật hôn nhân và gia
đình, có thể hiểu rằng “Tài sản chung vợ chồng là những tài sản do vợ chồng có
được trong thời kỳ hôn nhân mà việc hình thành hoặc tạo ra phù hợp với những
căn cứ xác lập tài sản chung vợ chồng theo quy định của pháp luật Việt Nam”.
Tranh chấp tài sản chung vợ chồng khi ly hôn là những mâu thuẫn, xung
đột của vợ chồng về việc chia tài sản chung mà họ không tự thỏa thuận được và
yêu cầu tòa án giải quyết.
1.1.2 Khái niệm giải quyết tranh chấp về tài sản chung của vợ chồng
khi ly hôn
Nếu kết hôn là sự kiện pháp lý đánh dấu quan hệ hôn nhân giữa hai cá
nhân nam, nữ được thiết lập thì ly hôn là sự kiện làm chấm dứt quan hệ hôn
nhân giữa nam và nữ, cùng với sự chấm dứt về quan hệ hôn nhân thì chế độ tài
sản chung của vợ chồng cũng chấm dứt kể từ thời điểm ly hôn. Khi ly hôn, bởi
có sự mâu thuẫn về quan hệ tình cảm nên vợ chồng khó có thể tìm được tiếng
nói chung trong việc phân chia tài sản chung, kéo theo đó là các tranh chấp chia
tài sản chung.
Tranh chấp về tài sản vợ chồng là sự mâu thuẫn, xung đột về tài sản giữa
vợ chồng thường xảy ra chủ yếu và gần như đồng thời với việc ly hôn, điều này

là hợp lý bởi lẽ khi đưa ra quyết định ly hôn thì vợ chồng đã có sẵn sự sứt mẻ về
tình cảm, sự yêu thương, gắn bó trong thời kỳ hôn nhân không còn và kéo theo
11


việc ly hôn giữa các chủ thể sẽ có sự tranh giành, tâm lý hơn thua trong vấn đề
phân chia tài sản. Việc tranh chấp về chia tài sản chung có thể diễn ra cùng với
việc vợ, chồng xin ly hôn hoặc có thể diễn ra sau khi vợ chồng đã ly hôn do thời
điểm ly hôn, vợ chồng không yêu cầu giải quyết về tài sản chung mà để họ tự
thỏa thuận nhưng sau đó họ không tự thỏa thuận được (có thể là không xác định
được đâu là tài sản chung, đâu là tài sản riêng; hoặc không thống nhất được quan
điểm trong cách thức chia tài sản, người phần nhiều người phần ít…). Việc vợ
chồng tranh chấp về tài sản đồng thời với việc ly hôn hoặc sau khi ly hôn đều
được coi là tranh chấp về tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn.
Đúc kết từ thực tiễn những vụ án ly hôn trong thời gian gần đây, cũng như
yêu cầu tư vấn của các bên đương sự trong những vụ việc hôn nhân và gia đình
thì, các tranh chấp về tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn chủ yếu xoay quanh
các nội dung sau đây:
- Thứ nhất, tranh chấp về việc xác định tài sản chung hay tài sản riêng (ví
dụ như tài sản do vợ, chồng tạo lập được trong thời kỳ hôn nhân như bất động
sản nhà, đất… nhưng trong giấy tờ mua bán hoặc giấy chứng nhận quyền sử
dụng chỉ đứng tên vợ hoặc chỉ đứng tên chồng; tài sản là của bố mẹ vợ hoặc
chồng cho vợ chồng nhưng khi ly hôn thì bố mẹ lại thay đổi là chỉ cho con trai
hoặc con gái hoặc cha mẹ đòi lại; tài sản riêng vợ chồng có trước khi kết hôn
nhưng lại đưa vào sử dụng chung trong thời kỳ hôn nhân…). Bản thân những
người có kiến thức pháp luật cũng chưa chắc có thể phân định đúng đâu là tài
sản riêng của vợ chồng đâu là tài sản chung của vợ chồng trong khối tài sản họ
đang tranh chấp, nguồn gốc hình thành của những tài sản này cũng khó có thể
xác định, do vậy, đây là dạng tranh chấp phổ biến nhất.
- Thứ hai, tranh chấp về việc xác định tài sản thuộc sở hữu chung của vợ

chồng hay của gia đình (trong trường hợp vợ chồng sống chung cùng gia đình
mà ly hôn, đây là trường hợp khá đặc thù).
- Thứ ba, tranh chấp về việc phân chia hiện vật.
12


