Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

suy nghi ve cai chet cua lao hac trong truyen ngan cung ten cua nam cao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (279.65 KB, 13 trang )

VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

Suy nghĩ về cái chết của Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên
Đề bài: em hãy nói lên suy nghĩ của mình về cái chết của Lão Hạc trong truyện ngắn
cùng tên của tác giả Nam Cao
Bài tham khảo 1
Lão Hạc là truyện ngắn phản ánh chân thực nhất cảnh đời cơ cực, nhiều cay đắng nhất của
người nơng dân trước cách mạng tháng Tám. Có thể nói là xã hội này đầy rẫy những bất
công, đẩy người nơng dân vào bế tắc, tuyệt vọng, khơng lối thốt. Nam Cao đã xây dựng
thành cơng hình ảnh Lão hạc với đầy đủ những phẩm chất tốt đẹp của người nông dân
nhưng cuối cùng số phận bi thảm. Cái chết của Lão Hạc cuối truyện luôn ám ảnh người
đọc, bởi giá trị mà nó muốn nhắn gửi sâu xa như thế nào.

Khơng phải bỗng nhiên lão Hạc muốn tìm đến cái chết, bởi chẳng ai muốn chết cả. Chỉ khi
túng q, quẫn q, và khơng cịn con đường nào khác để đi thì cái chết là sự giải thốt nhẹ
nhàng nhất. Lão Hạc sau khi bán cậu Vàng được 5 đồng, thấy day dứt, thấy mình thật tệ
bạc với nó quá. Lão tính đi tính lại, cuối cùng cũng tích được 30 đồng gửi ông Giáo, bao
giờ con trai ông về thì nhờ ơng Giáo gửi lại con trai.
Ngay từ đầu câu chuyện, Nam Cao đã giới thiệu hoàn cảnh vơ cùng khó khăn, cùng cực và
cơ độc của Lão Hạc. Con trai thì đi cao su biền biệt chưa thấy về, lão già yếu, chỉ sống với
cậu Vàng và mảnh vườn nhỏ. Lão thương con trai và mong muốn nó quay trở về đây. Tấm
lịng đó của Lão thực sự đáng trân trọng và cảm phục.

VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

Tuy nhiên cuộc sống càng ngày càng thiếu thốn, bệnh tật triền miên, lão không muốn cậy
nhờ ông giáo và khơng muốn làm phiền đến hàng xóm nên đã xin Binh Tư ít bả chó. Lão
bảo lão xin bả chó để bẫy con chó đi lạc nhưng thực ra để giải thốt bản thân mình, cũng là


để tiền lại cho con, khơng làm gánh nặng cho bất kì ai.
Cái chết của lão Hạc để lại trong lòng người đọc nhiều ám ảnh. Lão chết, cái chết đó giàu
giá trị nhân văn, cũng như phản ánh chân thực hiện trạng xã hội Việt Nam lúc bấy giờ đang
rơi vào bế tắc như thế nào.
Vì bế tắc, vì nghèo đói, vì lịng tự trọng nên cái chết là sự lựa chọn cuối cùng, dù là bất đắc
dĩ thì nó cũng có thể kết thúc trong êm đẹp. Xã hội Việt Nam bấy giờ cái nghèo đói tràn lan,
thực dân phong kiến đã đẩy những người nông dân đến bước đường cùng như thế này.
Vốn dĩ lão Hạc là người có lịng tự trọng rất cao, nên dù khó khăn thế nào, lão cũng khơng
muốn cậy nhờ bất cứ ai. Chính lịng tự trọng “hác dịch” đó đã buộc lão phải nghĩ đến cái
chết, dù thực tâm lão vẫn muốn sống và khát sống một cách mãnh liệt. Một sự đối lập đến
chua xót như vậy.
Lão chết, cái chết bộc lộ cao nhất tình u thương con vơ bờ bến. Ơng không muốn làm
gánh nặng cho con sau này, ông muốn giành dụm hết tiền cho con, mình khơng dùng đến
đồng nào. Tình cảm ấy thật vĩ đại và vượt khỏi sức tưởng tượng của con người.
Cái chết của Lão Hạc vừa phản ánh sự bế tắc của thời đại, của con người; đồng thời giải
phóng chính lão hạc khi muốn mang đến những điều tốt đẹp cho đứa con của mình.
Thật vậy, truyện ngắn “Lão Hạc” kết thúc với cái chết đầy bi kịch và bế tắc của lão đã
khiến người đọc suy nghĩ rất nhiều về con người, tình người, về cái đói, cái nghèo và về
lịng tự trọng.
Bài tham khảo 2
Đọc xong truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao, hẳn khơng ít người cịn day dứt, dằn vặt và
suy nghĩ về cái chết của lão. Chưa bao giờ ta lại thấy được rõ nét như lúc này về ranh giới
giữa trắng và đen, giữa thị phi và đạo đức lại mỏng manh và nhập nhằng như lúc này. Cái
chết của Lão Hạc là cái chết để nói lên tính cách, nhân cách của chính lão.
Lão Hạc là một nông dân nghèo, vợ lão chết để lại cho hai cha con lão một mảnh vườn,
thằng con trai đã đến tuổi lấy vợ, nhưng vì nghèo q khơng đủ tiền thách cưới. Con trai
lão cũng vì thế mà bỏ đi làm đồn điền cao su năm hay sáu năm nay chưa thấy về. Lão Hạc
đã tìm đến cái chết. Lão chết để lại cho mọi người sự bàng hồng, xót xa. Có thể nói, lão
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí



VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

chết vì đã nỡ lừa một con chó khơng? “Thì ra tơi già bằng này tuổi đầu rồi cịn đánh lừa
một con chó, nó khơng ngờ tơi nỡ tâm lừa nó”. Con chó đó được anh con trai lão mua về,
khi anh đi làm thì để lại cho lão ni. Lão coi nó như một người bạn tri kỷ, một đứa con,
đứa cháu tinh thần mà anh con trai để lại, khi ơng nói chuyện với nó, ơng gọi anh con trai
là “bố cậu”, thế nên ông đặt tên cho nó là “cậu Vàng”. Có chuyện gì lão cũng kể cho cậu
nghe, lão ăn gì, nó ăn nấy, có khi nó cịn ăn nhiều hơn lão nữa. Vậy mà, lão quyết định bán
nó. Nhưng quyết định bán cậu Vàng của lão đưa ra thật không dễ dàng chút nào. Lão đã
nhắc đến chuyện này nhiều lần rồi, đến nỗi ông giáo “nghe câu ấy đã nhàm”. Thế nhưng,
lần này lão làm thật. Sau khi bán cậu Vàng không bao lâu, lão gửi mảnh vườn và tiền để lo
ma chay của mình cho ơng giáo. Lão tìm đến cái chết. Cái chết của lão thật đau đớn và
kinh hoàng. “Lão Hạc đang vật vã ở trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai
mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra. Khắp người chốc chốc lại bị giật mạnh một
cái, giật nẩy lên. Hai người đàn ông lực lưỡng phải ngồi đè lên người lão. Lão vật vã đến
hai giờ đồng hồ rồi mới chết.” Lão chết như để trả nợ với cậu Vàng, vì lão đã nỡ nhẫn tâm
lừa nó. Lão khơng chọn cho mình một cái chết nhẹ nhàng hay khơng đau đớn, vật vã mà
ngược lại. Dường như lão muốn được cậu Vàng tha thứ. Bởi với lão, cậu Vàng như một
đứa con, một người bạn tri kỷ, một kỷ niệm mà anh con trai để lại. Khi vừa bán chó xong,
lão sang ngay nhà ơng giáo và nói “Cậu Vàng đi đời rồi, ơng giáo ạ!”. Câu nói rất tỉnh táo,
khơng hề có ý gì thương xót hay hối hận mà ngược lại, nó như có ý khoe khoang một việc
gì đó. Vậy mà, chỉ sau đó một khoảnh khắc, Nam Cao đã tả ngay cho ta thấy “Lão cố làm
ra vẻ vui vẻ. Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt ầng ậng nước”. Và chỉ chờ một giọt
nước, một tác động nhỏ là mọi cảm xúc, mọi kìm nén sẽ vỡ ịa ra. “Mặt lão đột nhiên co
dúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về
một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc …” , chỉ sau
một câu hỏi của ơng giáo. Và sau khi bán chó đi, tâm hồn lão dường như trống rỗng. Lão
chết như để trả lời cho câu trách móc của con chó mà lão tưởng tượng ra.
Nhưng tất cả khơng chỉ có vậy, lão chết vì tình thương mà lão dành cho con trai q lớn lao,

khơng gì có thể thay thể được. Và lão chết cũng là để cho xã hội đương thời lúc đó thấy
được cách họ đã dồn ép những người nơng dân lao động nghèo đến đói cùng đói cực như
thế nào. Anh con trai lão yêu một cô gái và muốn cưới làm vợ, nhưng nhà gái lại thách cao
quá, lão không đủ tiền để trả. Vậy là anh đòi bán mảnh vườn mà mẹ anh đã “thắt lưng buộc
bụng, dè sẻn mãi” mới mua được, nhưng lão không đồng ý. Lão hết lời khuyên ngăn, cuối
cùng thì anh con trai cũng ưng thuận nghe theo. Bởi quá nghèo khổ, anh con trai quyết tâm
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

đi làm ở đồn điền cao su mong thoát khỏi cuộc sống cùng cực, tủi nhục lúc bấy giờ. Lão ở
nhà cùng với cậu Vàng. Với tình yêu bao la dành cho con trai, lão tự làm thuê để kiếm ăn
qua ngày, còn tiền hoa lợi của mảnh vườn thì để ra, gom góp cho anh con trai để anh có
tiền cưới vợ, hoặc có vốn làm ăn. Nhưng thật là, người tính khơng bằng trời tính. “Ấy thế
mà bây giờ hết nhẵn, ông giáo ạ! Tôi chỉ ốm có một trận đấy thơi. Một trận đúng hai tháng,
mười tám ngày, ông giáo ạ!” Bao nhiêu tiền của tích góp bấy lâu của ơng đội nón ra đi theo
tiền thuốc men, tiền ăn uống. Lão đau lịng, xót ruột lắm. Lão lại lo cho anh con trai của
lão, lão sợ làm gánh nặng cho con mình. “Tơi bịn vườn của nó bao nhiêu, tiêu hết cả. Nó
vợ con chưa có. Ngộ nó khơng lấy gì lo được, lại bán vườn thì sao? …” Lão ln đặt con
trai ở vị trí trên cùng, quan trọng nhất, ln tìm mọi cách để tốt cho con mà không quan
tâm, không suy nghĩ gì cho mình hết. Lão trăn trở, suy nghĩ và lão quyết định. Lão gửi nhờ
ông giáo trông hộ mảnh vườn, bao giờ con trai lão về thì giao lại cho nó, lão cịn hai mươi
lăm đồng bạc với năm đồng bán chó nữa là trịn ba mươi đồng, lão vét sạch, gửi ơng giáo
để phịng lo ma chay cho mình khơng lại phiền đến bà con hàng xóm. Từ đó “Ln mấy
hơm, tơi thấy lão Hạc chỉ ăn khoai. Rồi khoai cũng hết. Bắt đầu từ đấy, lão chế tạo được
món gì, ăn món nấy. Hơm thì lão ăn củ chuối, hơm thì lão ăn sung luộc, hơm thì ăn rau má,
với thỉnh thoảng một vài củ ráy, hay bữa trai, bữa ốc.” Lão sống như thế nào cũng được,
chỉ cần lão không làm phiền đến ai, không làm gánh nặng cho con trai mình là lão vui rồi.
Tấm lịng của người cha là vậy đó, tất cả những gì tốt đẹp nhất đều dành hết cho con cái

