Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

Tìm hiểu về các công cụ trong nền kinh tế thông tin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (741 KB, 38 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỎ ĐỊA CHẤT
KHOA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN

Môn
KINH TẾ THÔNG TIN

Đề tài: Các công cụ trong nền kinh tế thông tin ở Việt Nam

Giảng viên hướng dẫn:

Lê Thanh Huệ

Lớp học phần:

Tin kinh tế A - K58

Sinh viên thực hiện:

Trần Văn Dũng

1321050467

Nguyễn Duy Dương

1321050047

Phan Thị Hằng

1321050070

Tống Văn Anh Hải



1321050065

Hà Nội: 11/30/2017


Các công cụ trong nề kinh tế thông tin ở Việt Nam

Mục lục
Mục lục........................................................................................................... 2
Đặt vấn đề.......................................................................................................4
Chương 1. Tổng quan về kinh tế thông tin...................................................6
1.1 Khái niệm...........................................................................................6
1.1.1 Thông tin......................................................................................6
1.1.2 Thông tin kinh tế..........................................................................6
1.1.3 Hệ thống thông tin kinh tế............................................................6
1.1.4 Kinh tế thông tin..........................................................................6
1.2 Vai trò.................................................................................................7
Chương 2. Tổng quan về công cụ trong kinh tế thông tin............................9
2.1 Khái niệm...........................................................................................9
2.1.1 Công cụ........................................................................................9
2.1.2 Công cụ của kinh tế thông tin.......................................................9
2.2 Ý nghĩa – Tầm ảnh hường..................................................................9
2.3 các công cụ chính...............................................................................9
Chương 3. Nội dung từng công cụ.............................................................10
3.1 Dữ liệu và hệ quản trị cơ sở dữ liệu.................................................10
3.1.1 Tổng quan..................................................................................10
3.1.2 Vai trò – tầm quan trọng.............................................................13
3.1.3 Ví dụ về một cơ sở dữ liệu.........................................................14
3.2 CNTT và cơ sở hạ tầng....................................................................16

3.2.1 Khái niệm...................................................................................16
3.2.2 Vai trò.........................................................................................18
3.2.3 Tình hình phát triển CNTT và cơ sở hạ tầng của CNTT nước ta18
3.3 Thương mại điện tử..........................................................................20
3.3.1 Khái niệm...................................................................................20
3.3.2 Vai trò của TMĐT......................................................................21
3.3.3 Các loại hình TMĐT..................................................................21
3.3.4 Lợi ích kinh tế của thương mại điện tử......................................22
2


Các công cụ trong nề kinh tế thông tin ở Việt Nam

3.3.5 Thực trạng..................................................................................26
3.4 Nguồn nhân lực................................................................................28
3.4.1 Khái niệm...................................................................................28
3.4.2 Vai trò.........................................................................................29
3.4.3 Nhu cầu nguồn nhân lực CNTT.................................................29
3.4.4 Thực trạng nguồn nhân lực ở nước ta.........................................30
3.5 Chính sách của nhà nước..................................................................32
3.5.1 Chính sách và chiến lược Công nghệ Thông tin Việt Nam qua các
giai đoạn phát triển...........................................................................................32
3.5.2 Một số chủ chương, chính sách gần đây của Đảng và Nhà nước33
Chương 4. kết luận.....................................................................................37
Tài liệu tham khảo:.......................................................................................38

3


Các công cụ trong nề kinh tế thông tin ở Việt Nam


Đặt vấn đề
Bước vào thế kỷ XXI, nền kinh tế tri thức toàn cầu phát triển mạnh mẽ hơn
để đối phó với những thách thức: biến đổi khí hậu, cạn kiệt tài nguyên, gia tăng dân
số, khủng hoảng kinh tế toàn cầu... Cần có nguồn lực mới, cách sản xuất kinh doanh
mới, dựa chủ yếu vào vốn con người, vốn xã hội, giảm thiểu việc sử dụng tài
nguyên không tái tạo, chấm dứt cách sản xuất và tiêu dùng phung phí tài nguyên,
năng lượng. Có thể điểm qua một vài ưu việt của nền kinh tế tri thức so với nền
kinh tế công nghiệp, mà những nước đi sau phải cố gắng bắt kịp để phát triển nhanh
đất nước:
Việc tạo ra của cải, giá trị mới và nâng cao năng lực cạnh tranh không phải
chủ yếu do tối ưu hóa, hoàn thiện, hạ giá thành cái đã có mà chủ yếu là do sáng tạo
ra cái mới. Đổi mới sáng tạo (innovation) trở thành động lực chủ yếu của sự tăng
trưởng và phát triển. Doanh nghiệp phải đầu tư cho vốn tri thức, phát triển vốn tri
thức, không ngừng đổi mới, phấn đấu để có công nghệ mới, sản phẩm mới, cách
thức kinh doanh mới, tạo sự khác biệt, trở thành duy nhất. Công nghệ đổi mới rất
nhanh, vòng đời công nghệ rút ngắn. Tốc độ là trên hết. Chậm trễ đồng nghĩa với
thất bại. Đổi mới để phát triển, là phá vỡ sự cân bằng tạm thời, cục bộ để đạt tới sự
cân bằng tổng thể vững chắc hơn; “sự phá hủy có tính sáng tạo” trở thành nguyên
tắc của sự phát triển: sợ mất ổn định mà không đổi mới thì sẽ trì trệ, và sẽ suy vong!
Vốn con người, vốn tri thức xã hội là nguồn lực cơ bản của phát triển. Tài
nguyên là có hạn, tri thức, sự sáng tạo là vô hạn. Một khi tri thức trở thành nguồn
lực chủ yếu của nền kinh tế thì tiêu hao tài nguyên giảm đến tối thiểu mà giá trị tạo
ra sẽ tăng tối đa. Cạnh tranh kinh tế ngày nay là cạnh tranh về giáo dục và đào tạo,
khoa học và công nghệ (KH&CN). Một cuộc cải cách sâu rộng đang diễn ra trong
giáo dục từ hai thập kỷ nay với hai thay đổi lớn: chuyển từ trang bị kiến thức sang
bồi dưỡng năng lực, chuyển từ chế độ học một lần trên ghế nhà trường sang học tập
suốt đời.
Hai công cụ lao động quan trọng nhất là bộ óc con người và mạng thông tin
toàn cầu. Ai cũng có, cũng có thể sử dụng, nhưng cơ hội không như nhau, thành

công hay thất bại tùy thuộc vào năng lực từng người.
Tài sản vô hình tăng nhanh hơn nhiều so với tài sản hữu hình. Tính chung
cho các nước phát triển: trước năm 1985 Công nghệ Thông tin và công nghệ cao
chưa phát triển, tài sản vô hình chiếm tỷ lệ rất thấp và tăng trưởng chậm, đến 1985
chỉ chiếm khoảng 20% GDP. Sau đó trong 10 năm tăng 12%, đến năm 1995 đạt
khoảng 32% (đó là thời kỳ máy tính cá nhân phát triển mạnh). 10 năm tiếp theo tỷ
lệ này tăng 23%, năm 2005 đạt khoảng 55% (thời kỳ internet phủ khắp toàn cầu); từ
năm 2005 đến 2011 dao động ở mức 55-57%. Dự báo năm 2020 sẽ là 70%.
4


Các công cụ trong nề kinh tế thông tin ở Việt Nam

Trong tài sản vô hình thường có khoảng 55% là tài sản từ ứng dụng Công
nghệ Thông tin và quyền sở hữu trí tuệ (patent, know-how, bản quyền, kiểu dáng
công nghiệp...), phần còn lại là do thương hiệu, uy tín, chiến lược, mô hình tổ chức
quản lý, quan hệ khách hàng... gọi chung là sự tinh vi trong kinh doanh. Tất cả
những tài sản vô hình đó đều là do năng lực sáng tạo của con người, là tài sản trí
tuệ.
Rất nhiều nước đã đi nhanh vào nền kinh tế tri thức. Nếu tính theo hàm
lượng tri thức hay tài sản trí tuệ trong GDP, thì nhiều nước trong khối OECD đã là
nền kinh tế tri thức (tài sản trí tuệ chiếm trên 2/3 GDP). Theo chỉ số kinh tế tri thức
(KEI) của Ngân hàng thế giới (WB) thì năm 2012 đã có 29 nước và vùng lãnh thổ
đạt KEI từ 8, 0 đến 9, 43 (Thụy Điển xếp thứ nhất, Đài Loan thứ 13, Hongkong thứ
18, Singapore thứ 23, Hàn Quốc xếp thứ 29). Theo Michael Porter, xét theo năng
lực cạnh tranh thì sự phát triển các nền kinh tế trải qua 3 giai đoạn, giai đoạn I là
phát triển dựa vào các yếu tố, giai đoạn II dựa vào hiệu quả và giai đoạn III dựa vào
đổi mới sáng tạo và kinh doanh tinh vi; các nền kinh tế bước sang giai đoạn III được
coi là nền kinh tế tri thức, hay kinh tế sáng tạo. Hiện nay có 32 quốc gia và vùng
lãnh thổ được coi là đã trở thành nền kinh tế tri thức, hay kinh tế sáng tạo.

