Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (734.47 KB, 91 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ QUỐC THẮNG

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BỒI THƢỜNG,
HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƢ KHI NHÀ NƢỚC
THU HỒI ĐẤT TỪ THỰC TIỄN
THỊ XÃ ĐIỆN BÀN, TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI, năm 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ QUỐC THẮNG

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BỒI THƢỜNG,
HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƢ KHI NHÀ NƢỚC
THU HỒI ĐẤT TỪ THỰC TIỄN
THỊ XÃ ĐIỆN BÀN, TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành: Chính sách công
Mã số
: 60 34 04 02


LUẬN VĂN THẠC SỸ CHÍNH SÁCH CÔNG

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. TRẦN MINH ĐỨC

HÀ NỘI, năm 2017


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được luận văn này, tôi xin chân thành cảm ơn đến Ban giám
đốc, các khoa, phòng và quý thầy, cô trong Học viện Khoa học Xã hội đã tận tình và
tạo điều kiện giúp đỡ cho tôi trong quá trình học tập. Đặc biệt, tôi xin gởi lời cảm
ơn sâu sắc đến Thầy giáo TS. Trần Minh Đức, người đã trực tiếp hướng dẫn đề tài
cho tôi với tất cả lòng nhiệt tình và sự quan tâm sâu sắc.
Bên cạnh đó, tôi cũng gởi lời cảm ơn của mình đến lãnh đạo các Phòng, Ban
ở thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, bạn bè, đồng nghiệp, luôn quan tâm, chia sẻ,
động viên tôi trong suốt thời gian học tập và thực hiện luận văn.
Mặc dù đã rất cố gắng trong quá trình thực hiện nhưng luận văn không thể tránh
khỏi những thiếu sót. Tác giả mong nhận được sự góp ý của quý thầy, cô và bạn bè.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận vàn Thạc sỹ
Chính sách công về “Thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất từ thực tiễn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam” là hoàn toàn trung
thực và không trùng lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn


Đỗ Quốc Thắng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...................................................................................................................1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
BỒI THƢỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƢ KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT 7
1.1. Sự cần thiết của chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất ...............................................................................................................................7
1.2. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất ...............................................................................9
1.3. Nội dung thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất .......................................................................................................................15
1.4. Các bước tổ chức thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất ........................................................................................................17
1.5. Những yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư khi Nhà nước thu hồi đất .....................................................................................21
1.6. Kinh nghiệm thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất tại một số địa phương .............................................................................25
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BỒI THƢỜNG,
HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƢ ĐỐI VỚI NGƢỜI DÂN BỊ NHÀ NƢỚC THU HỒI
ĐẤT TẠI THỊ XÃ ĐIỆN BÀN, TỈNH QUẢNG NAM .......................................29
2.1. Kết quả thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất tại thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam ...........................................................29
2.2. Thực trạng tổ chức thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất tại thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam ............................................31
2.3. Đánh giá thực trạng tổ chức thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất tại thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam ..............................38
CHƢƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH BỒI THƢỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƢ ĐỐI VỚI NGƢỜI

DÂN BỊ NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT TỪ THỰC TIỄN THỊ XÃ ĐIỆN BÀN,
TỈNH QUẢNG NAM TRONG THỜI GIAN TỚI ..............................................54


3.1. Quan điểm và mục tiêu nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất tại thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam .....54
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất tại thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam .................57
KẾT LUẬN .............................................................................................................77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nước ta đang trong quá trình CNH- HĐH đất nước, từng bước hội nhập với
nền kinh tế thế giới. Vì vậy, việc phát triển các khu, cụm công nghiệp và đô thị là
tất yếu. Sự phát triển các khu, cụm công nghiệp và đô thị dẫn đến sự thay đổi về
đất đai, lao động, việc làm, thu nhập và cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn.
Việc thu hồi đất để phục vụ cho lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và phát triển
kinh tế - xã hội là một quá trình tất yếu, tác động rất lớn đến người bị thu hồi đất.
Để bù đắp một phần thiệt thòi đó, Nhà nước ta đã ban hành chính sách bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư dành cho người dân bị Nhà nước thu hồi đất, từng bước hoàn
thiện theo hướng tạo điều kiện ngày càng tốt hơn cho người dân có đất bị thu hồi
ổn định đời sống và sản xuất.
Đất đai là vấn đề rất nhạy cảm và phức tạp, trong khi các quy định về bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư thường xuyên thay đổi dẫn đền tình trạng so bì, khiếu
nại của người có đất bị Nhà nước thu hồi qua các dự án hoặc trong một dự án
nhưng thực hiện thu hồi đất qua nhiều năm. Nhà nước chưa có cơ chế bắt buộc để
đảm bảo có quỹ đất và nguồn vốn xây dựng khu tái định cư trước khi thu hồi đất,
chất lượng các khu tái định cư được xây dựng cũng chưa đáp ứng yêu cầu “có điều

kiện bằng hoặc tốt hơn nơi cũ”, chưa chú trọng tạo việc làm mới, chuyển đổi nghề
cho người có đất bị thu hồi, việc lập và tổ chức thực hiện phương án bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư tại một số dự án còn thiếu kiên quyết, thiếu dân chủ, công khai,
minh bạch, năng lực, phẩm chất của đội ngũ cán bộ làm công tác giải phóng mặt
bằng ở nhiều nơi còn chưa đáp ứng yêu cầu, chưa phát huy vai trò của các tổ chức
quần chúng tham gia thực hiện. Một số địa phương thiếu sự phối hợp chặt chẽ
giữa các cấp, các ngành, chưa làm tốt công tác tuyên truyền, vận động, giải thích
cho nhân dân hiểu rõ quy định của Pháp luật hoặc né tránh, thiếu cương quyết,
không giải quyết dứt điểm, làm cho việc giải phòng mặt bằng bị kéo dài nhiều
năm. Từ thực tế đó đòi hỏi Nhà nước phải tiếp tục đổi mới chính sách bồi thường,