- Thứ tư, tranh chấp về việc thỏa thuận giá trị tài sản tranh chấp.
- Thứ năm, tranh chấp về việc thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với người thứ ba.
Khi vợ chồng đã có tranh chấp về chia tài sản chung thì có nghĩa là họ
khó thỏa thuận trong việc phân chia tài sản chung nên cần có một cơ quan Nhà
nước có đủ thẩm quyền tiến hành giải quyết việc chia tài sản chung của vợ
chồng. Theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 trước đây, tranh
chấp tài sản khi ly hôn được xếp vào loại việc tranh chấp dân sự thuộc thẩm
quyền của Tòa án nhân dân. Khi vợ, chồng có đơn gửi đến Tòa án yêu cầu giải
quyết ly hôn và cùng với việc giải quyết ly hôn họ yêu cầu giải quyết về tài sản
thì Tòa án sẽ tiến hành thụ lý vụ án, thực hiện các thủ tục, quy trình tố tụng đã
được pháp luật quy định cụ thể trong Bộ luật Tố tụng dân sự như lấy lời khai,
thu thập chứng cứ, hòa giải, định giá, mở phiên tòa... Các bước tố tụng này giúp
Tòa án có thể xem xét, đánh giá chứng cứ, cân nhắc kỹ, quyết định về tính hợp
pháp, hợp lý trong lời khai, chứng cứ do các bên đưa ra. Nếu đủ cơ sở pháp lý
xác định tài sản tranh chấp là tài sản chung của vợ chồng thì Tòa án căn cứ vào
quy định của Luật Hôn nhân và gia đình hiện hành để giải quyết chia tài sản
chung của vợ chồng. Xuất phát từ việc tranh chấp tài sản chung khi quan hệ vợ
chồng không còn tồn tại nữa nên pháp luật xác định đây là một quan hệ dân sự,
tài sản được xác định là tài sản chung giữa các đồng chủ sở hữu, việc phân chia
tài sản chung áp dụng theo quy định của Bộ luật dân sự về tài sản chung.
Cùng với Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Luật tổ chức Tòa án nhân
dân năm 2014 các quan hệ tranh chấp phân chia tài sản chung của vợ chồng khi
ly hôn thuộc loại quan hệ tranh chấp hôn nhân và gia đình, việc phân chia tài sản
chung được áp dụng các nguyên tắc theo quy định của Luật Hôn nhân và gia

đình năm 2014. Đồng thời, BLTTDS 2015 cũng xác định tranh chấp hôn nhân
và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa chuyên trách Tòa gia đình và
người chưa thành niên. Do đó, khi phát sinh quan hệ tranh chấp phân chia tài sản
sau khi ly hôn Tòa án phải xác định vụ án thuộc loại tranh chấp hôn nhân và gia
13


đình, áp dụng nguyên tắc phân chia tài sản chung của vợ chồng quy định tại
Luật Hôn nhân và gia đình, không được coi là tranh chấp dân sự.
Như vậy, việc giải quyết tranh chấp tài sản chung của vợ chồng khi ly
hôn được hiểu là tổng hợp các hành vi tố tụng của Tòa án, đương sự và các chủ
thể khác theo trình tự, thủ tục do luật định, được tính từ giai đoạn đương sự có
đơn khởi kiện, Tòa án tiếp nhận và thụ lý đơn khởi kiện của đương sự cho đến
các bước tố tụng khác như hòa giải, thu thập, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ và
đưa ra phán quyết cuối cùng dựa trên cơ sở các quy định của pháp luật về việc
xác định tài sản chung và các nguyên tắc chia tài sản chung khi ly hôn nhằm
đảm bảo sự công bằng, hợp tình, hợp lý cho các đương sự khi ly hôn nhưng
không thảo thuận được về việc phân chia tài sản chung của vợ chồng.
1.1.3. Đặc điểm của việc giải quyết tranh chấp tài sản chung của vợ
chồng khi ly hôn
Chế độ tài sản của vợ chồng thực chất là chế độ sở hữu tài sảncủa vợ
chồng.Vợ, chồng với tư cách là công dân, vừa là chủ thể của quan hệ hôn nhân
và gia đình, vừa là chủ thể của quan hệ dân sự khi thực hiện quyền sở hữu của
mình tham gia các giao dịch dân sự.Do đó khi giải quyết các tranh chấp tài sản
chung của vợ chồng khi ly hôn có một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, xét về chủ thể khi tham gia vào việc giải quyết tranh chấp tài
sản này, thì các bên phải có quan hệ hôn nhân hợp pháp với tư cách là vợ chồng
của nhau. Do vậy, để trở thành chủ thể của quan hệ tranh chấp này, các chủ thể
ngoài việc có đầy đủ năng lực chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự còn đòi
hỏi họ phải tuân thủ các điều kiện kết hôn được quy định trong pháp luật hôn