Cả thế giới hướng tới nền kinh tế tri thức toàn cầu hóa: rất nhiều quốc gia lựa
chọn cạnh tranh quốc tế dựa trên tri thức. Từ các tài liệu thu thập được hiện nay đã
có hơn 40 nước đưa ra tầm nhìn, chiến lược 2030 hướng tới nền kinh tế tri thức,
trong đó có cả những nước chậm phát triển nhất như Siere Leone, Zimbabue,
Namibia, Ethiopia...
Các tổ chức quốc tế tăng cường hoạt động về nâng cao nhận thức, đánh giá
đo lường và giới thiệu kinh nghiệm thực tế phát triển kinh tế tri thức cho cả thế giới.
OECD phối hợp với WB hàng năm tổ chức Diễn đàn về kinh tế tri thức toàn cầu
(GKEF - global knowledge economy forum) bàn về các vấn đề nhận thức kinh tế tri
thức, 4 trụ cột của nền kinh tế tri thức, hệ thống đổi mới sáng tạo và hấp thụ công
nghệ... WB cũng hỗ trợ mạnh mẽ các nước trong xây dựng chiến lược, chính sách
phát triển kinh tế tri thức, xây dựng cơ sở dữ liệu KEI cho hơn 150 quốc gia (kể từ
1995 đến nay).
Nhận thức được tầm quan trọng của kinh tế tri thức, ở nước ta hiện nay kinh
tế cũng đã được được nhiều thành tựu đáng ghi nhận khi có sự hoạt động của nền
kinh tế này. Đảng và nhà nước đang đẩy mạnh các chính sách kích thích phát triển
Công nghệ Thông tin, kinh tế thông tin tri thức; ngày một hoàn thiện thể chế pháp
lý cho nó.

5


Các công cụ trong nề kinh tế thông tin ở Việt Nam

Vậy để Công nghệ Thông tin nói chung và nền kinh tế thông tin ở nước ta
nói riêng có thể tồn tại và phát triển, đem lại hiệu quả cao trong lĩnh vực phát triển
kinh tế xã hội thì chúng cần những gì? Đó chính là nền tảng, là phương pháp, hay
công cụ mà nền kinh tế thông tin và các công cụ đó là gì? Vai trò của nó ra sao?
Trong bài tìm hiểu sau đây chúng tôi sẽ giải đáp các vến đề trên cho các bạn có một
cái nhìn tổng quan nhất.


CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ KINH TẾ THÔNG TIN
1.1 KHÁI NIỆM
1.1.1 Thông tin
Là tập hợp các dữ liệu đã được sử lý và cho ta hiểu biết về một vấn đề nào đó
1.1.2 Thông tin kinh tế
Là những thông tin được sử dụng trong lĩnh vực kinh tế
1.1.3 Hệ thống thông tin kinh tế
Hệ thống:
Là tập hợp các nguồn dữ liệu, các thủ tục, các nguồn lực, các xỷ lý truyền và
phát thông tin trong một tổ chức
Hệ thống thông tin kinh tế: Là hệ thống thông tin trong đó có các thành
phần cấu tạo:
-

Cở sở dữ liệu
Hệ quản trị cơ sở dữ liệu
Phân tích thiết kế hệ thống thông tin
Quản trị hệ thống
Các công cụ thực hiện

1.1.4 Kinh tế thông tin
Nền kinh tế “hậu công nghiệp” hiện được nhiều học giả của các trường phái
khoa học xã hội gọi là “nền kinh tế tri thức”, còn các học giả của các trường phái
khoa học tự nhiên, Công nghệ Thông tin gọi là “nền kinh tế thông tin – kinh tế số”.
Các khái niệm "kinh tế tri thức", "kinh tế thông tin" hay "kinh tế số" hiện được dùng
với nghĩa gần tương đương, chúng đều nhấn mạnh và khẳng định vai trò động lực
phát triển kinh tế toàn cầu của thông tin, tri thức, Công nghệ Thông tin (CNTT) và
truyền thông.
Khái niệm này hiện được định nghĩa chưa thật chặt chẽ, được dùng để đặc

trưng cho một nền kinh tế với vai trò tăng trưởng của các hoạt động thông tin và
công nghiệp thông tin.
6


Các công cụ trong nề kinh tế thông tin ở Việt Nam

Trong nền kinh tế thông tin, tri thức đóng vai trò chủ đạo bên cạnh các thành
tố truyền thống khác của nền kinh tế; các sản phẩm của nền kinh tế đó chứa đựng
hàm lượng tri thức cao hơn hẳn so với trước đây. Khái niệm kinh tế thông tin đã chỉ
ra sự khác biệt giữa 2 lĩnh vực (domain): lĩnh vực vật chất và năng lượng, và lĩnh
vực thông tin, trong đó lĩnh vực đầu tiên bao gồm các khu vực nông nghiệp và công
nghiệp, trong khi lĩnh vực thứ 2 tương ứng với khu vực thông tin và quan tâm đến
sự biến đổi thông tin từ “dạng này sang dạng khác”.
Có hai điểm quan trọng còn chưa rõ trong khái niệm kinh tế thông tin. Thứ
nhất là chưa rõ tiêu chuẩn nào để đánh giá một nền kinh tế có phải là nền kinh tế
thông tin hay không và thứ hai là hiện đang có quá nhiều cách quản lý khác nhau
đối với các chỉ tiêu kinh tế liên quan đến thông tin.
Nếu đối với vấn đề thứ nhất người ta mới tập trung vào nghiên cứu, đánh giá
sự tăng trưởng của các hoạt động thông tin hơn là vào mức độ đạt được của nó, và
hiện có rất ít những nghiên cứu nhằm xác định rõ mức độ thông tin hóa nền kinh tế
để nó trở thành nền kinh tế thông tin thì đối với vấn đề thứ hai lại được quan tâm
nghiên cứu và thảo luận rộng rãi, cộng đồng quốc tế hiện đã khá thống nhất về hệ
thống chỉ tiêu hạt nhân để đo nền kinh tế thông tin.
Thực chất của phát triển KTTT là quá trình không ngừng khai thác, phân
phối, sử dụng thông tin, tri thức trong mọi hoạt động của đời sống kinh tế, văn hóa,
xã hội trên cơ sở nền giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ hiện đại. Trong
nền kinh tế thông tin, tri thức sẽ trở thành đối tượng chủ yếu của sản xuất, phân
phối, tiêu thụ và là nguồn gốc, động lực của tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng kinh
tế được chuyển hoá từ mô hình dựa trên tiêu hao nguồn tài nguyên vật chất sang

loại hình dựa trên tri thức và kỹ thuật.
1.2 VAI TRÒ
Nhờ có các dịch vụ thông tin mà các doanh nghiệp, các ngành, các khu vực
của nền kinh tế không ngừng phát triển. Và như vậy, nó có vai trò quan trọng đối
với tăng trưởng và phát triển kinh tế cũng như trong quá trình thực hiện CNH- HĐH
đất nước, cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế. Hiện nay, với sự phát triển mạnh
mẽ của nền kinh tế thị trường và cạnh tranh ngày càng gay gắt khốc liệt thì vai trò
của dịch vụ thông tin thương mại lại càng trở nên quan trọng và cụ thể hơn.
-

Dịch vụ thông tin kinh tế nâng cao hiệu quả kinh doanh do mở rộng được
quy mô kinh doanh, tiết kiệm được chi phí. Ở tầm vĩ mô, vai trò này được
thể hiện là nhờ có những thông tin về thị trường, về nhu cầu... mà hoạt động
kinh doanh của toàn xã hội đạt kết quả tốt hơn tiết kiệm chi phí hơn, thị
trường được mở rộng cả trong nước và Quốc tế. Từ đó hiệu quả và quy mô
tổng thể nền kinh tế được nâng lên và mở rộng. Dưới góc độ vĩ mô, thì nhờ
có dịch vụ này mà doanh nghiệp nắm bắt nhu cầu thực tế của người tiêu
7


Các công cụ trong nề kinh tế thông tin ở Việt Nam

-

-

-

dùng từ đó có biện pháp kinh doanh có hiệu quả hơn, thị trường thị phần
được mở rộng và quy mô kinh doanh ngày một lớn hơn.