1


hỗ trợ, tái định cư đối với người dân bị Nhà nước thu hồi đất.
Điện Bàn là thị xã nằm về phía Bắc tỉnh Quảng Nam, trong vùng kinh tế
trọng điểm miền Trung, tiếp giáp với thành phố Đà Nẵng ở phía Bắc và thành phố
Hội An ở phía Đông Nam.Hiện nay, toàn thị xã có gần 40 khu dân cư đô thị được
quy hoạch đầu tư xây dựng với tổng diện tích hơn 1.117 ha, KCN Điện Nam Điện Ngọc đã cơ bản lấp đầy diện tích 390 ha với 49 dự án đầu tư, 11 cụm công
nghiệp đã quy hoạch chi tiết do thị xã quản lý chiếm diện tích là 92,525 ha. Trong
những năm qua công tác xây dựng và triển khai bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trên
địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam đã được cải thiện hơn trước rất nhiều.
Bên cạnh đó trong nội dung chính sách, tổ chức thực hiện vẫn còn nhiều vướng
mắc, vừa làm chậm tiến độ giải phóng mặt bằng để thực hiện dự án đầu tư, làm
ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn, hiệu quả của nền kinh tế.
Với những lý do nêu trên, bản thân em đã lựa chọn đề tài: “Thực hiện chính
sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thị xã
Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam” làm luận văn tốt nghiệp chuyên ngành Chính sách
công là có tính cấp thiết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Từ hơn hai thập niên trở lại đây, bồi thường giải phóng mặt bằng nói chung
và tái định cư nói riêng là một vấn đề rất nhức nhối, thường xuyên thu hút được sự
quan tâm của dư luận. Bởi vậy, có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều bài viết đề
cập vấn đề này. Trong đó, phải kể đến các công trình nghiên cứu: Luận văn Thạc sỹ
Luật học của Nguyễn Vĩnh Diện "Pháp luật về bồi thường thiệt hại khi Nhà nước
thu hồi đất" năm 2006; Luận văn Thạc sỹ Luật học của Đinh Thị Huệ "Thực hiện
pháp luật về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ở tỉnh Hà
Nam hiện nay"; Khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật học của Nguyễn Thu Hiền năm
2007 và Nguyễn Hoàng Dương năm 2009 cùng về đề tài "Các vấn đề pháp lý về tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất thực hiện các dự án đầu tư"… Bên cạnh đó, có
nhiều bài viết về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư được đăng trên các tạp chí uy tín
như: Chính sách hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất của Trần Quang Huy đăng trên tạp

2


chí Luật học số 10/2010; Về chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất của Nguyễn Thị Phượng đăng trên Tạp chí Quản lý Nhà nước số
176 (tháng 9/2010); Pháp luật về bồi thường, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
của Singapore và Trung Quốc - những gợi mở cho Việt Nam trong hoàn thiện pháp
luật về bồi thường, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất của Nguyễn Quang Tuyến
và Nguyễn Ngọc Minh đăng trên Tạp chí Luật học số 10/2010; Chính sách bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư trong thu hồi đất: Vấn đề và giải pháp của TS. Đỗ Phú
Hải đăng trên Tạp chí Cộng sản số 89 tháng 5/2014…
Nói chung, các công trình, bài báo nêu trên đều nghiên cứu về công tác bồi
thưỡng, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ở mức độ và phạm vi khác
nhau. Có công trình, bài báo nghiên cứu đi sâu phân tích, bình luận một số khía
cạnh pháp về công tác bồi thưỡng, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Bên
cạnh đó, lại có công trình nghiên cứu vấn đề này thông qua việc đánh giá thực


trạng áp dụng pháp luật tại địa bàn cụ thể của một tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương... Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu vấn đề này nhìn
từ góc độ thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
trên phạm vi địa bàn cấp quận, huyện, thị xã. Với mong muốn được tiếp cận
vấn đề từ góc độ thực tiễn một cách chi tiết, đồng thời bằng việc tham chiếu
giữa các quy định của pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất với
thực tiễn áp dụng qua các vụ việc, tình huống cụ thể, một mặt học viên chỉ ra
được những quy định phù hợp, không phù hợp của pháp luật với thực tiễn
cuộc sống, mặt khác cũng đưa ra những nhận xét, đánh giá việc thực thi pháp
luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của các cơ quan, tổ chức, cá nhân
có thẩm quyền ở một địa bàn cụ thể. Trên cơ sở đó, tôi đề xuất một số giải
pháp góp phần hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật
về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất cho phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn
hiện nay và trong tương lai.
Tuy nhiên, các nghiên cứu trên thiên về góc nhìn pháp lý, các quy định của

3


pháp luật đất đai về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư gắn liền với các đạo luật đất đai
và các hướng dẫn của Chính Phủ trong thời gian vừa qua. Do đó, dưới góc độ
chuyên ngành Chính sách công thì đến nay chưa có nhiều công trình nghiên cứu
chuyên sâu và đặc biệt tại một địa phương cụ thể về: "Thực hiện chính sách bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thị xã Điện Bàn,
tỉnh Quảng Nam”. Do đó, đề tài này không trùng lặp với các công trình đã công bố,
có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Mục đích của luận văn là làm rõ cơ sở lý thuyết của việc thực hiện chính
sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và kiến nghị giải pháp

thực tiễn nhằm hoàn thiện chính sách thu hồi đất đền bù, hỗ trợ, tái định cư đối với
người dân trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Hệ thống hóa cơ sở lý thuyết của việc thực hiện chính sách bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ở nước ta;
Tổng hợp kinh nghiệm thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất ở một số địa phương trong nước và rút ra bài học kinh
nghiệp cho thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam;
Phân tích và chỉ ra những điểm hợp lý và chưa hợp lý của việc thực hiện
chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn thị
xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam hiện nay.
Kiến nghị định hướng và giải pháp cơ bản hoàn thiện việc thực hiện chính
sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn thị xã
Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu trong luận văn là việc thực hiện chính sách bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư đối với người dân mất đất trên địa bàn thị xã Điện Bàn,
tỉnh Quảng Nam.
4