của mình. Tới cùng cực, lão khơng cầm cự nổi nữa, lão tìm đến cái chết như để giải thốt
cho mình, giải thốt cho anh con trai và cũng là giải thoát cho cái xã hội nghèo nàn đương
thời mà lão đang sống. Lão tính tốn tất cả, làm tất cả mọi việc chỉ để cho con trai lão có
cuộc sống tốt hơn.
Gấp trang sách lại ta thấy Lão Hạc là một người nông dân lao động nghèo khổ gần bùn
nhưng lại chẳng hôi tanh mùi bùn, mà ngược lại, lão lại là một người cha hết mực, hết lịng
vì con cái. Là một người nhân hậu, thương yêu loài vật, đó là cậu Vàng. Cái chết của lão
chính là tiếng chuông cảnh tỉnh, đánh thức những ai đang lầm đường, lạc lối, khơng được
vì cái ăn, cái hư danh trước mắt mà bán đi linh hồn, nhân cách, phẩm giá của mình.
Bài tham khảo 3
Cái chết của lão Hạc không phải là sự manh động, tiêu cực. Lão đã rất bền bỉ, đã gắng để
sống: "Luôn mấy hôm, tôi thấy lão Hạc chỉ ăn khoai. Rồi thì khoai cũng hết. Bắt đầu từ đấy,

VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

lão chế tạo được món gì, ăn món ấy. Hơm thì lão ăn củ chuối, hơm thì lão ăn sung luộc,
hơm thì ăn rau má, với thỉnh thoảng một vài củ ráy hay bữa trai, bữa ốc" mà không được.
Bi kịch là thế đấy. Nếu không muốn sống thì lão đã khơng phải cố duy trì sự sống bằng
mọi cách như thế. Lão có thể tự sát ngay sau khi ủy thác cho ông giáo mảnh vườn và tiền
làm tang. Dường như, trong mòn mỏi, lão vẫn cố chờ điều gì... Chờ con trai trở về. Biết
đâu trong những ngày gắng sống ấy nó trở về! Khơng thể chờ thêm được nữa, cuối cùng
(tận đến cuối cùng) thì lão Hạc phải chấp nhận một sự thật của chính mình, để lão khơng vi
phạm lẽ sống của lão: Muốn sống mà vẫn tự chết. Tại sao lão tự trọng đến "hách dịch" như
thế cơ chứ? Lão có thể cậy nhờ để sống qua ngày cơ mà, dân gian chẳng đã từng nói "hàng
xóm láng giềng tối lửa tắt đèn có nhau" là gì! Đến ngay tiền làm ma cho mình lão cịn
khơng động đến nữa là cậy nhờ! Thế mới là lão Hạc. Cậu Vàng chết để có thêm 5 đồng vào
25 đồng thành 30 đồng lão gửi ông giáo làm tang nếu lão có mệnh hệ nào. "Đâu vào đấy"

là cay đắng thế ư? Khi con chó phải chết, lão Hạc mong hóa kiếp cho nó; đến khi lão chết,
con chó cịn là 5 đồng để tiễn đưa hương hồn lão. Cơ cực đến thế là cùng. Chẳng gì khác,
xã hội thực dân nửa phong kiến đen tối đã đẩy cuộc sống người nông dân đến đường cùng;
cái nghèo khó, cùng cực đã đẩy lão Hạc đến một lựa chọn đau đớn, nghiệt ngã.
Qua hai văn bản Tức nước vỡ bờ và Lão Hạc, chứng minh rằng: Mặc dù gộp nhiều đau khổ
bất hạnh, người nông dân trước cách mạng tháng Tám vẫn giữ trọn những phẩm chất tốt
đẹp của mình.
Việt Nam, đất nước nơng nghiệp, cái nơi của nền văn minh lúa nước. Trước cách mạng
tháng Tám hơn 90% dân số sống bằng nghề nông. Và từ buổi đầu khi văn học ra đời và
phát triển, đề tài người nông dân đã trở thành mảnh đất tốt để ươm lên những mầm cây văn
học với những tác phẩm đặc sắc. "Tắt đèn" của Ngô Tất Tố và "Lão Hạc" của Nam Cao là
hai tác phẩm như vậy. Đọc những sáng tác này ta thấy vẻ đẹp toả sáng trong tâm hồn của
tầng lớp lao động: "Mặc dù gặp nhiều đau khổ bất hạnh nhưng người nông dân trước cách
mạng tháng Tám vẫn giữ trọn phẩm chất tốt đẹp của mình".
Trước hết đọc hai văn bản điều làm ta ấn tượng về người nông dân Việt Nam trước cách
mạng tháng Tám chính là cuộc sống đau khổ, bất hạnh với cảnh lầm than khổ cực.
Chị Dậu trong "Tắt đèn" của Ngơ Tất Tố là một hình tượng tiêu biểu. Chị Dậu đầu tắt mặt
tối không dám chơi ngày nào mà vẫn "cơm không đủ no, áo không đủ mặc". Gia đình chị
đã "lên đến bậc nhì, bậc nhất trong hạng cùng đinh". Chồng chị ốm đau, vụ thuế đến cùng
biết bao tai hoạ… Nào là phải chạy đôn, chạy đáo để cho đủ số tiền nộp sưu cho chồng mà
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