Dịch vụ thông tin kinh tế thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và sự cách
mạng hoá trong lưu thông.
Dịch vụ thông tin kinh tế thu hút một lượng lao động lớn. Ở tầm vĩ mô, đây
là sự chuyển dịch lao động từ ngành nông nghiệp sang ngành dịch vụ tạo nên
cơ cấu lao động hợp lý. Còn ở tầm vi mô, thì đây là một ngành dịch vụ thu
hút lớn lượng lao động sống rất lớn. Và sản phẩm của dịch vụ này chủ yếu
phụ thuộc vào con người.
Dịch vụ thông tin nâng cao chất lượng phục vụ người tiêu dùng.
Dịch vụ thông tin phục vụ cho quản lý Nhà nước về kinh tế và thương mại
được tốt hơn. Nhờ có các thông tin mà các cấp quản lý đề ra những quyết
định kịp thời chính xác và có hiệu quả trong công tác quản lý Nhà nước về
kinh tế.
Dịch vụ thông tin góp phần thu hút đầu tư cho nền kinh tế. Nhờ sự cung cấp
các thông tin mà các nhà đầu tư có thể tìm hiểu được chính sách, luật pháp
và cơ hội đầu tư ở nước ta; từ đó họ sẽ đầu tư vào nước ta. Ngoài ra, dịch vụ
thông tin còn có các vai trò như đẩy mạnh quá trình chuyển giao công nghệ,
hình thành các loại dịch vụ mới, hình thành các thị trường trọng yếu trong
nền kinh tế thị trường...

Cùng với sự phát triển hướng về kinh tế thông tin, cơ cấu nguồn nhân lực ở
nhiều quốc gia cũng đang có sự dịch chuyển về khu vực Thông tin - Dịch vụ với
nhiều ngành, nghề mới được hình thành. Trong số 500 nghề hàng đầu ở những năm
cuối thế kỷ trước đã có gần 400 nghề chưa từng xuất hiện ở thời điểm giữa thế kỷ
này, riêng trong lĩnh vực CNTT đã có khoảng 40 ngành nghề khác nhau.
Các ứng dụng của kinh tế thông tin :
-

Quản lí điều hành trong cơ quan chính phủ, các bộ ban ngành.
Quản lí điều hành doanh nghiệp, tập đoàn, cộng đồng xã hội, tổng công ty.
Đưa ra các thông tin chính xác về tình hình của một quốc gia, doanh nghiệp

và người dân.

8


Các công cụ trong nề kinh tế thông tin ở Việt Nam

CHƯƠNG 2. TỔNG QUAN VỀ CÔNG CỤ TRONG KINH TẾ THÔNG
TIN
2.1 KHÁI NIỆM
2.1.1 Công cụ
Là phương tiện được sử dụng để tiến hành, thực hiện, và hoàn thành một việc
nào đó có mục đích nhất định.
2.1.2 Công cụ của kinh tế thông tin
Là những công cụ được sử dụng, được dùng làm cơ sở, phương pháp, cách
thức để kinh tế thông tin có thể hình thành, hoạt động, phát triển và làm tròn vai trò
của mình.
2.2 Ý NGHĨA – TẦM ẢNH HƯỜNG
Theo như trên thì các công cụ này có vai trò dặc biệt quan trọng ảnh hưởng
trược tiếp đến sự tồn tại và phát triển của nền kinh tế thông tin. Ta có thể ví nó như
là nước và kinh tế thông tin là cá.
2.3 CÁC CÔNG CỤ CHÍNH
Để biết được nền kinh tế thông tin cần có những công cụ nào, và những công
cụ nào là phục vụ cho nền kinh tế này thì chúng ta cần nhắc lại khái niệm tổng quát
của thông tin và kinh tế thông tin.
Như bên trên ta có Thông tin = Dữ liệu + Xử lý dữ liệu + Công bố. Từ đây ta
thấy để có được một thông tin trước tiên ta cần phải có dữ liệu đã được sử lý và
được truyền thông điều này dẫn đến việc cần phải có cơ sở hạ tầng Công nghệ
Thông tin và sự phát triển của Công nghệ Thông tin để quản lý, và sử lý dữ liệu,
thuyền phát dữ liệu; và hơn hết chúng ta cần phải có những con người có hiểu biết

về những lĩnh vực này để có thể vận hành, quản lý một cách chính xác nhất, đưa ra
thông tin thực sự hữu ích.
Để thông tin thực sự tham gia vào nền kinh tế thì sự phát triển của thương
mại điện tử là thiết yếu, và không thể thiếu.
Bên cạnh đó việc quản lý của nhà nước cũng là điều không thể thiếu; không
có một lĩnh vực kinh tế - xã hội nào muốn tồn tại và phát triển lại không cần đến
những chủ chương, chính sách phát triển của nhà nước và đặc biệt là pháp luật về
lĩnh vuecj kinh tế - xã hội đó. Có thể nối đây là cơ sở cho những người muốn làm
kinh tế thông tin thực hiện.

9


Các công cụ trong nề kinh tế thông tin ở Việt Nam

Như vậy các công cụ chính của nền kinh tế thông tin gồm có:
-

Dữ liệu và Hệ quản trị cơ sở dữ liệu.
Cơ sở hạ tầng Công nghệ Thông tin và sự phát triển của Công nghệ
Thông tin.
Sự phát triển của thương mại điện tử.
Con người.
Chính sách của nhà nước.

CHƯƠNG 3. NỘI DUNG TỪNG CÔNG CỤ
Sau đây chúng ta sẽ cùng nhau phân tích để làm rõ hơn lý do vì sao các công
cụ này là công cụ của kinh tế thông tin, và vai trò ảnh hưởng như thế nào tới kinh tế
thông tin.
3.1 DỮ LIỆU VÀ HỆ QUẢN TRỊ CƠ SỞ DỮ LIỆU

3.1.1 Tổng quan
Dữ liệu:
Theo điều 4 Luật Giao dịch điện tử ban hành ngày 29 tháng 11 năm 2005,
Dữ liệu là thông tin dưới dạng ký hiệu,chữ viết, chữ số, hình ảnh, âm thanh hoặc
dạng tương tự.
Theo nghĩa rộng, dữ liệu thô là các số, ký tự, hình ảnh hay các kết quả khác
của các thiết bị chuyển đổi các lượng vật lý thành các ký hiệu. Các dữ liệu thuộc
loại này thường được xử lý tiếp bởi người hoặc đưa vào máy tính. Trong máy tính,
dữ liệu được lưu trữ và xử lý tại đó hoặc được chuyển (output) cho một người hoặc
một máy tính khác. Dữ liệu thô là một thuật ngữ tương đối; việc xử lý dữ liệu
thường được thực hiện theo từng bước, và "dữ liệu đã được xử lý" tại bước này có
thể được coi là "dữ liệu thô" cho bước tiếp theo.
Các thiết bị tính toán được phân loại theo phương tiện mà chúng sử dụng để
biểu diễn dữ liệu. Một máy tính tương tự (analog computer) biểu diễn dữ liệu bằng
hiệu điện thế, khoảng cách, vị trí hoặc các định lượng vật lý khác. Một máy tính số
(digital computer) biểu diễn dữ liệu bằng chuỗi các ký hiệu rút ra từ một bảng chữ
cái cố định. Các máy tính số phổ biến nhất sử dụng bảng chữ cái nhị phân, nghĩa là,
một bảng chữ cái gồm hai chữ cái, thường được ký hiệu là "0" và "1". Các biểu diễn
quen thuộc hơn, chẳng hạn các số và chữ, sẽ được xây dựng từ bảng chữ cái nhị
phân.
Có một số dạng dữ liệu đặc biệt. Một chương trình máy tính là một tập hợp
dữ liệu được hiểu là các lệnh. Hầu hết các ngôn ngữ máy tính phân biệt giữa các
chương trình và các dữ liệu khác mà chương trình đó làm việc với. Nhưng trong
10