4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Ở đây, việc thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đối với người
dân mất đất trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam là sự cụ thể hóa các
chính sách chung của Luật đất đai, các Nghị định và các Thông tư hướng dẫn thi
hành cho phù hợp với thực tế của thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam cũng như tuân
thủ chế độ phân cấp quản lý đất đai của Nhà nước. Nói cách khác, ngoài các quy
định chung đã được quy định để thực hiện thống nhất trong phạm vi toàn quốc, luận
văn còn căn cứ vào tình hình của địa phương, đồng thời có khảo sát một số chính

sách do UBND các địa phương khác.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận:
Luận văn dựa trên lập trường của Chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối của
Đảng, Pháp luật của Nhà nước ta để xem xét việc thực hiện chính sách bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
Trong các phân tích sâu sẽ kết hợp phương pháp tổng hợp với phương pháp
phân tích, phương pháp quy nạp và ngoại suy để đánh giá tiến trình lịch sử cụ thể
hóa của việc thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Đặc biệt, tiếu chí đánh giá
việc thực hiện chính sách chủ yếu dựa vào kết quả thực tiễn với điều kiện của thị xã
Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Đưa ra các căn cứ khoa học của việc thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Qua đó chỉ ra những điểm hợp lý và chưa hợp
lý của việc thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
Kiến nghị hệ thống giải pháp hoàn thiện việc thực hiện chính sách bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn thị xã Điện Bàn,
tỉnh Quảng Nam trong thời gian đến.

5


7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Nội dung
chính của luận văn bao gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.

Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
đối với người dân bị Nhà nước thu hồi đất tại thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
Chương 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực chính sách bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư đối với người dân bị Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thị xã Điện
Bàn, tỉnh Quảng Nam trong thời gian tới.

6


CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
BỒI THƢỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƢ KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT
1.1. Sự cần thiết của chính sách bồi thƣờng, hỗ trợ, tái định cƣ khi Nhà
nƣớc thu hồi đất
Trên thực tế hiện nay, vấn đề thu hồi đất là một vấn đề hết sức phức tạp và nan
giải. Từ xã xưa đất đai là một tư liệu sản xuất quan trọng bậc nhất của con người
trong việc con người tạo ra của cải vật chất phục vụ cho bản thân và xã hội, ngày nay
khi dân số ngày càng tăng, đất đại ngày càng thu hẹp giá trị đất đại ngày một lên cao
thì việc quản lý nhà nước đối với đất đai lại càng khó khăn. Nếu không có những
chính sách hợp lý thì nhà nước sẽ không được lòng dân, nếu không quan tâm tới lợi
ích của nhân dân khi thực hiện các chính sách về đất đai thì sẽ làm nảy sinh nhiều vấn
đề như khiếu nại, tố cáo, biểu tình hay chống đối lại chính quyền. Do vậy Nhà nước
cần có những chính sách hợp lý để đảm bảo cho quyền lợi của nhân dân, của nhà
nước và đảm bảo cho chế độ xã hội chủ nghĩa được phát triển bền vững.
Đất đai là tư liệu sản xuất, vừa là môi trường sống của người dân. Do đó mất
đất, đồng nghĩa với mất chỗ ở, mất nơi tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh. Hay
nói cách khác, việc thu hồi đất của Nhà nước đã ảnh hưởng bất lợi đến người dân bị
mất đất trên các phương diện sau đây.
Thứ nhất, mất chỗ ở:
Chỗ ở của người dân không chỉ đơn thuần là nơi họ ăn ở mà còn gắn với tài

sản, môi trường, các quan hệ kinh tế xã hội, văn hóa đã gắn họ với địa bàn đó. Khi
thu hồi đất, Nhà nước không chỉ thu hồi quyền sử dụng diện tích đất, mà còn lấy đi
cơ hội tiếp nối cuộc sống quen thuộc của họ, buộc họ phải chuyển sang một địa bàn
mới với các quan hệ và cơ hội không giống trước. Đối với những người khó thích
nghi với điều kiện mới, nhất là đối với những nông dân đã trên 45 tuổi, đối với
những người dân đã gắn với làng nghề truyền thống,... thì việc di dời là một biến cố
nặng nề. Nhiều người chưa được chuẩn bị sẵn cho việc di chuyển như vậy nên cuộc

7


sống tương lai của họ sẽ gặp khó khăn hơn. Hơn nữa, khi chuyển nhà, các chi phí
phát sinh do cần xây dựng lại nhà cửa, tạo dựng hạ tầng sinh hoạt, dịch vụ chung là
khá lớn, nếu không có sự hỗ trợ bên ngoài, nhiều người dân mất đất sẽ không tự giải
quyết được. Đặc biệt, khi di dời bất đắc dĩ chỗ ở do đất bị thu hồi, nhiều người dân
có tâm lý không thoải mái, tâm lý bị thua thiệt. Nếu không có sự đã thông tư tưởng
và một số hình thức bồi thường thích hợp, những người dân mất chỗ ở có thể bị
kích động, phản ứng tiêu cực với chính sách thu hồi đất của Nhà nước.
Thứ hai, mất tư liệu sản xuất:
Đất bị thu hồi là đất nông nghiệp hay phi nông nghiệp đều là tư liệu sản xuất
quan trọng của người sử dụng đất cũ. Khi nhà nước thu hồi có bồi thường bằng diện
tích đất khác đi chăng nữa cũng làm cho người bị mất đất thua thiệt trên các phương
diện như: mất địa thế của địa điểm đã quen dùng; mất một phần thành quả đầu tư
vào đất. Chính vì vậy, người sử dụng đất không muốn giao đất cho Nhà nước nếu
không được bồi thường xứng đáng.
Ngay cả khi Nhà nước bồi thường xứng đáng bằng tiền cho người có đất bị
thu hồi thì họ cũng mất việc làm do không còn địa bàn. Nếu Nhà nước bồi thường
cho họ một diện tích đất ở nơi khác thì họ cũng mất chi phí xây dựng lại từ đầu,
hoạt động sản xuất kinh doanh với nhiều điểm bất lợi hơn trước.
Sự mất mát, thua thiệt, tâm lý lo sợ tương lai không rõ ràng khiến nhiều