khơng có một hạt cơm nào vào bụng. Chị như phải mò kim dưới đáy bể, như lạc vào cái sa
mạc cát nóng bỏng, gió thổi tạt vào người như lửa. Trong cảnh "nửa đêm thuế thúc trống
dồn" khơng có tiền nộp sưu cho chồng, vay mượn thì đều là bạn nghèo ai cũng khơng có,
kẻ nhà giàu địa chủ thì địi trả lãi với giá cắt cổ, chị đành phải bán đứa con ngoan ngoãn bé
bỏng mà chị đã mang nặng đẻ đau, mà đã đến lúc nó có thể giúp chị rất nhiều. Chúng ta có

thể cảm nhận được nỗi đau như đứt từng khúc ruột của chị khi bán cái Tý. Cái cảnh chị
nuốt nước mắt vào trong mà van lạy cái Tý, thằng Dần để chúng đồng ý cho chị dẫn cái Tý
sang nhà Nghị Quế làm người đọc khơng cầm lịng được. Cuộc đời chị bất hạnh này lại nối
tiếp khổ đau kia. Sau khi bán con và đàn chó mới đẻ, cóp nhặt đem tiềm nộp sưu cho
chồng xong tưởng chừng nạn kiếp đã xong mà cố gắng sống những ngày bình yên bên
người chồng ốm yếu, nhưng bọn lý trưởng, chánh tổng trong làng lợi dụng thuế má muốn
đục nước béo cò bắt chị phải nộp thêm suất sưu cho em chồng đã chết từ năm ngoái. Người
đã chết, đã đi vào cõi hư vơ, cịn đâu mà bắt người ta đóng thuế, thật q bất cơng. Rồi chị
cịn phải chứng kiến cảnh chổng ốm đau bệnh tật, rũ rượi như một chiếc lá héo khô bị ném
vào nhà, chị chăm sóc cho anh chưa kịp hồn hồn thì bọn cai lệ và người nhà lý trưởng
xơng vào định bắt trói anh điệu ra đình vì thiếu sưu của em mình. Trong hồn cảnh ấy
khơng thể chịu đựng được nữa, tình yêu thương chồng và nỗi tức giận bị đè nén bấy lâu đã
thôi thúc chị hành động. Chị đã xông vào bọn chúng đánh trả quyết liệt sau những lời van
xin thiết tha không hiệu nghiệm để rồi kết quả là cả hai vợ chồng chị bị bắt giải ra đình để
quan tư phủ xử tội vì đã chống lại "người nhà nước". Những khổ cực mà chị Dậu phải chịu
cũng như những tâm lý uất ức trào dâng bột phát thể hiện thành hành động phản kháng của
chị chính là hình ảnh chân thực về cuộc sống của người nông dân trước cách mạng tháng
Tám.
Nếu đọc "Tắt đèn" của Ngô Tất Tố, ta cảm thương cho thân phận của người phụ nữ nông
dân dưới chế độ phong kiến thực dân bao nhiêu thì khi đọc "Lão Hạc" của Nam Cao ta lại
càng thương cảm và xót xa cho số phận của người nơng dân với cuộc sống mịn mỏi trong
chờ đợi và hy vọng mong manh mà cuộc sống cô đơn gặm nhấm tâm hồn và thể xác già
nua của lão Hạc. Lão phải sống cô đơn buồn tủi, trong những ngày xa con, lão chỉ có "cậu
Vàng" làm bạn. "Vàng" là kỷ niệm thiêng liêng của đứa con để lại, càng thương nhớ con
lão càng quý mến con Vàng. Lão âu yếm trị chuyện với nó như người ông hiền hậu ân cần
với đứa cháu ngoan. Yêu thương cậu vàng như vậy nhưng bị dồn vào nước đường cùng,
lão đành làm một việc nhẫn tâm là phải bán nó đi. Khi kể lại với ơng giáo, lão đau đớn xót
xa tột cùng: "Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những nếp nhăn xô lại ép cho nước mắt chảy ra.
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí



VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít…”. Lão
khổ tâm dằn vặt vì chuyện bán chó. Và cái đói cứ đeo đẳng làm cho lão dù đã phải bòn củ
chuối, rau má, sung luộc để kiếm bữa cho qua ngày mà vẫn không xong. Cuối cùng lão
phải kết liễu cuộc đời bằng liều bả chó xin được của Binh Tư. Ôi cái chết thật đau đớn và
dữ dội, lão "vật vã trên giường, đầu tóc rũ rượi, áo quần xộc xệch, lão tru tréo, bọt mép sùi
ra…". Hình ảnh lão Hạc gợi trong ta ký ức buồn đau của thảm cảnh 2 triệu người chết đói
năm 1945 trước khi cách mạng tháng Tám nổ ra.
Người nông dân trong xã hội cũ gặp nhiều đau khổ bất hạnh là thế nhưng vượt lên trên
những đau khổ bất hạnh đó, họ vẫn luôn giữ trọn những phẩm chất cao đẹp của mình mà
đọc tác phẩm dù hiện thực có buồn thương nhưng nhân cách và phẩm chất cao quý của họ
vẫn ngời sáng trong đêm tối khiến ta thêm tin yêu con người, tin yêu cuộc sống.
Ngay trong hoàn cảnh bất hạnh khổ cực vì bị hà hiếp bóc lột chị Dậu vẫn thể hiện vẻ đẹp
tâm hồn của người phụ nữ yêu thương chồng con đảm đang tháo vát. Trong văn bản "Tức
nước vỡ bờ" hình ảnh chị dùng những lời lẽ van xin thảm thiết và dám xông vào chống trả
quyết liệt tên cai lệ và người nhà lý trưởng để cứu chồng là biểu hiện sâu sắc nhất tình cảm
yêu thương hy sinh vì chồng con của chị Dậu. Cử chỉ bê bát cháo đến bên chồng với những
lời nói tự nhiên như tấm lịng chân thành của chị đối với chồng Thầy em cố dậy húp ít cháo
cho đỡ mệt…" đã làm người đọc xúc động thực sự trước tấm lịng thơm thảo, vẻ đẹp nữ
tính dịu dàng với tình cảm mộc mạc của người phụ nữ ấy. Ở chị là sự hội tụ những vẻ dẹp
tự nhiên của người phụ nữ .Việt Nam mà Ngô Tất Tố muốn ngợi ca.
Cũng xuất phát từ tình yêu chồng mà chị đã vùng lên quật ngã tên cai lệ và người nhà lý
trưởng để bảo vệ chồng. Hành động của chị dù là bột phát nhưng suy nghĩ đầy ý thức "Thà
ngồi tù, để cho nó làm tình làm tội mãi thế tôi không chịu được". Ý thức đó phải chăng là ý
thức phản kháng tiềm tàng trong người nông dân mà Ngô Tất Tố dường như đang "xui
người nông dân nổi loạn" (theo nhận xét của Nguyễn Tuân) để nhằm phản ánh quy luật: có
áp bức có đấu tranh, "Tức nước vỡ bờ".
Nếu như chị Dậu tiêu biểu cho người phụ nữ nông dân trong những vẻ đẹp nhân ái vị tha

và tiềm tàng sức sống, sự phản kháng mãnh liệt thì ở nhân vật lão Hạc ta lại cảm nhận
được tâm hồn và tình yêu tha thiết, niềm tin cháy bỏng và một nhân cách cao thượng đáng
nể trọng của người nông dần già nua nghèo hèn phải tìm đến cõi chết. Nếu nói lão Hạc chết
vì đói nghèo quả là hồn tồn chưa hiểu hết ý đồ của nhà văn. Nam Cao đã khơi vào
"luồng chưa ai khơi" trong hiện thực lúc bấy giờ là tinh thần trách nhiệm, tình yêu thương
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

nhân ái, đức hy sinh cao cả của người cha trong hồn cảnh vật lộn với cái đói. Lão Hạc
chết là để bảo toàn danh dự và nhân cách, để giữ trọn tình yêu cho con, để thanh thản ra đi
sau những gửi gắm về mảnh vườn, tiền cưới vợ cho con, tiền lo ma chay để khi ra về nơi
miền cực lạc xa xơi cịn có hàng xóm lo cho. Chính sự chất phác lương thiện đã giúp lão có
những hành động đầy tự trọng ấy, lão không muôn liên luỵ đến ai mà chỉ âm thầm chịu khổ
một mình.
Lão Hạc cịn là người rất đơn hậu và cao cả, lão đã khóc hu hu, đã xót xa đến tột cùng khi
phải bán con chó, lão ân hận, lão khóc như người có tội, lương tâm lão bị dày vị, cắn dứt
chỉ vì khơng thuỷ chung với một con chó. Lịng nhân ái của lão khiến ta cảm động biết
nhường nào.
Những đức tính khiến chúng ta phải cảm phục nhất ở lão Hạc đó là lịng u thương con
bao la, đức hy sinh cao cả. Chính tình yêu con đã giúp lão ngăn con không bán vườn. Lúc
khoẻ lão cố cày thuê cuốc mướn, đồng áng từ lúc bình minh đến khi hồng hơn bng
xuống, tất cả chỉ để dành dụm cho con ít tiền. Nhưng sau trận ốm, lão đã chẳng cịn gì,
thương con nên lão không muốn tiêu phạm vào một đồng tiền nào dành cho con. Lão nhịn
ăn, nhịn mặc, một lịng vì con: để rồi lão đã chọn con đường quyên sinh để giữ trọn mảnh
vườn cho con. Cái chết dữ dội và kinh hoàng lắm. Lão thương con ngay đến những giây
phút cuối cùng của cuộc đời, nhưng lòng lão thanh thản đến êm dịu.
Cảm ơn Ngô Tất Tố, cảm ơn Nam Cao! Họ đã cho chúng ta hiểu rõ cái cuộc sống cùng
quẫn, bi thảm của người nông dân, làm chúng ta càng cảm phục trước những phẩm chất