Các công cụ trong nề kinh tế thông tin ở Việt Nam

một số ngôn ngữ, chẳng hạn LISP và các ngôn ngữ tương tự, các chương trình về
bản chất là không thể phân biệt với các dữ liệu khác. Ngoài ra, còn có một dạng dữ

liệu đặc biệt khác là metadata dữ liệu mêta, nghĩa là một mô tả về dữ liệu khác. Một
ví dụ về dữ liệu mêta là danh mục tài liệu tại thư viện, đây là một mô tả về nội dung
của các cuốn sách.
Một cơ sở dữ liệu có các tính chất sau:
Một cơ sở dữ liệu biểu thị một khía cạnh nào đó của thế giới thực như hoạt
động của một công ty, một nhà trường, một ngân hàng… Những thay đổi của thế
giới thực phải được phản ánh một cách trung thực vào trong cơ sở dữ liệu. Những
thông tin được đưa vào trong cơ sở dữ liệu tạo thành một không gian cơ sở dữ liệu
hoặc là một “thế giới nhỏ” (miniworld) .
Một cơ sở dữ liệu là một tập hợp dữ liệu liên kết với nhau một cách logic và
mang một ý nghĩa cố hữu nào đó. Một cơ sở dữ liệu không phải là một tập hợp tuỳ
tiện.
Một cơ sở dữ liệu được thiết kế và được phổ biến cho một mục đích riêng.
Nó có một nhóm người sử dụng có chủ định và có một số ứng dụng được xác định
phù hợp với mối quan tâm của người sử dụng. Nói cách khác, một cơ sở dữ liệu có
một nguồn cung cấp dữ liệu, một mức độ tương tác với các sự kiện trong thế giới
thực và một nhóm người quan tâm tích cực đến các nội dung của nó.
Một cơ sở dữ liệu có thể có cỡ tuỳ ý và có độ phức tạp thay đổi. Có những cơ
sở dữ liệu chỉ gồm vài trăm bản ghi (như cơ sở dữ liệu phục vụ việc quản lý lương ở
một cơ quan nhỏ), và có những cơ sở dữ liệu có dung lượng rất lớn (như các cơ sở
dữ liệu phục vụ cho việc tính cước điện thoại, quản lý nhân sự trên một phạm vi
lớn). Các cơ sở dữ liệu phải được tổ chức quản lý sao cho những người sử dụng có
thể tìm kiếm dữ liệu, cập nhật dữ liệu và lấy dữ liệu ra khi cần thiết. Một cơ sở dữ
liệu có thể được tạo ra và duy trì một cách thủ công và cũng có thể được tin học
hoá. Một cơ sở dữ liệu tin học hoá được tạo ra và duy trì bằng bằng một nhóm
chương trình ứng dụng hoặc bằng một hệ quản trị cơ sở dữ liệu.
Hệ quản trị cơ sở dữ liệu:
Hệ quản trị cơ sở dữ liệu (tiếng Anh: Database Management System DBMS), là phần mềm hay hệ thống được thiết kế để quản trị một cơ sở dữ liệu. Cụ
thể, các chương trình thuộc loại này hỗ trợ khả năng lưu trữ, sửa chữa, xóa và tìm
kiếm thông tin trong một cơ sở dữ liệu (CSDL).

Một hệ quản trị cơ sở dữ liệu là một tập hợp chương trình giúp cho người sử
dụng tạo ra, duy trì và khai thác một cơ sở dữ liệu. Nó là một hệ thống phần mềm
phổ dụng, làm cho quá trình định nghĩa, xây dựng và thao tác cơ sở dữ liệu trở nên
dễ dàng cho các ứng dụng khác nhau.
11


Các công cụ trong nề kinh tế thông tin ở Việt Nam

Định nghĩa một cơ sở dữ liệu bao gồm việc đặc tả các kiểu dữ liệu, các cấu
trúc và các ràng buộc cho các dữ liệu sẽ được lưu trữ trong cơ sở dữ liệu.
Xây dựng một cơ sở dữ liệu là quá trình lưu trữ các dữ liệu trên các phương
tiện lưu trữ được hệ quản trị cơ sở dữ liệu kiểm soát.

Thao tác một cơ sở dữ liệu bao gồm các chức năng như truy vấn cơ sở dữ
liệu để lấy ra các dữ liệu cụ thể, cập nhật cơ sở dữ liệu để phản ánh các thay đổi
trong thế giới nhỏ và tạo ra các báo cáo từ các dữ liệu.
Các hệ quản trị cơ sở dữ liệu dùng để thể hiện một cơ sở dữ liệu tin học hoá
có thể là phổ dụng (là một phần mềm đóng gói) hoặc có thể là chuyên dụng (là một
tập các phần mềm được tạo ra với một mục đích riêng).
Một số loại hệ quản trị cơ sở dữ liệu:
Có rất nhiều loại hệ quản trị CSDL khác nhau: từ phần mềm nhỏ chạy trên
máy tính cá nhân cho đến những hệ quản trị phức tạp chạy trên một hoặc nhiều siêu
máy tính. Tuy nhiên, đa số hệ quản trị CSDL trên thị trường đều có một đặc điểm
chung là sử dụng ngôn ngữ truy vấn theo cấu trúc mà tiếng Anh gọi là Structured
Query Language (SQL). Các hệ quản trị CSDL phổ biến được nhiều người biết đến
là MySQL, Oracle, PostgreSQL, SQL Server, DB2, Infomix, v.v. Phần lớn các hệ
quản trị CSDL kể trên hoạt động tốt trên nhiều hệ điều hành khác nhau như Linux,
Unix và MacOS ngoại trừ SQL Server của Microsoft chỉ chạy trên hệ điều hành
Windows.

Ưu điểm của HQTCSDL:
-

Quản lý được dữ liệu dư thừa.
Đảm báo tính nhất quán cho dữ liệu.
Tạo khả năng chia sẻ dữ liệu nhiều hơn.
Cải tiến tính toàn vẹn cho dữ liệu.
Nhược điểm:

-

HQTCSDL tốt thì khá phức tạp.
HQTCSDL tốt thường rất lớn chiếm nhiều dung lượng bộ nhớ.
Giá cả khác nhau tùy theo môi trường và chức năng.
HQTCSDL được viết tổng quát cho nhiều người dùng thì thường chậm.

3.1.2 Vai trò – tầm quan trọng
Vậy tầm quan trọng của dữ liệu đối với kinh tế thông tin là gì?
Như ta đã nói ở trên thì đối tượng chính của nền kinh tế thong tin đó chính là
thông tin, mà muốn có thông tin thì ta cần phải có dữ liệu được đưa vào một quá
trình xử lý nhất định rồi sau đó là công bố dữ liệu đã dược sử lý đó (dữ liệu mới).
12


Các công cụ trong nề kinh tế thông tin ở Việt Nam

Vậy ta có thể nói dữ liệu chính là thông tin thô chưa được sử lý, chưa có ý nghĩa; và
nó chính là nguyên liệu đầu vào ban đầu để sản sinh ra thông tin; thông tin này lại
có thể trở thành dữ liệu đầu vào cho một quá trình sử lý mới để sinh ra thông tin
mới hay dữ liệu mới với một ý nghĩa mới. Nếu không có dữ liệu thì thông tin không

được sinh ra và nền kinh tế thông tin không thể hình thành.
Vai trò của Hệ quản trị cơ sở dữ liệu:
Thông tin ngày một được tạo ra nhiều hơn cả về số lượng lẫn chủng loại;
điều này đòi hỏi vấn đề phải có công cụ lưu trữ, quản lý chúng một cách khoa học
nhất, tối ưu nhất. Đó cũng chính là nhiệm vụ của Hệ quản trị cơ sở dữ liệu;
HQTCSDL có nhiệm vụ quản lý dữ liệu một cách tối ưu nhất (dữ liệu đầy đủ mà
không bị dư thừa, giữa các dữ liệu có các quan hệ khác nhau …); việc tìm kiếm một
thông tin hay một dữ liệu nào đó phải là dễ dàng nhất (tốc độ tìm kiếm nhanh, từ
khóa đơn giản, có thể tìm bàng nhiều từ khóa liên quan …) và phải có tính chính
xác cao (không tìm sai thông tin, nhầm thông tin).
Một Hệ quản trị cơ sở dữ liệu có các chức năng chính sau:
-