người tìm mọi cách để không phải giao đất cho Nhà nước, từ vận động hành lang
quy hoạch đến chây lì, phản đối tập thể… Muốn thu hồi đất hiệu quả, Nhà nước
phải có phương án giải quyết thỏa đáng các mâu thuẫn này.
Thứ ba, bức xúc vì phân chia lợi ích không công bằng:
Do chuyển mục đích sử dụng đất hoặc xây dựng cơ sở hạ tầng trên đất thu
hồi sẽ làm cho một số chủ thể kinh tế có lợi ích tăng lên (ví dụ: doanh nghiệp nhận
đất xây dựng khu đô thị, người có đất hai bên đường mới làm,…) đi đôi với thua
thiệt trông thấy của người dân mất đất dẫn đến các xung đột lợi ích gay gắt. Người
mất đất cảm thấy mình bị đối xử bất công hơn khi hàng xóm của mình giàu lên
không nhờ công sức của họ mà nhờ đất của mình bỏ ra làm đường hoặc sẽ phẫn nộ

8


khi giá bồi thường cho họ thấp hơn nhiều so với giá đất doanh nghiệp bán cho họ,…
Bên cạnh đó, công tác tái định cư khó khăn cũng làm cho người bị mất đất
thua thiệt. Do nhiều địa phương thiếu quỹ đất nông nghiệp để bồi thường thích đáng
cho nông dân, nên nhiều nông dân, sau khi nhận tiền bồi thường đã không có công
ăn việc làm, không có kinh nghiệm kinh doanh nên tiền bồi thường nhanh chóng
tiêu hao. Nơi ở mới nhiều khi không được xây dựng cơ sở hạ tầng hoàn thiện làm
cho cuộc sống của họ ở nơi tái định cư càng khó khăn hơn. Chính vì thế, nhiều
người dân mất đất hoặc rơi vào nghèo khó hoặc rơi vào tệ nạn xã hội và trở thành
gánh nặng cho chính họ và cho xã hội.
Ngoài ra, việc thu hồi đất không chỉ gây tác động bất lợi cho người mất đất
mà còn tạo thêm sức ép cho Nhà nước về phương diện tài chính, về công tác quản
lý và điều hành. Chính vì thu hồi đất có nhiều tác động không mong muốn như vậy
nên Nhà nước, một mặt phải có quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất hợp lý, dài hạn, ổn
định, nhằm hạn chế xáo trộn; mặt khác, phải xây dựng chính sách bồi thường, hỗ trợ
và tái định cư đối với người dân thu hồi đất một cách hợp lý.
1.2. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của thực hiện chính sách bồi

thƣờng, hỗ trợ, tái định cƣ khi Nhà nƣớc thu hồi đất
1.2.1. Khái niệm, đặc điêm thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất
Chính sách bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước trả lại giá
trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất bị thu hồi cho người bị thu hồi đất.
Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước giúp đỡ, tạo điều kiện cho
người có đất bị thu hồi ổn định đời sống sản xuất, vượt qua khó khăn khi Nhà nước
thu hồi đất. Các khoản hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất bao gồm: Hỗ trợ di chuyển,
hỗ trợ tái định cư đối với trường hợp thu đất ở, hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất,
hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề và tạo việc làm đối với trường hợp thu hồi đất nông
nghiệp, hỗ trợ khi thu hồi đất nông nghiệp trong khu dân cư, đát vườn, ao không
được công nhận là đất ở, hỗ trợ khác [12].
Tái định cư là việc bố trí chỗ ở mới, ổn định cho người bị thu hồi đất mà phải

9


di chuyển chỗ ở. Theo quy định của pháp luật thì khu tái định cư phải được xây
dựng cơ sở hạ tầng đồng bộ, đảm bảo đủ điều kiện bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ.
Có thể hiểu rằng thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất là một khâu hợp thành chu trình chính sách, là toàn bộ quá trình
chuyển hóa ý chí của chủ thể trong chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư thành
hiện thực đối với các đối tượng bị Nhà nước thu hồi đất nhằm đạt được mục đích
theo định hướng.
Thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất có những đặc điểm như sau:
Thứ nhất, yếu tố quan trọng hàng đầu quyết định thành công của việc thực
hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư là phải đảm bảo được tính công
bằng. Nếu việc thực hiện chính sách công bằng, những người bị thu hồi đất sẽ tự
nguyện chấp hành. Ngược lại, họ sẽ phản ứng về chính sách bồi thường, hỗ trợ và

tái định cư bằng nhiều hình thức khác nhau, từ đơn giản đến phức tạp, trong đó đặc
biệt là các khiếu kiện đông người ở một số địa phương trong cả nước. Công bằng ở
đây là công bằng về chính sách, công bằng về chế độ, về đơn giá, về mức bồi
thường, hỗ trợ, về đối tượng thụ hưởng,… Công bằng không có nghĩa là cào bằng
bình quân. Để việc thực hiện chính sách công bằng phải hoạch định việc thực hiện
chính sách sát với thực tế, xem xét lại lợi ích một cách phân minh. Nguyên tắc công
bằng phải được quán triệt và thực hiện nhất quán từ trên xuống dưới, từ dưới lên
trên. Ví dụ, hai hộ liền kề có nguồn gốc đất như nhau, quá trình sử dụng như nhau,
điều kiện hạ tầng như nhau thì giá bồi thường và mức bồi thường phải như nhau.
Thứ hai, để bảo vệ quyền lợi của người dân bị Nhà nước thu hồi đất thì việc
thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ tái định cư phải được thực hiện một cách
công khai, minh bạch. Nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của lĩnh vực pháp
luật này đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, Đảng và Nhà nước đã
chỉ đạo các cấp, các ngành thực hiện việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nâng cao
nhận thức của người dân về Luật Đất đai 2013 nói chung và các quy định về bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư nói riêng. Trước khi thực hiện việc thu hồi đất, bồi