nhân và gia đình. Hai bên chủ thể trong tranh chấp tài sản chung khi ly hôn phải
thỏa mãn các điều kiện quy định theo pháp luật Việt Nam hiện hành.
Thứ hai, xuất phát từ vị trí, vai trò quan trọng của gia đình đối với sự tồn
tại và phát triển của xã hội, nhà nước bằng pháp luật quy định chế độ tài sản của
vợ chồng đều xuất phát từ mục đích trước tiên và chủ yếu nhằm bảo đảm quyền
14


lợi của gia đình, trong đó có lợi ích cá nhân của vợ và chồng. Những quy định
của pháp luật giải quyết tranh chấp tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn là cơ
sở tạo điều kiện để vợ chồng chủ động thực hiện các quyền và nghĩa vụ của
mình đối với tài sản của vợ chồng, nhằm đảm bảo được quyền và lợi ích hợp
pháp của mỗi đương sự khi tham gia giải quyết tranh chấp, đảm bảo vụ án được
giải quyết hợp tình, hợp lý, công bằng cho các bên đương sự.
Thứ ba, căn cứ xác lập, chấm dứt chế độ tài sản chung của hai vợ chồng
này phụ thuộc vào sự phát sinh, chấm dứt của quan hệ hôn nhân hay nói cách
khác, tranh chấp về tài sản chung của vợ chồng chỉ được giải quyết khi hai vợ
chồng ly hôn tại Tòa án.[39]
1.1.4. Ý nghĩa của chế độ tài sản vợ chồng đối với giải quyết tranh chấp
tài sản khi ly hôn
Một là, chế độ tài sản được pháp luật ghi nhận nhằm điều chỉnh các quan
hệ tài sản của vợ chồng, tạo điều kiện để vợ, chồng bảo vệ được quyền và lợi ích
chính đáng của mình mà vẫn đúng theo quy định của pháp luật và phù hợp với
đạo đức xã hội.
Hai là, trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, Luật Hôn nhân và Gia đình
điều chỉnh các quan hệ về nhân thân và tài sản giữa vợ chồng, giữa cha mẹ và
các con, giữa các thành viên khác trong gia đình. Việc thực hiện và áp dụng chế
độ tài sản của vợ chồng góp phần củng cố, bảo đảm thực hiện các quyền và
nghĩa vụ nhân thân giữa vợ chồng và giữa các thành viên của gia đình với nhau,
đảm bảo quyền và lợi ích của tất cả các đương sự và những người liên quan khi

giải quyết các tranh chấp chia tài sản chung của vợ chồng.
Ba là, chế độ tài sản của vợ chồng góp phần điều tiết, ổn định quan hệ tài
sản trong giao lưu dân sự, kinh tế, thương mại. Trong thời kỳ hôn nhân, vợ
chồng phải ký kết rất nhiều hợp đồng dân sự với người khác, nhờ có chế độ tài
sản của vợ chồng, các giao dịch đó được đảm bảo thực hiện, quyền lợi của vợ

15


chồng, của người tham gia giao dịch liên quan đến tài sản của vợ chồng được
bảo vệ. Chế định tài sản của vợ chồng định rõ về thành phần tài sản của vợ
chồng và các quyền lợi nghĩa vụ của vợ chồng đối với những tài sản mà vợ
chồng có được trước hoặc trong thời kì hôn nhân, để phân biệt đâu là tài sản
riêng đâu là tài sản chung. Bởi tính chất cộng đồng của hôn nhân, tài sản chung
của vợ chồng được sử dụng nhằm đảm bảo đời sống chung của vợ chồng, các
giao dịch dân sự mà một bên vợ hoặc chồng thực hiện với người khác vì nhu cầu
thiết yếu của gia đình được coi là có hiệu lực thì bên kia phải chịu trách nhiệm
liên đới. Từ những quy định này giúp cho quá trình giải quyết tranh chấp tài sản
chung của vợ chồng khi ly hôn luôn khách quan, công bằng, bảo vệ quyền và lợi
ích của hai bên và lợi ích của bên thứ ba khi tham gia vào giao dịch dân sự
đó.[39].
Chế độ tài sản của vợ chồng với ý nghĩa là một chế định trong pháp luật
hôn nhân và gia đình được nhà nước quy định dựa trên sự phát triển của điều
kiện kinh tế - xã hội. Nó thể hiện tính giai cấp, bản chất của chế độ chính trị - xã
hội cụ thể. Nhìn vào chế độ tài sản của vợ chồng được quy định trong pháp luật
của nhà nước, người ta có thể nhận biết được trình độ phát triển của các điều
kiện kinh tế - xã hội và ý chí của nhà nước thể hiện bản chất của chế độ xã hội đó.
Chế độ tài sản của vợ chồng được quy định trong pháp luật có ý nghĩa
nhằm xác định các loại tài sản trong quan hệ giữa vợ chồng và gia đình.Khi hai
bên nam nữ kết hôn với nhau trở thành vợ chồng, chế độ tài sản của vợ chồng