-

-

-

Lưu trữ các định nghĩa, các mối liên kết dữ liệu (gọi là siêu dữ liệu) vào một
từ điển dữ liệu. Các chương trình truy cập đến cơ sở dữ liệu làm việc thông
qua hệ quản trị cơ sở dữ liệu. Hệ quản trị cơ sở dữ liệu sử dụng dữ liệu trong
từ điển dữ liệu để tìm kiếm các cấu trúc thành phần dữ liệu và các mối liên
kết được yêu cầu. Mọi sự thay đổi trong các tệp cơ sở dữ liệu sẽ được tự
động ghi lại vào từ điển dữ liệu. Như vậy, hệ quản trị cơ sở dữ liệu giải
phóng người sử dụng khỏi việc lập trình cho các mối liên kết phức tạp trong
mỗi chương trình, việc sửa đổi các chương trình truy cập đến tệp cơ sở dữ
liệu đã bị sửa đổi. Nói cách khác, hệ quản trị cơ sở dữ liệu loại bỏ sự phụ
thuộc giữa dữ liệu và cấu trúc ra khỏi hệ thống.
Tạo ra các cấu trúc phức tạp theo yêu cầu để lưu trữ dữ liệu. Nó giúp người

sử dụng làm nhiệm vụ khó khăn là định nghĩa và lập trình cho các đặc trưng
vật lý của dữ liệu.
Biến đổi các dữ liệu được nhập vào để phù hợp với các cấu trúc dữ liệu ở
điểm 2. Như vậy, hệ quản trị cơ sở dữ liệu giúp người sử dụng phân biệt
dạng logic và dạng vật lý của dữ liệu. Bằng việc duy trì sự độc lập dữ liệu, hệ
quản trị cơ sở dữ liệu chuyển các yêu cầu logic thành các lệnh định vị một
cách vật lý và lấy ra các dữ liệu yêu cầu. Điều đó cũng có nghĩa là hệ quản trị
cơ sở dữ liệu tạo khuôn dạng cho các dữ liệu được lấy ra để làm cho nó phù
hợp với mong muốn logic của người sử dụng.
Tạo ra một hệ thống bảo mật và áp đặt tính bảo mật và riêng tư trong cơ sở
dữ liệu.
Tạo ra các cấu trúc phức tạp cho phép nhiều người sử dụng truy cập đến dữ
liệu.
13


Các công cụ trong nề kinh tế thông tin ở Việt Nam

-

-

Cung cấp các thủ tục sao lưu và phục hồi dữ liệu để đảm bảo sự an toàn và
toàn vẹn dữ liệu.
Xúc tiến và áp đặt các quy tắc an toàn để loại bỏ vấn đề toàn vẹn dữ liệu.
Điều đó cho phép ta làm tối thiểu sự dư thừa dữ liệu và làm tối đa tính nhất
quán dữ liệu.
Cung cấp việc truy cập dữ liệu thông qua một ngôn ngữ truy vấn. Một ngôn
ngữ truy vấn là một ngôn ngữ phi thủ tục cho phép người sử dụng chỉ ra cái
gì cần phải làm mà không cần phải chỉ ra nó được làm như thế nào. Các hệ

quản trị cơ sở dữ liệu cũng cung cấp việc truy cập dữ liệu cho những người
lập trình thông qua các ngôn ngữ thủ tục.

Như vậy dữ liệu hay cơ sở dữ liệu có vai trò là nguyên liệu đầu vào để sản
sinh ra thông tin – hàng hóa cho nền kinh tế thông tin, nếu không có dữ liệu thì kinh
tế thông tin không thể hình thành. Hệ quản trị cơ sở dữ liệu có vai trò quản lý các
dữ liệu trên một cách khoa học và tối ưu nhất; nhờ có Hệ quản trị cơ sở dữ liệu mà
nền kinh tế thông tin có thể dễ dàng hơn trong quá trình hoạt động khai thác và sử
dụng thông tin một cách hiệu quả; làm thúc đẩy tốc độ phát triển của nó lên cao
nhất có thể.
3.1.3 Ví dụ về một cơ sở dữ liệu
Chúng ta hãy xem xét một cơ sở dữ liệu mà nhiều người đã quen biết: cơ sở
dữ liệu TRƯỜNG. Cơ sở dữ liệu này lưu giữ các thông tin liên quan đến sinh viên,
các môn học, điểm… trong một môi trường đại học. Cơ sở dữ liệu được tổ chức
thành 5 bảng, mỗi bảng lưu trữ các bản ghi dữ liệu cùng một kiểu. Bảng SINHVIÊN
lưu giữ dữ liệu về các sinh viên, bảng MÔNHỌC lưu giữ các dữ liệu về các môn
học, bảng HỌCPHẦN lưu giữ các dữ liệu về các học phần của các môn học, bảng
ĐIỂM lưu giữ điểm của từng học phần của các sinh viên và bảng BIẾTTRƯỚC lưu
giữ thông tin về các môn học cần biết trước của các môn học. Cấu trúc của cơ sở dữ
liệu và một vài mẫu dữ liệu ví dụ được trình bày ở hình.

14


Các công cụ trong nề kinh tế thông tin ở Việt Nam

15


Các công cụ trong nề kinh tế thông tin ở Việt Nam


Để định nghĩa cơ sở dữ liệu này, chúng ta phải chỉ ra cấu trúc của các bản ghi
của mỗi tệp (bảng) bằng cách đặc tả các kiểu khác nhau của các phần tử dữ liệu sẽ
được lưu trữ trong mỗi bản ghi. Theo hình 1-2 , mỗi bản ghi SINHVIÊN bao gồm
các dữ liệu để biểu diễn Mã số sinh viên, Họ tên sinh viên, Lớp, Chuyên ngành.
Mỗi bản ghi MÔNHỌC bao gồm các dữ liệu để biểu diễn Tên môn học, Mã số môn
học, Số đơn vị học trình, Khoa,… Chúng ta phải chỉ ra một kiểu dữ liệu cho mỗi
phần tử dữ liệu bên trong các bản ghi. Ví dụ, ta có thể đặc tả Họ tên sinh viên là một
dãy ký tự có độ dài nhỏ hơn hoặc bằng 30, Mã số sinh viên là một số nguyên,….
Để xây dựng cơ sở dữ liệu TRƯỜNG, chúng ta lưu giữ các dữ liệu để biểu
diễn mỗi sinh viên, mỗi môn học,… vào các tệp thích hợp. Để ý rằng các bản ghi
trong các tệp khác nhau có thể có mối quan hệ với nhau. Ví dụ, bản ghi đối với
Nguyễn Nam trong tệp SINHVIÊN có liên quan đến hai bản ghi trong tệp ĐIỂM.
Các bản ghi này chỉ ra điểm của Nguyễn Nam trong hai học phần. Tương tự như
vậy, các bản ghi trong tệp có mối quan hệ với các bản ghi trong tệp MÔNHỌC…
Thông thường một cơ sở dữ liệu chứa nhiều kiểu bản ghi và chứa nhiều mối quan
hệ giữa các tệp.
Thao tác cơ sở dữ liệu bao gồm việc truy vấn và cập nhật cơ sở dữ liệu. Truy
vấn cơ sở dữ liệu là đưa ra các yêu cầu đối với cơ sở dữ liệu để lấy ra các thông tin
cần thiết. Ví dụ, chúng ta có thể có các truy vấn như: “Liệt kê các môn học và điểm
thi của sinh viên Nguyễn Văn Nam”, “ Đưa ra danh sách các sinh viên thi trượt môn
cơ sở dữ liệu”. Cập nhật cơ sở dữ liệu bao gồm việc thêm vào cơ sở dữ liệu bản ghi,
xoá bỏ các bản ghi hoặc sửa đổi các giá trị trong các bản ghi. Các truy vấn và các
cập nhật phải được đặc tả trong ngôn ngữ hệ cơ sở dữ liệu một cách chính xác trước
khi chúng được xử lý.
3.2 CNTT VÀ CƠ SỞ HẠ TẦNG
3.2.1 Khái niệm
Công nghệ Thông tin
Công nghệ Thông tin, viết tắt CNTT, (tiếng Anh: Information Technology
hay là IT) là một nhánh ngành kỹ thuật sử dụng máy tính và phần mềm máy tính để

chuyển đổi, lưu trữ, bảo vệ, xử lý, truyền tải và thu thập thông tin.
Ở Việt Nam, khái niệm Công nghệ Thông tin được hiểu và định nghĩa trong
nghị quyết Chính phủ 49/CP kí ngày 04/08/1993: "Công nghệ Thông tin là tập hợp
các phương pháp khoa học, các phương tiện và công cụ kĩ thuật hiện đại - chủ yếu
là kĩ thuật máy tính và viễn thông - nhằm tổ chức khai thác và sử dụng có hiệu quả
các nguồn tài nguyên thông tin rất phong phú và tiềm năng trong mọi lĩnh vực hoạt
động của con người và xã hội".