10


thường, hỗ trợ, tái định cư, các địa phương đều triển khai công tác tuyên truyền,
giáo dục, vận động nhân dân hiểu và chấp hành chủ trương, chính sách, pháp luật
của Đảng và Nhà nước về thu hồi đất. Điều này đã góp phần nâng cao sự đồng
thuận của người dân với quyết định thu hồi đất của Nhà nước. Trong việc thu hồi
đất, các địa phương đều công khai phương án tổng thể về bồi thường, hỗ trợ, tái
đinh cư tại trụ sở UBND hoặc trên các phương tiện truyền thông để mọi người dân
được biết. Hơn nữa, chính quyền cấp cơ sở còn tổ chức nhiều cuộc họp, đối thoại
với người dân nhằm tạo điều kiện để họ được bàn bạc, góp ý về phương án bồi
thường cũng như lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của người bị thu hồi đất. Trên cơ
sở đó, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền kịp thời điều chỉnh, sửa đổi phương án bồi

thường, hỗ trợ, tái định cư cho phù hợp. Tính minh bạch còn được thể ở hiện ở việc
đại diện của những người bị thu hồi đất tham gia vào Hội đồng bồi thường, giải
phóng mặt bằng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất khi
Nhà nước thu hồi đất. Ở hầu hết các địa phương, quy trình, thủ tục thu hồi đất, bồi
thường, hõ trợ, tái định cư được công bố công khai để mọi người dân biết và giám
sát thực hiện. Hầu hết mọi tranh chấp, khiếu kiện của người dân liên quan đến việc
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đều được các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tiếp
nhận, giải thích và xử lý kịp thời. Các nguyên tắc công khai, minh bạch, bình đẳng,
dân chủ và đúng pháp luật được các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tuân thủ nên
đã tạo ra sự đồng thuận tương đối cao của người dân. Bên cạnh việc giải quyết bồi
thường cho người bị thu hồi đất, các địa phương còn chú trọng thực hiện những chính
sách hỗ trợ, tái định cư cho người bị thu hồi đất, người bị mất đất sản xuất nhằm giúp
họ nhanh chóng ổn định đời sống và sản xuất. Hơn nữa, thông qua việc thi hành pháp
luật về bồi thường, giải phóng mặt bằng, các cơ quan thực thi đã phát hiện và kiến
nghị Nhà nước kịp thời sửa đổi, bổ sung các quy định bất hợp lý, mâu thuẫn, chồng
chéo nhằm nâng cao tính công khai, minh bạch của lĩnh vực pháp luật này.
Thứ ba, tính hiệu quả của việc thực hiện chính sách đòi hỏi người có thẩm
quyền thực thi chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư phải cân nhắc tính toán
kỹ càng về mọi mặt trước khi quyết định. Hiệu quả ở đây được hiểu trước hết là

11


hiệu quả về kinh tế sau đó là hiệu quả về mặt xã hội (ổn định tình hình, ổn định đời
sống). Nói cách khác, phải tạo được sự đồng thuận của người dân trong vùng dự án.
Hiệu quả đặc điểm này phải đạt được cả trong ngắn hạn cũng như trong dài hạn.
Tuyệt đối không vì lợi ích trước mắt mà không tính đến lợi ích lâu dài cho các thế
hệ mai sau.
Thứ tư, tính dân chủ đòi hỏi trong hoạch định việc thực hiện chính sách bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư phải tham khảo ý kiến của người dân, nhất là những

người chịu ảnh hưởng trực tiếp. Khi quyết định phải theo nguyên tắc thiểu số phục
tùng đa số, tập thể bàn bạc cân nhắc kỹ trước khi quyết định. Tuyệt đối không được
áp đặt quyết định từ một phía, không được tuyệt đối hóa vai trò của cá nhân cán bộ
có chức quyền. Dân chủ nhưng phải tập trung, đồng thời tập trung nhưng phải dân
chủ cả ở khâu hoạch định chính sách cũng như thực hiện chính sách, phải đối xử với
mọi người một cách bình đẳng, tôn trọng quyền và nghĩa vụ của họ.
1.2.2. Vai trò của thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất
Thứ nhất, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất, người
sở hữu nhà ở:
Xét về mặt lịch sử, đất đai là thành quả xây dựng và bảo vệ của nhiều thế hệ
liên kết trong một quốc gia. Theo nghĩa đó, đất đai là tài sản chung. Chế độ xã hội
chủ nghĩa ở nước ta đã hiện thực hóa quan hệ pháp lý của tài sản chung đó. Tuy
nhiên, việc sử dụng đất đai lại phân cấp cho các tổ chức và các hộ gia đình, cá nhân.
Vì thế, cần có cơ chế phân định hợp lý quyền hạn, trách nhiệm, lợi ích xã hội (đại
diện là Nhà nước) và công dân trong quan hệ đất đai.
Trong Điều 5 Luật Đất đai năm 2003 đã quy định: “Đất đai thuộc sở hữu toàn
dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu…Nhà nước trao quyền sử dụng đất thông qua
hình thức giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất đối với người đang sử
dụng đất ổn định; quy định quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất”.
Như vậy chúng ta có thể thấy, về mặt pháp lý dù người sử dụng đất được
hưởng thành quả từ việc sử dụng đất vào các hoạt động kinh tế - xã hội nhưng đất