cảo quý, đẹp đẽ và trong sáng của họ. Giữa bùn đen nhưng tâm hồn họ vẫn toả hương thơm
ngát như đoá hoa sen đồng nội. Nhìn vào cuộc sống của người nơng dân ngày nay ta càng
xót xa cho cha ơng thuở trước và thêm tin yêu cuộc sống mới.
Bài tham khảo 4
Văn học hiện thực phê phán là dòng văn học với những cảnh đời trớ trêu, cay đắng, bất
hạnh. Văn học về những con người bị áo cơm ghì sát đất, phải sơng tha hóa, sống kiếp
sơng mịn, của những cảnh đời bị đẩy vào bước đường cùng không lối thốt,… Nước mắt
và cái chết có thể coi là những mô tiếp quen thuộc của văn học hiện thực phê phán 1930 –
1945. Mô tip ấy ám ảnh nhiều trong sáng tác của nhà văn Nam Cao: Chí phèo chết trong
vũng máu của chính mình ngay trong khi khát vọng trở về với cuộc đời bị dập tắt; Lang
Rận, Mụ Lợi tự tử trong sự ghẻ lạnh, đàm tiếu của người làng; Bà cái Tí chết vì một bữa no
duy nhất của cuộc đời,… Có lẽ trong những cái chết ấy thì khó qn nhất chính là cái chết
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

của lão Hạc – một lão nơng nghèo khổ, bất hạnh trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn
Nam Cao.
Ta hãy đọc lại những dòng văn Nam Cao tả lại cái chết của lão Hạc: “Lão Hạc đang vật vã
ở trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt
mép sùi ra, khắp người chốc chốc lại bị giật mạnh một cái, nảy lên. Hai người đàn ông lực
lưỡng phải ngồi đè lên người lão. Lão vật vã đến hai giờ đồng hồ rồi mới chết. Cái chết
thật là dữ dội. Chẳng ai hiểu lão chết vì bệnh gì mà đau đớn và bất thình lình như vậy”.
Những dịng văn này trước hết làm tơi giật mình về một cái chết thật dữ dội và kinh hồng.
Đây khơng phải là một cái chết bình thường. Đó là cái chết của người do bị trúng độc bả
chó. Bất giác tơi có cảm tưởng như khơng phải cái chết của một người bình thường mà là
cái chết như của một con chó. Lão Hạc trong cái chết của mình vơ cùng đau đớn, vô cùng
vật vã, cùng cực về thể xác. Cả đời đã khổ, đến khi nhắm mát xuôi tay, lão đâu có hề được
bình n về với đất mẹ.

Cái chết của lão Hạc thật bất ngờ – bất ngờ với tất cả, cả Binh Tư và người láng giềng thân
thiết là ông giáo; cả mọi người trong làng. Sự bất ngờ của cái chết càng làm cho câu
chuyện thêm căng thẳng, thêm xúc động. Mâu thuẫn bế tắc được đẩy lên đến đỉnh điểm và
kết thúc một cách bi đát và tất yếu. Lão Hạc khơng thể tìm con đường nào khác để tiếp tục
sống mà không ăn vào tiền của con, hoặc bán mảnh vườn. Lão đành chọn cái chết, đành tự
chấp nhận đau khổ để nuôi hi vọng cho người con trai. Với một tính cách như lão Hạc thì
cái chết là một tất yếu, cách chết mà lão chọn cũng là một tất yếu.
Người đọc bao thế hệ trước cái chết của lão Hạc đều xúc động nghẹn ngào khi phát hiện ra
những ý nghĩa sâu sắc ẩn sau cái chết đầy đau đớn về thể xác kia của lão. Lão không chọn
cách chết nào khác mà chết như cách chết của một con chó ăn phải bả, bởi với lão đến tận
lúc chết, ám ảnh về cậu Vàng, về việc mình đã trót lừa một con chó vẫn day dứt lương tâm
lão. Lão đã chọn một cách giải thoát đáng sợ nhưng lại như một cách để tạ lỗi cùng cậu
Vàng. Lão Hạc yêu thương con chó như con trai nhưng lại nỡ lừa bán nó để cho thằng Mục
giết thịt, thì lão cũng phải tự trừng phạt mình, tự chịu hình phạt như một con chó chết vì ăn
phải bả. Lão Hạc chết trong đau đớn, vật vã ghê gớm về thể xác nhưng chắc chắn lão lại
thanh thản về tâm hồn vì đã hồn thành nốt cơng việc cuối cùng với đứa con trai vẫn “bặt
vơ âm tín” với hàng xóm láng giềng về tang ma của mình. Lão chết để giữ phần ấm cho
con, để giữ lại hi vọng cho người con trai duy nhất đang ở nơi xa của mình. Cái chết của
lão là biểu hiện cao nhất của tình phụ tử thiêng liêng, của đức hi sinh cao cả.
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