16


Các công cụ trong nề kinh tế thông tin ở Việt Nam

Thuật ngữ "Công nghệ Thông tin" xuất hiện lần đầu vào năm 1958 trong bài
viết xuất bản tại tạp chí Harvard Business Review. Hai tác giả của bài viết, Leavitt
và Whisler đã bình luận: "Công nghệ mới chưa thiết lập một tên riêng. Chúng ta sẽ
gọi là Công nghệ Thông tin (Information Technology - IT)."
Các lĩnh vực chính của Công nghệ Thông tin bao gồm quá trình tiếp thu, xử
lý, lưu trữ và phổ biến hóa âm thanh, phim ảnh, văn bản và thông tin số bởi các vi
điện tử dựa trên sự kết hợp giữa máy tính và truyền thông. Một vài lĩnh vực hiện đại
và nổi bật của Công nghệ Thông tin như: các tiêu chuẩn Web thế hệ tiếp theo, sinh
tin, điện toán đám mây, hệ thống thông tin toàn cầu, tri thức quy mô lớn và nhiều
lĩnh vực khác. Các nghiên cứu phát triển chủ yếu trong ngành khoa học máy tính.
Cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng ở đây được hiểu là cơ sở vật chất, kết cấu hạ tầng trong đời
sống như điện, đường, trường, trạm…
Cơ sở hạ tầng thông tin là hệ thống trang thiết bị phục vụ cho việc sản xuất,
truyền đưa, thu thập, xử lý, lưu trữ và trao đổi thông tin số, bao gồm mạng viễn
thông, mạng Internet, mạng máy tính và cơ sở dữ liệu.
Hạ tầng công nghệ thông tin là một hệ thống hết sức quan trọng, hiểu được

sự quan trọng đó mới giúp cho sự phát triển của CNTT tại Việt Nam mới nhanh
chóng lớn mạnh. Bên cạnh sự đầu tư có bài bản cho hệ thống hạ tầng cong nghệ
thông tin của mình ở các Cty kinh doanh về lãnh vực CNTT hoặc các Cty nước
ngoài, thì đa phần các doanh nghiệp kinh doanh về các lĩnh vực khác không quan
tâm hoặc đầu tư rất nhỏ cho hệ thống hạ tầng và từ đó tốn rất nhiều chi phí cho việc
bảo hành, phát triển hệ thống về sau.
Một hệ thống hạ tầng CNTT được đầu tư hoàn chỉnh phải mang các yếu tố
sau:
-

-

-

Dễ quản lý: Hệ thống được thiết kế trên tiêu chuẩn dễ quản lý, thuận tiện cho
công tác kiểm tra và vận hành hệ thống.
Dễ dàng mở rộng: Hệ thống cho phép dễ dàng thi công mở rộng khi có nhu
cầu để đáp ứng cho công việc. Tối ưu hóa chi
phí đầu tư ban đầu.
Dễ dàng lắp đặt, vận hành và sửa chữa: hệ thống phải cho phép dễ dàng và
thuận tiện cho thi công và trong trường hợp có sự cố thì phải thuận tiện cho
việc kiểm tra và sửa chữa.
Đáp ứng tốt các yêu cầu của công nghệ: hệ thống đáp ứng tốt các nhu cầu kỹ
thuật hiện tại và các nhu cầu phát triển công nghệ thông tin trong tương lai
15 năm.
Đáp ứng tốt các nhu cầu trong hoạt động kinh doanh và thương mại của công
trình.
17



Các công cụ trong nề kinh tế thông tin ở Việt Nam

-

Hệ thống có tính linh hoạt và sẵn sàng cao, sử dụng vật tư thiết bị của các
hãng sản xuất có uy tín, chất lượng trên thị trường và có đối tác tại Việt Nam.

3.2.2 Vai trò
Các nghiên cứu gần đây đều đồng thuận rằng ICT có vị trí thực tế quan trọng
hơn đã từng được ghi nhận. ICT không phải là một công nghệ bình thường như mọi
công nghệ khác vì sức ảnh hưởng của nó sâu và rộng khắp các hoạt động kinh tế.
ICT có vị trí hơn một ngành kinh tế. Hầu hết các bằng chứng đều chỉ ra rằng tác
động của ICT tới phát triển của các ngành kinh tế khác thực sự lớn và quan trọng
hơn nhiều chính bản thân đóng góp của ngành sản xuất và kinh doanh ICT đối với
tổng giá trị quốc dân.
ICT là công cụ và nhân tố quan trọng trong kiến tạo và truyền bá tri thức do
ICT làm chi phí truyền tải và tái tạo tri thức trở nên rẻ chưa từng thấy. Bản thân việc
nhận thức vị trí quan trọng của tri thức trong nền kinh tế có sự góp phần quan trọng
của sự phát triển và sử dụng rộng rãi ICT. Do việc sử dụng rộng rãi trong nền kinh
tế, cũng như khả năng hỗ trợ các công nghệ khác, ICT có thể dẫn tới những thay đổi
trong phương thức sản xuất và định hình lại nền kinh tế (Helpman 1998, Shiller
2000, Freeman 2005). Nói cách khác, ICT là đòn bẩy để phát triển kinh tế tri thức,
hay kinh tế thông tin nói riêng.
Đối với nền kinh tế thông tin thì Công nghệ Thông tin và cơ sở hạ tầng là nơi
“sản suất” ra hàng hóa (thông tin có ích) cho thương mại điện làm nhiệm vụ thương
mại hóa nó. Sự phát triển của Công nghệ Thông tin đã và đang góp phần rất lớn vào
sự phát triển của nềm kinh tế thế giới nói chung và kinh tế việt nam nói riêng. Đặc
biệt với nước ta việc áp dụng và đẩy mạnh phát triển Công nghệ Thông tin vào các
lĩnh vực kinh tế - xã hội nói chung và lĩnh vực kinh tế thông tin nói riêng là cần
thiết để có thể hoàn thành và hoàn thành sớm mục tiêu công nghiệp hóa hiện đại

hóa đất nước phát triển kinh tế tri thức.
3.2.3 Tình hình phát triển CNTT và cơ sở hạ tầng của CNTT nước ta
Nhìn chung CNTT ở nước ta hiện nay đang được đặc biết quan tâm, chú
trọng thúc đẩy phát triển. minh chứng cho điều này là hàng loạt chủ trương chính
sách của chính phủ đã được ban hành trong các kì họp với nội dung chính là phát
triển CNTT, đẩy mạnh việc ứng dụng CNTT vào các lĩnh vực khác, các ngành khác;
đặc biệt là các lĩnh vực kinh tế - xã hội, giáo dục – đào tạo… chú trọng việc phát
triển đạt được kết quả cả về số lượng lẫn chất lượng.
Nhờ những cơ chế, chính sách ưu đãi, hỗ trợ của Nhà nước, cùng với sự nỗ
lực của các doanh nghiệp( DN), hiệp hội, trong 5 năm qua ngành CNPM của chúng
ta đã có nhiều khởi sắc. Suốt từ năm 2000 đến nay CNPM luôn giữ mức tăng trưởng
với tốc độ khá cao, trung bình khoảng 35% năm, gần gấp 3 lần tốc độ phát triển
18


Các công cụ trong nề kinh tế thông tin ở Việt Nam

trung bình của toàn ngành công nghiệp. Thống kê của hội tin học TP. Hồ Chí Minh
(HCA) cho thấy đến nay cả nước có khoảng 720 doanh nghiệp phần mềm (DNPM)
đang thực sự hoạt động, thu hút được hơn 20.000 lao động phần mềm chuyên
nghiệp. Tổng doanh thu của các DNPM năm 2005 ước đạt khoảng 250 triệu USD,
trong đó có khoảng 70 triệu USD xuất khẩu. Như vậy quy mô ngành CNPM nước ta
cả về lực lượng lao động lẫn tổng doanh thu hiện nay đã tăng lên gấp 4 lần so với
năm 2000, đó thực sự là một bước phát triển tốt với một ngành công nghiệp mới ở
Việt Nam. Hơn nữa, một số chuyên gia còn cho rằng phương pháp thống kê nói trên
chưa đầy đủ , còn bỏ sót một số lĩnh vực như chưa tính lực lượng làm phần mềm
bán chuyên nghiệp trong các cơ quan, đơn vị không chuyên CNTT. Lực lượng này
cũng khá đông, hàng năm sản xuất, cung cấp không ít các sản phẩm, dịch vụ phần
mềm "in house" theo kiểu tự cung tự cấp để phục vụ cho hoạt động của cơ quan,
đơn vị mình. Theo các chuyên gia này, nếu tính hết quy mô ngành phần mềm Việt

Nam hiện đã có hơn 30.000 lao động, với doanh số quy đổi lên tới trên 350 triệu
USD.