12


đai phải được sử dụng nhằm mục đích phục vụ sự tồn tại và phát triển của xã hội mà
Nhà nước là người đại diện. Mục tiêu của xã hội là đất chung phải được sử dụng sao
cho phục vụ tốt nhất đối với phát triển kinh tế, kiến thiết xã hội và cải thiện chất
lượng sống nói chung của dân cư. Vì thế đất đai phải được sử dụng theo quy hoạch

và kế hoạch chung của Nhà nước.
Tuy nhiên, các cơ quan nhà nước thường không phải là người sử dụng trực
tiếp mà người dân mới là người khai thác quỹ đất. Họ chỉ khai thác quỹ đất hiệu quả
khi quyền lợi của họ được tôn trọng và bảo hộ. Làm thế nào để mục tiêu chung của
xã hội và mục tiêu riêng của người sử dụng đất hài hòa với nhau tạo điều kiện cho
phát triển nhanh, bền vững là mục tiêu quan trọng của việc thực hiện chính sách bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư. Ở đây, xử lý tốt mối quan hệ giữa quyền sở hữu và
quyền sử dụng đất cũng như vận dụng các công cụ tổ chức, tuyên truyền, tài chính
của việc thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư là rất quan trọng.
Quyền sở hữu và quyền sử dụng đất có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Quyền sở hữu toàn dân về đất đai ở nước ta là quyền sở hữu về mặt pháp lý. Các tổ
chức, hộ gia đình, cá nhân được giao quyền sử dụng đất thực tế và phải thực hiện
các nghĩa vụ đối với Nhà nước. Nếu quan hệ này được thiết lập hợp lý thì việc thực
hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất đối với
các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sẽ dễ triển khai hơn.
Do đó, việc thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư phải đảm
bảo hài hòa lợi ích và để thực hiện được điều đó thông thường, việc thực hiện chính
sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư phải đáp ứng các yêu cầu sau:
- Tạo điều kiện để người bị mất đất có cuộc sống bằng hoặc tốt hơn trước khi
mất đất.
- Điều tiết phần lợi ích gia tăng không do các cá nhân tạo ra về ngân sách
Nhà nước.
- Tạo điều kiện để người sử dụng đất sau này hoàn thành mục tiêu đã được
xã hội chấp nhận.
- Bảo tồn được quỹ đất và môi trường.

13


Thứ hai, ổn định cuộc sống, ổn định việc làm cho người dân bị mất đất:

Việc Nhà nước thu hồi đất của các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình ở nước ta
không hoàn toàn mang tính thị trường nên việc quan tâm đến cuộc sống của người
dân bị mất đất là một mục tiêu quan trọng. Để ổn định cho cuộc sống của người dân
bị mất đất cần xây dựng khu tái định cư đồng bộ, có cơ sở hạ tầng, kinh tế - xã hội,
văn hóa ít nhất không được thấp hơn địa điểm cũ, nhất là các dịch vụ thiết yếu như
giao thông, điện, nước, y tế, giáo dục, hành chính,…
Ở nước ta, mục tiêu này thường khó hoàn thành do kinh phí Nhà nước còn
khó khăn và việc tổ chức thực hiện thiếu chặt chẽ, thiếu kiểm tra. Vì vậy mà khu tái
định cư không được xây dựng tốt thì nhân dân sẽ không đồng tình dẫn đến họ không
di dời hoặc chậm di dời bàn giao mặt bằng.
Để ổn định lâu dài cho người dân bị mất đất, cần tạo điều kiện cho họ có việc
làm thông qua các chương trình đào tạo, hỗ trợ đầu tư, lập nghiệp hoặc xúc tiến giới
thiệu việc làm. Trên thực tế việc làm của cơ quan tái định cư và người dân không
trùng khớp, do dịch vụ hỗ trợ không phù hợp với điều kiện với người dân.
Thứ ba, góp phần thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai, xây dựng
và phát triển nhà ở, phát triển kinh tế - xã hội:
Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất là công cụ của Nhà nước bố trí, sắp xếp các
loại đất và nhà ở cho đối tượng sử dụng theo không gian và thời gian phù hợp với
mục tiêu sử dụng đất hiệu quả và thực hiện thành công chiến lược phát triển kinh tế
- xã hội của đất nước. Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất sau khi đã được xây dựng
có căn cứ khoa học và phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước là phương án sử dụng đất tốt nhất để Nhà nước và nhân dân thực hiện.
Để việc thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư góp phần vào
việc quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cần chủ động hoạch định việc thực hiện chính
sách cụ thể cho các khu đất ở, các dự án xây dựng vùng, phát triển các ngành nghề
khác nhau như nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng, dịch vụ hoặc là việc chuyển
đổi các loại đất khác nhau sang các mục đích sử dụng khác nhau để tạo điều kiện
thuận lợi cho thực hiện. Nói cách khác, trước khi mở một con đường, xây dựng một