được liệu với những thành phần tài sản của vợ chồng. Dù vợ chồng lực chọn chế
độ tài sản ước định hay chế độ tài sản pháp định luôn được pháp luật quy định rõ.
Việc phân định các loại tài sản trong quan hệ giữa vợ và chồng của chế độ
tài sản còn nhằm xác định các quyền và nghĩa vụ của các bên vợ, chồng đối với
các loại tài sản của vợ chồng. Nó giúp cho quá trình giải quyết tranh chấp về tài
sản chung của vợ chồng khi ly hôn đúng pháp luật và khách quan hơn.

16


Chế độ tài sản của vợ chồng được sử dụng với ý nghĩa là cơ sở pháp lý để
giải quyết các tranh chấp về tài sản giữa vợ và chồng với nhau hoặc với những
người khác trong thực tế, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng về tài sản
cho các bên vợ chồng hoặc người thứ ba tham gia giao dịch liên quan đến tài sản
của vợ chồng.[39]
1.2. Cơ sở và căn cứ pháp luật của việc giải quyết tranh chấp chia tài
sản chung của vợ chồng khi ly hôn
Giải quyết tranh chấp tài sản vợ chồng thực chất là quá trình áp dụng pháp
luật. Do đó, giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
không chỉ liên quan đến những nguyên tắc, nội dung mà Luật hôn nhân gia đình
2014 và các văn bản hướng dẫn quy định, mà còn phải trải qua những thủ tục,
trình tự trong quy trình tố tụng, mà những quy định này lại được điều chỉnh
bằng một bộ luật hình thức khác- Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Bởi vậy, để có
được kết quả nghiên cứu đầy đủ cho đề tài giải quyết tranh chấp về chia tài sản
chung của vợ chồng khi ly hôn, học viên đã tiến hành tìm hiểu theo hai phương
diện. Một là những quy định nội dung của pháp luật hôn nhân gia đình về tài sản
chung của vợ chồng, nguyên tắc, cách thức xử lý khi có tranh chấp về chia tài
sản chung của vợ chồng khi ly hôn và hai là những quy định hình thức về quyền
hạn, nghĩa vụ, thẩm quyền của các chủ thể và trình tự, thủ tục trong giải quyết
tranh chấp chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn.

1.2.1. Những nguyên tắc trong việc chia tài sản chung của vợ chồng khi
ly hôn
Đầu tiên khi tìm hiểu về việc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
ta cần đi từ cái gốc- những nguyên tắc cơ bản, những nguyên tắc của luật hôn
nhân gia đình và những nguyên tắc của luật tố tụng.
Thứ nhất, các nguyên tắc chung của luật hôn nhân và gia đình có ý nghĩa chỉ
đạo đến việc giải quyết tranh chấp tài sản chung vợ chồng khi ly hôn bao gồm:
- Nguyên tắc bình đẳng, thỏa thuận vợ chồng
17


- Nguyên tắc bảo vệ quyền lợi ích chính đáng của phụ nữ, của các con,
lao động trong gia đình coi như lao động sản xuất;
- Bảo đảm trách nhiệm của vợ chồng đối với nhau, với gia đình và với
các chủ thể thứ ba.
Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã cụ thể hóa các nguyên tắc nêu
trên và trong trường hợp vợ chồng khi ly hôn thì việc chia tài sản khi ly hôn theo
các quy định sau đây:
1. Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc
giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì theo
yêu cầu của vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy định
tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này.
Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận không đầy
đủ, rõ ràng thì áp dụng quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này
và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này để giải quyết.
2. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu
tố sau đây:
a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;
b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển
khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao

động có thu nhập;
c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và
nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
Về nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn trong Luật Hôn
nhân gia đình năm 2014 được chia ra làm 2 trường hợp chế độ tài sản của vợ
chồng theo luật định chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận để đưa ra các
nguyên tắc giải quyết phù hợp nhất. Vợ chồng khi ly hôn có quyền tự thỏa thuận
với nhau về toàn bộ các vấn đề, trong đó có cả việc phân chia tài sản. Trường
18


hợp vợ chồng không thỏa thuận được mà có yêu cầu thì Tòa án phải xem xét,
quyết định việc áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận hay theo
luật định, tùy từng trường hợp cụ thể mà Tòa án xử lý như sau: Trường hợp
không có văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng hoặc văn bản thỏa
thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị Tòa án tuyên bố vô hiệu toàn bộ thì áp
dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định để chia tài sản của vợ chồng khi
ly hôn; Trường hợp có văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng và văn
bản này không bị Tòa án tuyên bố vô hiệu toàn bộ thì áp dụng các nội dung của
văn bản thỏa thuận để chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn. Đối với những vấn
đề không được vợ chồng thỏa thuận hoặc thỏa thuận không rõ ràng hoặc bị vô
hiệu thì áp dụng các quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4, 5 Điều 59 và các
điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật hôn nhân và gia đình để chia tài sản của vợ
chồng khi ly hôn .[29, Đ7] .
Trong trường hợp áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định để
chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn thì tài sản chung của vợ chồng về nguyên
tắc được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố xác định tỷ lệ tài sản mà vợ
chồng được chia, cụ thể: (1) “Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng” là tình
trạng về năng lực pháp luật, năng lực hành vi, sức khỏe, tài sản, khả năng lao

động tạo ra thu nhập sau khi ly hôn của vợ, chồng cũng như của các thành viên
khác trong gia đình mà vợ chồng có quyền, nghĩa vụ về nhân thân và tài sản
theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình. Bên gặp khó khăn hơn sau khi ly
hôn được chia phần tài sản nhiều hơn so với bên kia hoặc được ưu tiên nhận loại
tài sản để bảo đảm duy trì, ổn định cuộc sống của họ nhưng phải phù hợp với
hoàn cảnh thực tế của gia đình và của vợ, chồng [29, Đ7]; (2) “Công sức đóng
góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung” là
sự đóng góp về tài sản riêng, thu nhập, công việc gia đình và lao động của vợ,
chồng trong việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Người vợ hoặc
chồng ở nhà chăm sóc con, gia đình mà không đi làm được tính là lao động có
19


thu nhập tương đương với thu nhập của chồng hoặc vợ đi làm. Bên có công sức
đóng góp nhiều hơn sẽ được chia nhiều hơn[29, Đ7]; (3) “Bảo vệ lợi ích chính
đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều
kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập” là việc chia tài sản chung của vợ chồng
phải bảo đảm cho vợ, chồng đang hoạt động nghề nghiệp được tiếp tục hành
nghề; cho vợ, chồng đang hoạt động sản xuất, kinh doanh được tiếp tục được
sản xuất, kinh doanh để tạo thu nhập và phải thanh toán cho bên kia phần giá trị
tài sản chênh lệch. Việc bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất,
kinh doanh và hoạt động nghề nghiệp không được ảnh hưởng đến điều kiện sống
tối thiểu của vợ, chồng và con chưa thành niên, con đã thành niên nhưng mất
năng lực hành vi dân sự [29, Đ7]; (4) “Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền,
nghĩa vụ của vợ chồng” là lỗi của vợ hoặc chồng vi phạm quyền, nghĩa vụ về
nhân thân, tài sản của vợ chồng dẫn đến ly hôn [29, Đ7].
Trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, về nguyên tắc chia tài sản
khi ly hôn, đối với “tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi,
nhưng có xem xét hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp
của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản này. Lao động của vợ,

chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập”[27]. Đến Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2014, nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly
hôn được quy định tại Điều 59. Theo đó, tài sản chung của vợ chồng được chia
đôi nhưng có tính đến các yếu tố: Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;
công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài
sản chung; lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu
nhập; bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề
nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập; lỗi của mỗi bên
trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng. So sánh những nguyên tắc này với
Luật Hôn nhân và gia đình trước đó thì Luật Hôn nhân và gia đình 2014 đã bổ
sung một nguyên tắc rất quan trong trong việc phân chia tài sản của vợ chồng,
20


×