Hình 1: Độ tuổi của người sử dụng Internet so với tổng dân số

Hình 2: Tổng quan về Internet ở việt nam
19


Các công cụ trong nề kinh tế thông tin ở Việt Nam

Hình 3: Mức sử dụng và mức tăng trưởng Internet so sánh trong khu vực
Hiện 100% xã trên toàn quốc có máy điện thoại.
100% các nhà cung cấp dịch vụ mạng lớn như Viettel; FPT hay VNPT …
đều đã triể khai áp dụng dịch vụ cáp quang băng thông lớn. Tính đến nay cả nước
đã có 4 tuyến cáp quang biển vớ đường truyền lên tới 320Gbps - 2Terabit/s.
Trên đây là một vài thông tin thực tế cho thấy sự phát triển của CNTT ở
nước ta từ trước đến năm 2015.
3.3 THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
3.3.1 Khái niệm
Thương mại điện tử (TMĐT) là hình thái hoạt động và trao đổi thông tin
thương mại giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp với khách
hàng, giữa các doanh nghiệp với các cơ quan quản lí nhà nước và giữa các cơ quan
quản lí nhà nước với nhau bằng các phương pháp điện tử, diễn ra trên mạng
Internet.
Mặc dù hình thức ban đầu của TMĐT chỉ gồm các giao dịch giữa các doanh
nghiệp lớn, các ngân hàng và các tổ chức tài chính với nhau, việc dùng Internet như
là phương thức đưa TMĐT đến với từng khách hàng cá lẻ đã kéo theo việc thay đổi
quan niệm về nó. Hiện nay khách hàng cá kẻ đang kà đối tượng hướng tới đối với
TMĐT, cần phải tạo điều kiện liên quan về công nghệ, pháp lí... thuận lợi nhất để

khuyến khích khách hàng cá thể tham gia TMĐT.
3.3.2 Vai trò của TMĐT
Sự phát triển và phồn vinh của một nền kinh tế không còn chỉ dựa vào nguồn
tài nguyên thiên nhiên và nguồn lao động, mà ở mức độ lớn được quyết định bởi
trình độ Công nghệ Thông tin và tri thức sáng tạo. Cùng với xu thế đó, TMĐT xuất
hiện đã làm thay đổi bộ mặt kinh tế thế giới bởi những ảnh hưởng to lớn của mình:
20


Các công cụ trong nề kinh tế thông tin ở Việt Nam

-

-

Làm thay đổi tính chất của nền kinh tế mỗi quốc gia và nền kinh tế toàn cầu.
Làm cho tính tri thức trong nền kinh tế ngày càng tăng lên và tri rhức đã thực
sự trở thành nhân tố và nguồn lực sản xuất quan trọng nhất, là tài sản lớn
nhất của một doanh nghiệp.
Mở ra cơ hội phát huy ưu thế của các nước phát triển sau để họ có thể đuổi
kịp, thậm chí vượt các nước đã đi trước.
Xây dựng lại nền tảng, sức mạnh kinh tế quốc gia và có tiềm năng làm thay
đổi cán cân tiềm lực toàn cầu.
Rút ngắn khoảng cách về trình độ tri thức giữa các nước phát triển với các
nước đang phát triển.
Cách mạng hoá marketing bán lẻ và marketing trực tuyến.

3.3.3 Các loại hình TMĐT
TMĐT được chia ra các loại hình phổ biến:
B2B là loại hình giao dịch qua các phương tiện điện tử giữa doanh nghiệp

với doanh nghiệp. Các giao dịch B2B chủ yếu được thực hiện trên các hệ thống ứng
dụng thương mại điện tử như mạng giá trị gia tăng (VAN); dây chuyền cung ứng
hàng hoá, dịch vụ (SCM), các sàn giao dịch thương mại điện tử… Các doanh
nghiệp có thể chào hàng, tìm kiếm bạn hàng, đặt hàng, ký kết hợp đồng, thanh toán
qua các hệ thống này.
B2C là loại hình giao dịch giữa doanh nghiệp và người tiêu dùng qua các
phương tiện điện tử. Doanh nghiệp sử dụng các phương tiện điện tử để bán hàng
hóa, dịch vụ tới người tiêu dùng. Người tiêu dùng thông qua các phương tiện điện
tử để lựa chọn, mặc cả, đặt hàng, thanh toán, nhận hàng.
C2C là loại hình thương mại điện tử khách hàng tới khách hàng C2C đơn
giản là thương mại giữa các cá nhân và người tiêu dùng. Loại hình thương mại điện
tử này được phân loại bởi sự tăng trưởng của thị trường điện tử và đấu giá trên
mạng, đặc biệt với các ngành theo trục dọc nơi các công ty / doanh nghiệp có thể
đấu thầu cho những cái họ muốn từ các nhà cung cấp khác nhau. Có lẽ đây là tiềm
năng lớn nhất cho việc phát triển các thị trường mới.
B2G là loại hình giao dịch giữa doanh nghiệp với cơ quan nhà nước, trong
đó cơ quan nhà nước đóng vai trò khách hàng. Quá trình trao đổi thông tin giữa
doanh nghiệp với cơ quan nhà nước được tiến hành qua các phương tiện điện tử. Cơ
quan nhà nước cũng có thể thiết lập những website tại đó đăng tải thông tin về nhu
cầu mua hàng của các cơ quan nhà nước, tiến hành việc đấu thầu hàng hoá, dịch vụ
và lựa chọn nhà cung cấp trên website. Điều này một mặt giúp tiết kiệm các chi phí
tìm nhà cung cấp, đồng thời giúp tăng cường tính minh bạch trong hoạt động mua
sắm công.

21


Các công cụ trong nề kinh tế thông tin ở Việt Nam

3.3.4 Lợi ích kinh tế của thương mại điện tử

Những tiến bộ nhanh chóng về công nghệ trong TMĐT đặt ra vấn đề đáng
quan tâm: sự phổ biến của TMĐT và mạng Internet sẽ tác động như thế nào đến các
nhân tố trong nền kinh tế và ảnh hưởng ra sao đối với tăng trưởng và phát triển kinh
tế? Vấn đề này có thể tiếp cận từ 2 góc độ: chi phí và thị trường. Hầu hết các nghiên
cứu đã có về TMĐT đều xác định các công ty vừa và nhỏ (SMEs: Small and
medium enterprises) là đối tượng hưởng lợi nhiều nhất từ quá trình này. Mặc dù
vậy, đây chỉ là những đánh giá sơ khởi và có thể có nhiều yếu tố khác gây hiệu ứng
ngược lại chưa được tính đến.
Một số lợi ích kinh tế của thương mại điện tử có thể kể ra như sau:
Phát triển phát triển mạng lưới thương mại của nền kinh tế
Dòng thông tin được ví như hệ thống thần kinh của nền kinh tế. Thông tin có
được cung cấp đầy đủ và kịp thời thì doanh nghiệp mới có thể xây dựng được chiến
lược sản xuất - kinh doanh bắt kịp xu thế thị trường, nhà nước mới có thể đề ra
chính sách quản lý đất nước phù hợp, còn người tiêu dùng thì có nhiều lựa chọn
hơn. Internet và Web giống như một thư viện khổng lồ cung cấp một nguồn thông
tin phong phú và dễ truy nhậpvới các công cụ tầm cứu (search) hiệu quả như
Google, Infoseek, Webcrawler hay Alta Vista. Qua mạng Internet, chính phủ, doanh
nghiệp và người tiêu dùng có thể giao tiếp trực tuyến liên tục với nhau mà không bị
hạn chế bởi khoảng cách. Nhờ đó, cả sự hợp tác lẫn quản lý đều nhanh chóng và
liên tục; các bạn hàng mới, các cơ hội kinh doanh được phát hiện nhanh chóng trên
bình diện toàn quốc, khu vực và thế giới. Lợi ích này có ý nghĩa đặc biệt đối với các
SMEs, vốn bị hạn chế về khả năng và tiềm lực trong tiếp cận và khảo sát thông tin
thị trường. Hơn nữa, “khả năng tiếp cận thông tin làm giảm thiểu sự bất ổn và các
rủi ro khó dự đoán trong nền kinh tế".
Giảm chi phí sản xuất, tiếp thị, giao dịch và bán hàng
Nhìn từ góc độ kinh tế vi mô, chi phí là một trong các yếu tố quyết định trực
tiếp lợi nhuận của doanh nghiệp và hành vi của người tiêu dùng. Chi phí sản xuất
kinh doanh bao gồm nhiều yếu tố từ sản xuất đến lưu thông, phân phối. Giữ nguyên
các điều kiện khác, doanh nghiệp luôn có xu hướng tìm cách giảm chi phí sản xuất
kinh doanh để tăng sức cạnh tranh và tăng lợi nhuận, còn người tiêu dùng luôn

muốn mua hàng hóa với giá rẻ hơn. Suy rộng ra tầm vĩ mô, chi phí ảnh hưởng đến
sức cạnh tranh của cả nền kinh tế và cơ cấu kinh tế theo đó mà hình thành. TMĐT
qua Internet tác động đến yếu tố chi phí trong chuỗi giá trị thị trường (value-chain),
hướng nền kinh tế đến hiệu quả.
TMĐT giúp giảm chi phí sản xuất, trước hết là chi phí văn phòng. Các văn
phòng không có giấy tờ chiếm diện tích nhỏ hơn rất nhiều, chi phí tìm kiếm và
22