14



khu đô thị mới hay xây dựng khu công nghiệp, xây dựng kết cấu hạ tầng,…cần tuân
thủ quy hoạch trong việc lựa chọn sử dụng các khu đất mới hoặc lấy các khu đất
đang sử dụng vào một mục đích cụ thể nào đó để sử dụng cho các mục đích khác
trên cơ sở đó xây dựng các định mức, phương thức đối với việc thực hiện chính
sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho thích hợp. Không nên xây dựng kế hoạch
thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư một cách tùy tiện. Khi tính
tiền bù đắp thiệt hại cho người sử dụng đất do bị thu hồi đất để sử dụng vào mục
đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và phát triển kinh tế,
các cơ quan liên quan phải căn cứ vào quy hoạch để xem xét tính hợp lý của khu tái
định cư cũng như để điều hòa lợi ích phát sinh theo quy hoạch.
1.3. Nội dung thực hiện chính sách bồi thƣờng, hỗ trợ, tái định cƣ khi
Nhà nƣớc thu hồi đất
Theo nguyên tắc khi Nhà nước thu hồi đất mà chủ sở hữu tài sản hợp pháp
gắn liền với đất bị thiệt hại thì được Nhà nước tiến hành bồi thường. Trên cơ sở các
Dự án thuộc các trường hợp thu hồi đất, kế hoạch sử dụng đất hàng năm (đã được
phê duyệt) của cấp huyện và tiến độ sử dụng đất của Dự án, cơ quan có thẩm quyền
(UBND cấp tỉnh hoặc UBND cấp huyện tùy trường hợp) chuẩn bị các thủ tục cần
thiết để thu hồi đất.
Căn cứ pháp lý là Luật đất đai 2013 và Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày
15/5/2014 của Chính phủ quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất. Theo đó, việc thu hồi đất được chia thành 04 nhóm như sau:
- Nhóm 1: Thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh.
- Nhóm 2: Thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công
cộng. Luật Đất đai năm 2013 thu hẹp hơn các trường hợp Nhà nước thu hồi đất để
phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Nhà nước chỉ thu hồi đất
đối với các dự án đã được Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư; dự án được Thủ
tướng Chính phủ chấp thuận, quyết định đầu tư và một số trường hợp được Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh xem xét thông qua chủ trương thu hồi đất.

- Nhóm 3: Thu hồi đất do vi phạm pháp luật; đặc biệt đối với trường hợp

15


không đưa đất đã được giao, cho thuê vào sử dụng hoặc chậm đưa đất vào sử dụng.
Luật Đất đai năm 2013 quy định chế tài mạnh để xử lý đối với các trường hợp này:
“Đất được Nhà nước giao, cho thuê để thực hiện dự án đầu tư mà không được sử
dụng trong thời hạn 12 tháng liên tục hoặc tiến độ sử dụng đất chậm 24 tháng so với
tiến độ ghi trong dự án đầu tư kể từ khi nhận bàn giao đất trên thực địa phải đưa đất
vào sử dụng; trường hợp không đưa đất vào sử dụng thì chủ đầu tư được gia hạn sử
dụng 24 tháng và phải nộp cho Nhà nước khoản tiền tương ứng với mức tiền sử
dụng đất, tiền thuê đất đối với thời gian chậm tiến độ thực hiện dự án trong thời
gian này; hết thời hạn được gia hạn mà chủ đầu tư vẫn chưa đưa đất vào sử dụng thì
Nhà nước thu hồi đất mà không bồi thường về đất và tài sản gắn liền với đất, trừ
trường hợp do bất khả kháng”.
- Nhóm 4: Thu hồi đất do chấm dứt việc sử dụng đất theo pháp luật, tự
nguyện trả lại đất, có nguy cơ đe dọa tính mạng con người.
Các chủ thể thực hiện gồm:
- Sở Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với Sở Tài chính, Sở Xây
dựng, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và các Sở, Ban, ngành có liên quan
hướng dẫn triển khai thực hiện Quy định này; đồng thời hướng dẫn một số biểu mẫu
có liên quan để các địa phương, đơn vị áp dụng thống nhất trên địa bàn tỉnh.
- Uỷ ban nhân dân các huyện, thị xã, thành phố tổ chức tuyên truyền, phổ biến,
kiểm tra, đôn đốc các địa phương, đơn vị thực hiện đúng trình tự, thủ tục bồi thường,
hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn theo Quy định này.
Trong quá trình thực hiện nếu có phát sinh vướng mắc, các địa phương, đơn
vị có văn bản gửi Sở Tài nguyên và Môi trường để được hướng dẫn theo thẩm
quyền hoặc tổng hợp, đề xuất, báo cáo UBND tỉnh xem xét điều chỉnh, bổ sung.
Chánh Văn phòng UBND tỉnh; thủ trưởng các Sở, Ban, ngành: Tài nguyên

và Môi trường, Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư, Xây dựng, Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn, Lao động - Thương binh và Xã hội, Công thương, Giao thông vận
tải, Tư pháp; Trưởng Ban Quản lý Khu kinh tế mở, Trưởng Ban Xúc tiến đầu tư và
Hỗ trợ doanh nghiệp, Trưởng Ban Quản lý các Khu công nghiệp, Cục trưởng Cục

16


Thuế, Giám đốc Kho bạc Nhà nước tỉnh; Chủ tịch UBND các huyện, thị xã, thành
phố; các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân và thủ trưởng cơ quan có liên quan
1.4. Các bƣớc tổ chức thực hiện chính sách bồi thƣờng, hỗ trợ, tái định
cƣ khi Nhà nƣớc thu hồi đất
Bước 1: Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách bồi thường, hỗ
trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
Để đưa các chính sách nói chung và chính sách bồi thường, hỗ trợ tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất nói riêng vào cuộc sống cần phải xây dựng kế hoạch triển
khai thực hiện. Đây là cơ sở, là công cụ quan trọng để triển khai thực hiện chính
sách, các nội dung nhiệm vụ trong kế hoạch cung cấp các nguồn lực cho việc thực
hiện chính sách, việc kiểm tra, đôn đốc thực thi chính sách, việc xác định hợp lý
thời gian thực hiện chính sách. Hiệu quả thực hiện chính sách phụ thuộc vào
chất lượng, tính chính xác, tính khả thi của kế hoạch. Cần phải xây dựng kế hoạch
cụ thể để có thể xác định được mục tiêu, nội dung, nhiệm vụ, các nguồn lực, thời
gian và giải pháp tổ chức thực hiện chính sách. Kế hoạch triển khai thực hiện chính
sách cần được xây dựng trước khi đưa chính sách vào cuộc sống. Các cơ quan có
nhiệm vụ triển khai thực thi chính sách từ Trung ương đến địa phương đều phải xây
dựng kế hoạch, chương trình thực hiện. Kế hoạch triển khai thực hiện gồm:
- Kế hoạch tổ chức điều hành.
- Kế hoạch cung cấp các nguyên liệu.
- Kế hoạch thời gian triển khai thực hiện.
- Kế hoạch kiểm tra, đôn đốc, thực thi đưa chính sách vào cuộc sống. Ngoài