Cái chết của lão Hạc một mặt góp phần bộc lộ tính cách và số phận của lão Hạc, cũng là
một điển hình sắc nét của số phận và tính cách của người nơng dân Việt Nam trước Cách
mạng tháng Tám: nghèo khổ, bế tắc, nhưng giàu lòng yêu thương và đức hi sinh cao cả,
mặt khác, cái chết của lão Hạc cũng có ý nghĩa tố cáo hiện thực xã hội thực dân nửa phong
kiến đã đẩy những con người lương thiện vào bước đường cùng, phải chấp nhận cái chết
như cách duy nhất kết thúc cuộc đời nhiều đau khổ. Cái chết của lão cũng giúp những

người xung quanh lảo hiểu con người lão hơn, quý trọng và thương tiếc lão hơn.
Kết thúc câu chuyện bằng cái chết của nhân vật chính, Nam Cao đã tơn trọng cái lơ gích
của sự thật cuộc đời, đồng thời làm tăng sức ám ảnh, hấp dẫn và khiến người đọc cảm động
hơn. Cái chết của lão Hạc tuy mang đậm màu sắc bi thảm nhưng nó cũng khiến người đọc
ấm lịng hơn bởi nó mang lại cho họ niềm tin vào bản chất tốt đẹp của con người trước
hoàn cảnh nghiệt ngã của cuộc đời. Đó cũng chính là giá trị nhân văn sâu sắc mà nhà văn
gửi gắm trong thiên truyện ngắn này.
Bài tham khảo 5
Cái chết bất ngờ của Lão Hạc chính là hậu quả của một xã hội phong kiến đã mục nát. Cái
chết ấy thật dữ dội, kinh hồng. Trên đời, có bao cá chết nhẹ nhàng nhưng Lão Hạc lại
chọn cái chết thật đau đớn như một cái chết của con vật, như một lời tạ lỗi với cậu Vàngkỉ vật thiêng liêng của người con trai. Nhưng có lẽ cái chết tuy đau đớn về thể xác nhưng
chắc chắn sẽ thanh thản về tâm hồn vì đã giữ được nhà cho con trai, vì đã chết mà khơng
làm phiền đến hàng xóm.
Ý nghĩa: Cái chết đã tố cáo một xã hội phong kiến đương thời, một xã hội bất công, tàn ác,
xấu xa đã chà đạp lên số phận đau thương của bao mảnh đời bất hạnh. Xã hội đó đã địn
con người và bức chân đường cùng khơng lối thốt khiến họ phải tìm đến cái chết để tự
giải cứu mình.
Qua cái chết của Lão Hạc, ta càng thêm tin yêu, kính trọng những phẩm chất tốt đẹp, nhân
cách cao quý của người nông dân: Thật thà, chất phác, hiền lành, thủy chung, sống có tình
có nghĩa… để rồi ta phải khâm phục, thương tiếc xót xa trước cảnh đời bi thảm.
Cái chết đã làm tăng sự ám ảnh, hấp dẫn trong câu chuyện làm người đọc xúc động phải
suy ngẫm.
Bài tham khảo 6

VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

Đọc xong truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao, hẳn khơng ít người cịn day dứt, dằn vặt và

suy nghĩ về cái chết của lão. Chưa bao giờ ta lại thấy được rõ nét như lúc này về ranh giới
giữa trắng và đen, giữa thị phi và đạo đức lại mỏng manh và nhập nhằng như lúc này. Cái
chết của Lão Hạc là cái chết để nói lên tính cách, nhân cách của chính lão.
Lão Hạc là một nông dân nghèo, vợ lão chết để lại cho hai cha con lão một mảnh vườn,
thằng con trai đã đến tuổi lấy vợ, nhưng vì nghèo q khơng đủ tiền thách cưới. Con trai
lão cũng vì thế mà bỏ đi làm đồn điền cao su năm hay sáu năm nay chưa thấy về. Lão Hạc
đã tìm đến cái chết. Lão chết để lại cho mọi người sự bàng hồng, xót xa. Có thể nói, lão
chết vì đã nỡ lừa một con chó khơng? “Thì ra tơi già bằng này tuổi đầu rồi cịn đánh lừa
một con chó, nó khơng ngờ tơi nỡ tâm lừa nó”. Con chó đó được anh con trai lão mua về,
khi anh đi làm thì để lại cho lão ni. Lão coi nó như một người bạn tri kỷ, một đứa con,
đứa cháu tinh thần mà anh con trai để lại, khi ơng nói chuyện với nó, ơng gọi anh con trai
là “bố cậu”, thế nên ông đặt tên cho nó là “cậu Vàng”. Có chuyện gì lão cũng kể cho cậu
nghe, lão ăn gì, nó ăn nấy, có khi nó cịn ăn nhiều hơn lão nữa. Vậy mà, lão quyết định bán
nó. Nhưng quyết định bán cậu Vàng của lão đưa ra thật không dễ dàng chút nào. Lão đã
nhắc đến chuyện này nhiều lần rồi, đến nỗi ông giáo “nghe câu ấy đã nhàm”. Thế nhưng,
lần này lão làm thật. Sau khi bán cậu Vàng không bao lâu, lão gửi mảnh vườn và tiền để lo
ma chay của mình cho ơng giáo. Lão tìm đến cái chết. Cái chết của lão thật đau đớn và
kinh hoàng. “Lão Hạc đang vật vã ở trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai
mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra. Khắp người chốc chốc lại bị giật mạnh một
cái, giật nẩy lên. Hai người đàn ông lực lưỡng phải ngồi đè lên người lão. Lão vật vã đến
hai giờ đồng hồ rồi mới chết.” Lão chết như để trả nợ với cậu Vàng, vì lão đã nỡ nhẫn tâm
lừa nó. Lão khơng chọn cho mình một cái chết nhẹ nhàng hay không đau đớn, vật vã mà
ngược lại. Dường như lão muốn được cậu Vàng tha thứ. Bởi với lão, cậu Vàng như một
đứa con, một người bạn tri kỷ, một kỷ niệm mà anh con trai để lại. Khi vừa bán chó xong,
lão sang ngay nhà ơng giáo và nói “Cậu Vàng đi đời rồi, ông giáo ạ !”. Câu nói rất tỉnh táo,
khơng hề có ý gì thương xót hay hối hận mà ngược lại, nó như có ý khoe khoang một việc
gì đó. Vậy mà, chỉ sau đó một khoảnh khắc, Nam Cao đã tả ngay cho ta thấy “Lão cố làm
ra vẻ vui vẻ. Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt ừng ậng nước”. Và chỉ chờ một
giọt nước, một tác động nhỏ là mọi cảm xúc, mọi kìm nén sẽ vỡ ịa ra. “Mặt lão đột nhiên
co dúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo

về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc …” , chỉ sau

VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

một câu hỏi của ơng giáo. Và sau khi bán chó đi, tâm hồn lão dường như trống rỗng. Lão
chết như để trả lời cho câu trách móc của con chó mà lão tưởng tượng ra.
Nhưng tất cả khơng chỉ có vậy, lão chết vì tình thương mà lão dành cho con trai q lớn lao,
khơng gì có thể thay thể được. Và lão chết cũng là để cho xã hội đương thời lúc đó thấy
được cách họ đã dồn ép những người nông dân lao động nghèo đến đói cùng đói cực như
thế nào. Anh con trai lão yêu một cô gái và muốn cưới làm vợ, nhưng nhà giá lại thách cao
quá, lão không đủ tiền để trả. Vậy là anh đòi bán mảnh vườn mà mẹ anh đã “thắt lưng buộc
bụng, dè sẻn mãi” mới mua được, nhưng lão không đồng ý. Lão hết lời khuyên ngăn, cuối
cùng thì anh con trai cũng ưng thuận nghe theo. Bởi quá nghèo khổ, anh con trai quyết tâm
đi làm ở đồn điền cao su mong thoát khỏi cuộc sống cùng cực, tủi nhục lúc bấy giờ. Lão ở
nhà cùng với cậu Vàng. Với tình yêu bao la dành cho con trai, lão tự làm thuê để kiếm ăn
qua ngày, cịn tiền hoa lợi của mảnh vườn thì để ra, gom góp cho anh con trai để anh có
tiền cưới vợ, hoặc có vốn làm ăn. Nhưng thật là, người tính khơng bằng trời tính. “Ấy thế
mà bây giờ hết nhẵn, ơng giáo ạ! Tơi chỉ ốm có một trận đấy thôi. Một trận đúng hai tháng,
mười tám ngày, ơng giáo ạ!” Bao nhiêu tiền của tích góp bấy lâu của ơng đội nón ra đi theo
tiền thuốc men, tiền ăn uống. Lão đau lịng, xót ruột lắm. Lão lại lo cho anh con trai của
lão, lão sợ làm gánh nặng cho con mình. “Tơi bịn vườn của nó bao nhiêu, tiêu hết cả. Nó
vợ con chưa có. Ngộ nó khơng lấy gì lo được, lại bán vườn thì sao? …” Lão ln đặt con
trai ở vị trí trên cùng, quan trọng nhất, ln tìm mọi cách để tốt cho con mà khơng quan
tâm, khơng suy nghĩ gì cho mình hết. Lão trăn trở, suy nghĩ và lão quyết định. Lão gửi nhờ
ông giáo trông hộ mảnh vườn, bao giờ con trai lão về thì giao lại cho nó, lão cịn hai mươi
lăm đồng bạc với năm đồng bán chó nữa là trịn ba mươi đồng, lão vét sạch, gửi ơng giáo
để phịng lo ma chay cho mình khơng lại phiền đến bà con hàng xóm. Từ đó “Luôn mấy

hôm, tôi thấy lão Hạc chỉ ăn khoai. Rồi khoai cũng hết. Bắt đầu từ đấy, lão chế tạo được
món gì, ăn món nấy. Hơm thì lão ăn củ chuối, hơm thì lão ăn sung luộc, hơm thì ăn rau má,
với thỉnh thoảng một vài củ ráy, hay bữa trai, bữa ốc.” Lão sống như thế nào cũng được,
chỉ cần lão không làm phiền đến ai, không làm gánh nặng cho con trai mình là lão vui rồi.
Tấm lịng của người cha là vậy đó, tất cả những gì tốt đẹp nhất đều dành hết cho con cái
của mình. Tới cùng cực, lão không cầm cự nổi nữa, lão tìm đến cái chết như để giải thốt
cho mình, giải thoát cho anh con trai và cũng là giải thoát cho cái xã hội nghèo nàn đương
thời mà lão đang sống. Lão tính tốn tất cả, làm tất cả mọi việc chỉ để cho con trai lão có
cuộc sơng tốt hơn.

VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

Gấp trang sách lại ta thấy Lão Hạc là một người nông dân lao động nghèo khổ gần bùn
nhưng lại chẳng hôi tanh mùi bùn, mà ngược lại, lão lại là một người cha hết mực, hết lịng
vì con cái. Là một người nhân hậu, thương yêu loài vật, đó là cậu Vàng. Cái chết của lão
chính là tiếng chuông cảnh tỉnh, đánh thức những ai đang lầm đường, lạc lối, khơng được
vì cái ăn, cái hư danh trước mắt , mà bán đi linh hồn, nhân cách, phẩm giá của mình.

VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí



×