Các công cụ trong nề kinh tế thông tin ở Việt Nam

chuyển giao tài liệu giảm nhiều lần, đặc biệt là trong khâu in ấn. Theo số liệu của
hãng General Electricity của Mỹ, tiết kiệm trên hướng này đạt tới 30%. Từ quan
điểm chiến lược, các nhân viên có năng lực được giải phóng khỏi nhiều công đoạn
sự vụ có thể t9ập trung vào nghiên cứu phát triển, sẽ đưa đến những lợi ích to lớn
lâu dài.
TMĐT giúp giảm thấp chi phí bán hàng và chi phí tiếp thị.Bằng phương tiện
Internet, một nhân viên bán hàng có thể giao dịch được với rất nhiều khách hàng.
Catalogue điện tử trên Web phong phú hơn nhiều và thường xuyên cập nhật so với
catalogue in ấn chỉ có khuôn khổ giới hạn và luôn lỗi thời. Theo số liệu của hãng
máy bay Boeing của Mỹ, đã có tới 50% khách hàng đặt mua 9% phụ tùng qua
Internet và các đơn hàng về lao vụ kỹ thuật theo phương thức này ngày càng tăng
lên.
Với TMĐT, người tiêu dùng và các doanh nghiệp tiết kiệm đáng kể thời gian
và chi phí giao dịch (quá trình từ quảng cáo, tiếp xúc ban đầu, giao dịch đặt hàng,
giao dịch giao hàng, giao dịch thanh toán). thời gian giao dịch qua Internet chỉ bằng
7% thời gian giao dịch qua Fax, và bằng khoảng 0.5 phần nghìn thời gian giao dịch
qua bưu điện; chi phí cho giao dịch qua Internet chỉ bằng khoảng 5% chi phí giao
dịch qua Fax hay bưu điện chuyển phát nhanh; chi phí thanh toán điện tử qua
Internet chỉ bằng 10% đến 20% chi phí thanh toán theo lối thông thường.


23


Các công cụ trong nề kinh tế thông tin ở Việt Nam

Bảng 1: Tốc độ và chi phí truyền gửi bộ tài liệu 40 trang
Đường truyền

Thời gian

Chi phí (USD)

Qua bưu điện

5 ngày

7.40

Chuyển phát nhanh

24 giờ

26.25

Qua máy Fax

31 phút

28.83


Qua Internet

2 phút

0.10

Qua bưu điện

2-3 ngày

3.00

Chuyển phát nhanh

24 giờ

15.50

Qua máy Fax

31 phút

9.36

Qua Internet

2 phút

0.10


New York đi Tokyo

New York đi Los Angeles

Nguồn: ITU, “Challenges to network”, 1997, Geneva
Trong hai yếu tố cắt giảm này, yếu tố thời gian có ý nghĩa lớn hơn vì tốc độ
lưu thông có ý nghĩa sống còn trong kinh doanh và cạnh tranh. Bên cạnh đó, việc
giao dịch nhanh chóng, sớm nắm bắt được nhu cầu còn giúp cắt giảm số lượng và
thời gian hàng nằm lưu kho (inventory), cũng như kịp thời thay đổi phương án sản
phẩm bám sát được nhu cầu của thị trường. Nhiều năm trước đây, rút ngắn chu thời
sản xuất (cycle time) là một trong các nhân tố quan trọng nhất giúp các công ty
Nhật Bản giành được thắng lợi trong cạnh tranh với các công ty Hoa Kỳ.
Mở rộng cơ hội gia nhập thị trường và thay đổi cấu trúc thị trường
Khả năng truy cập và phát tán (diffusion) thông tin nhanh chóng qua Internet
với chi phí thấp là cơ hội lớn cho các SMEs gia nhập thị trường. Chi phí lập một
cửa hàng ảo trên Internet (gồm các chi phí đầu tư thiết kế trang web, chi phí đăng
ký và duy trì tên miền (domain name)) chỉ bằng một phần rất nhỏ so với việc lập
một cửa hàng hữu hình nhưng trong nhiều trường hợp, hiệu quả đem lại có thể lớn
hơn nhiều lần.

24


Các công cụ trong nề kinh tế thông tin ở Việt Nam

Internet cho phép đưa thông tin đến từng cá nhân, vì thế chỉ cần một trang
web bắt mắt với nhiều ý tưởng sáng tạo, doanh nghiệp có thể được đông đảo người
tiêu dùng biết đến. Cửa hàng bán lẻ trực tuyến Amazon.com là một điển hình trong
nhiều ví dụ. Điều đó cho thấy so với việc tạo lập danh tiếng trên thị trường theo

phương cách truyền thống, TMĐT qua Internet rõ ràng có những lợi thế nhất định.
Tính chất cạnh tranh trên thị trường một phần tùy thuộc vào số lượng đối thủ
cạnh tranh có mặt trên thị trường đó. TMĐT không chỉ tạo điều kiện gia nhập thị
trường dễ dàng mà còn tạo áp lực cho mọi doanh nghiệp phải “hiện hữu trực tuyến”
(online presence). Tuy nhiên, khác với thị trường truyền thống, cạnh tranh trên thị
trường TMĐT chủ yếu là cạnh tranh ở khả năng thông tin nhanh chóng và hiệu quả.
Điều này tạo cơ hội đồng đều cho các thành phần tham gia cạnh tranh. Mặc dù trong
môi trường mới, các doanh nghiệp lớn và danh tiếng có thể có một khởi đầu thuận
lợi hơn so với những doanh nghiệp “sinh sau đẻ muộn” nhưng điều đó không có
nghĩa là họ có lợi thế hơn trong việc nắm bắt thông tin để điều chỉnh hoạt động sản
xuất kinh doanh phù hợp với nhu cầu thị trường.
Chu thời sản xuất được rút ngắn trên cơ sở tiết kiệm thời gian và chi phí giao
dịch tất yếu dẫn đến những điều chỉnh nhất định trong cách thức tổ chức doanh
nghiệp và những thay đổi mới ở nhiều ngành kinh doanh. Lấy ngành vận tải du lịch
làm một ví dụ; trước đây các công ty hàng không thường bán vé máy bay qua mạng
lưới các đại lý phân phối vé được thiết lập khắp nơi, nhưng với TMĐT qua Internet,
các công ty này có thể bán vé trực tiếp cho khách hàng và tiết kiệm được khoản hoa
hồng phải trả cho đại lý. Điều này sẽ làm cho các công ty hàng không có xu hướng
sáp nhập hoạt động bán vé vào trong hoạt động của mình, còn các đại lý có thể
chuyển sang hình thức môi giới thông tin, so sánh giá cả và dịch vụ được cung cấp
bởi các công ty khác nhau, vì khách hàng có khả năng sẽ trả một khoản tiền để có
được thông tin theo yêu cầu.
Thúc đẩy Công nghệ Thông tin phát triển, tạo điều kiện sớm tiếp cận "nền
kinh tế số hóa"
TMĐT phát triển dựa trên nền tảng cơ sở hạ tầng Công nghệ Thông tin hiện
đại. Do vậy, phát triển TMĐT sẽ tạo nên những nhu cầu đầu tư mới trong lĩnh vực
hạ tầng cơ sở và dịch vụ Công nghệ Thông tin. Theo dự báo của OECD, phần đóng
góp của Công nghệ Thông tin trong nền kinh tế toàn cầu sẽ đạt mức từ 3.5% thời kỳ
1993-2008. Ở các nước công nghiệp phát triển tỷ lệ này cao hơn rất nhiều ( ở Mỹ
hiện nay khoảng 15% GDP). Các nhà nghiên cứu dự đoán kinh tế thế giới có xu

hướng tiến đến “nền kinh tế số hóa” hay “nền kinh tế mới” lấy tri thức và thông tin
làm nền tảng phát triển. Đây là khía cạnh mang tính chiến lược đối với các nước
đang phát triển vì nó đem lại cả nguy cơ tụt hậu lẫn cơ hội tạo “bước nhảy vọt“
(leap-frog) bắt kịp xu thế phát triển của nhân loại.
25


×