ra, trong kế hoạch thực hiện chính sách cần phải xây dựng nội quy, quy chế tổ
chức điều hành thực hiện chính sách; về nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan Nhà
nước, cán bộ công chức tham gia tổ chức điều hành chính sách; về biện pháp, giải
pháp khen thưởng, kỷ luật đối với cá nhân, tập thể trong tổ chức thực hiện. Việc
lập kế hoạch thực hiện chính sách tốt sẽ giúp cho việc thực thi được khả thi và
không phải qua điều chỉnh, bổ sung trong quá trình thực hiện.
Bước 2: Phổ biến, tuyên truyền chính sách bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất
17


Phổ biến tuyên truyền thực hiện chính sách là một hoạt động quan trọng
trong thực hiện chính sách. Việc phổ biến, tuyên truyền không chỉ giúp người dân,
các doanh nghiệp và toàn xã hội hiểu rõ về mục đích, yêu cầu, tầm quan trọng
của chính sách, mà còn giúp các cơ quan Nhà nước, các cán bộ công chức, các tổ
chức xã hội có trách nhiệm tổ chức thực thi chính sách được nhận thức đầy đủ tính
chất, tầm quan trọng, vai trò, quy mô của chính sách đối với người dân và đối với
toàn xã hội. Cần phải lựa chọn hình thức, phương pháp phổ biến, tuyên truyền khác
nhau nhằm tạo mối quan tâm thúc đẩy sự thay đổi nhận thức của người bị Nhà
nước thu hồi đất đối với việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
Bước 3: Phân công, phối hợp thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất
Trong tổ chức và thực hiện các chính sách nói chung, chính sách bồi thường,
hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất nói riêng thì công tác phân công, phối
hợp thực hiện có ý nghĩa quan trọng, tác động đến hiệu quả thực hiện chính sách.
Muốn tổ chức thực hiện chính sách có hiệu quả cần phải phân công, phối hợp một
cách chặt chẽ, hợp lý giữa các cơ quan quản lý ở Trung ương và địa phương. Cần
phải phân công nhiệm vụ và trách nhiệm cụ thể của cơ quan chủ trì và cơ quan phối
hợp. Thông qua việc phân công, phối hợp thực hiện chính sách một cách khoa học
sẽ phát huy được những nhân tố tích cực, góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện

chính sách. Trong phân công nhiệm vụ cần chú ý đến khả năng, trình độ năng lực
chuyên môn, thế mạnh của từng tổ chức, cá nhân, hạn chế tình trạng chồng chéo
nhiệm vụ và trách nhiệm không rõ ràng.
Bước 4: Duy trì chính sách bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất
Duy trì thực hiện chính sách là làm cho chính sách được tồn tại và phát
triển trong môi trường thực tế. Muốn cho chính sách được duy trì đòi hỏi phải có
sự đồng tâm, hợp lực của cả người tổ chức, người thực hiện và môi trường tồn tại.
Tuy nhiên, trong thực tế khi thực thi thì lại vướng một số hạn chế nhất định, đó có
thể là do nhà hoạch định chính sách không lường hết được kết quả ban hành chính

18


sách hoặc do sự thay đổi môi trường chính sách trước và sau khi ban hành. Vì vậy,
các cơ quan quản lý nhà nước cần sử dụng hệ thống, công cụ quản lý để tác động
nhằm tạo lập môi trường thuận lợi cho việc thực thi chính sách. Các tổ chức, người
dân và toàn xã hội có trách nhiệm tham gia thực hiện yêu cầu của Nhà nước; phát
huy quyền làm chủ, tăng cường thực hiện dân chủ để cùng tham gia quản lý xã
hội. Những hoạt động đồng bộ trên sẽ góp phần tích cực vào việc duy trì
chính sách trong quá trình phát triển xã hội.
Bước 5: Điều chỉnh chính sách bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất
Điều chỉnh chính sách là một hoạt động cần thiết, diễn ra thường xuyên trong
tiến trình tổ chức thực hiện chính sách, nhằm mục đích đảm bảo cho chính sách phù
hợp với yêu cầu quản lý và tình hình thực tế. Nó được thực hiện bởi cơ quan quản
lý nhà nước về đất đai. Theo quy định, cơ quan nào ban hành chính sách thì cơ
quan đó điều chỉnh, bổ sung chính sách. Nhưng trên thực tế việc điều chỉnh cơ
chế, biện pháp chính sách diễn ra khá linh hoạt, vì thế các cơ quan quản lý nhà
nước của từng địa phương cần chủ động điều chỉnh cơ chế chính sách cho phù hợp

với tình hình, điều kiện thực tế của địa phương mình, miễn là không làm thay đổi
mục tiêu của chính sách. Một nguyên tắc cần phải chấp hành khi điều chỉnh chính
sách là phải để chính sách đó tiếp tục tồn tại, chỉ được điều chỉnh cơ chế, các giải
pháp thực hiện mục tiêu chính sách hoặc bổ sung, hoàn chỉnh mục tiêu theo yêu cầu
thực tế. Nếu điều chỉnh làm thay đổi mục tiêu, nghĩa là làm thay đổi chính sách thì
xem như chính sách đã đó thất bại.
Bước 6: Theo dõi, đôn đốc, kiểm tra thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
Để thực hiện tốt chính sách bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất thì một trong những nhiệm vụ quan trọng cần tập trung thực hiện đó
là tăng cường công tác kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chủ trương, đánh giá tiến
độ và kết quả thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Kiểm tra việc chỉ
đạo, hướng dẫn của các Bộ, ngành của Trung ương đối với việc thực hiện các kết

19


×