Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

phan tich bai tho hai chu nuoc nha cua a nam tran tuan khai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.05 KB, 11 trang )

VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
Phân tích bài thơ Hai chữ nước nhà của Á Nam Trần Tuấn Khải

Bài tham khảo 1
Trần Tuấn Khải thường mượn những chuyện lịch sử để giãi bày tấm lòng yêu nước, nỗi
đau mất nước, qua đó mà thức tỉnh tinh thần của đồng bào. Ở những năm đầu thế kỉ XX,
ông là một trong những gương mặt thơ tiêu biểu với giọng điệu bi tráng, thống thiết. Hai
chữ nước nhà là tác phẩm tiêu biểu của ông. Dưới hình thức song thất lục bát, bài thơ Hai
chữ nước nhà để lại một ấn tượng mạnh mẽ, sâu sắc trong lòng người đọc. "Tâm trạng xã
hội khoảng 1926 uất ức, bi tráng, điệu lục bát du dương êm hòa không đủ, mà đòi hỏi một
điệu thơ song thất lục bát để toát, để thoát, xé nỗi niềm u uất đè nặng tâm hồn" (Xuân
Diệu).
Cuộc chia tay cảm động giữa hai cha con Phi Khanh và Nguyễn Trãi trong bối cảnh nước
mất nhà tan trong bài thơ là những khoảnh khắc đặc biệt, có sức lay động lớn đã được Trần
Tuấn Khải sử dụng để kí thác tâm trạng, cảm xúc hiện tại, thực của mình. Lời trăng trối của
người cha đối với con khi vĩnh biệt trĩu nặng ân tình, nhuốm đậm những đau thương. Tiếng
lòng sầu thảm, ai oán kia khi thì trùng điệp dồn nén, khi thì da diết xót xa. Tác giả quả là
đã không uổng công chút nào khi lựa chọn âm điệu phong phú của thể thơ song thất lục bát
để dồn tả những tiếng lòng ấy.
Có thể hình dung bố cục của văn bản trích Hai chữ nước nhà thành ba phần. Phần 1 (8 câu
thơ đầu): Diễn tả tâm trạng của người cha trong cảnh ngộ éo le, đau lòng; phần 2 (20 câu
tiếp): Phác họa tình cảnh đau thương tang tóc của đất nước; phần 3 (8 câu thơ còn lại): Xót
phận mình bất lực, người cha trao gửi cho con tâm nguyện cứu nước. Đi vào tìm hiểu từng
phần ta sẽ cảm nhận được mạch xúc cảm thống thiết, chân thành của bài thơ.
Ở 8 câu thơ đầu, tác giả gợi ra bối cảnh không gian biên ải ảm đạm, hun hút và tâm trạng
của nhân vật trữ tình. Bốn câu đầu là không gian chia li:
Chốn ải Bắc mây sầu ảm đạm,
Cõi giời nam gió thảm đìu hiu.
Bốn bề hổ thét chim kêu,
Đoái nom phong cảnh như khêu bất bình.
Trong cuộc ra đi không có ngày trở lại thì biên ải này chính là điểm mà Nguyễn Phi Khanh


vĩnh biệt tổ quốc, quê hương, vĩnh biệt người con thân yêu của mình. Tâm trạng của kẻ sắp
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

ra đi vĩnh viễn phủ lên khung cảnh vốn đã heo hút, ảm đạm một màu tang tóc, thê lương.
Tâm sầu, cảnh sầu cũ khơi gợi lẫn nhau thành một mối sầu thảm tái tê, u hoài dằng dặc.
Đoạn thơ này tạo ra không khí chung cho toàn bài, không khí thời cuộc năm xưa (thời Phi
Khanh - Nguyễn Trãi) và cũng là không khí của xã hội Việt Nam những năm 20 thế kỉ XX.
Bốn câu tiếp đầm đìa máu lệ:
Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước,
Chút thân tài lần bước dặm khơi,
Trông con tầm tã châu rơi,
Con ơi, con nhớ lấy lời cha khuyên.
Giờ phút này đây, cha sẽ ra đi mà chẳng bao giờ về nữa. Đất nước lầm than, cha con li biệt,
tình đất nước lớn lao hòa trong tình phụ tử sâu nặng Nguyễn Phi Khanh bị giải sang Tàu.
Để làm tròn đạo hiếu với cha già, Nguyễn Trãi muốn đi theo để phụng dưỡng. Nhưng Phi
Khanh gạt tình riêng, dằn lòng khuyên con trở lại để trả thù nhà, đền nợ nước. Người sắp
ra đi vĩnh viễn thường nói những lời gan ruột, những lời mà người còn sống phải khắc cốt
ghi xương.
Tấm lòng đối với đất nước của người cha thật cảm động. Ở những câu thơ tiếp theo trong
phần 2 tác giả đã hóa thân vào người trong cuộc li tan để phác ra tình cảnh đau thương của
đất nước lầm than nô lệ. Trong đó tác giả sử dụng cả tự sự và miêu tả xen lẫn những lời
cảm thán để làm nổi bật nỗi đau mất nước nhà tan, tất cả đang chìm ngập trong thảm họa
"xương rừng máu sông"; uất hận sầu đau đang ngùn ngụt ngút trời:
Thảm vong quốc kể sao xiết kể,
Trông cơ đổ nhường xé tâm can,
Ngậm ngùi đất khóc giời than,
Thương tâm nòi giống lầm than nỗi này!

Nỗi đau ở đây là một nỗi đau lớn, vượt lên nỗi đau riêng để thành nỗi đau cao cả, thiêng
liêng của cả đất nước, giống nòi. Sự lớn lao ấy được diễn tả bằng hàng loạt các hình ảnh
mang tầm vóc vĩ mô: Vong quốc, cơ đồ, đất khóc, giời than, nòi giống. Dòng xúc cảm
mãnh liệt thống thiết biểu hiện qua những từ ngữ diễn tả tình cảm ở cung bậc mạnh, bi
thiết: Kể sao kể xiết, xé tâm can, ngậm ngùi, khóc than, thương tâm. Mỗi dòng thơ là một
tiếng kêu than đứt ruột, đầy những hờn căm, bi phẫn. Chẳng đủ nước mắt để khóc than cho
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

những đớn đau đang tràn ngập giang sơn, đắng cay đành nuốt sâu trong dạ, người cha nhắn
nhủ tâm huyết lại cho con:
Cha xót phận tuổi già sức yếu,
Lỡ sa cơ đành chịu bó tay,
Thân lươn bao quản vũng lầy,
Giang sơn gánh vác sau này cậy con.
Con nên nhớ tổ tông khi trước,
Đã từng phen vì nước gian lao.
Bắc Nam bờ cõi phân mao,
Ngọn cờ độc lập máu đào còn đây...
Nói phận mình bất lực để ủy thác tất cả cho con, cha "tuổi già sức yếu", lại gặp cơn nguy
nan, đành uất hận, tủi hờn mà bó tay. Khơi gợi lại truyền thống kiên cường bất khuất của tổ
tiên, người cha muốn thắp lên trong người con tin yêu của mình ngọn lửa căm thù xâm
lăng, ngọn lửa ý chí quyết tâm khôi phục cơ đồ nước nhà và là cả niềm hi vọng lớn vào con
trước khi đi mãi. Lời trao gửi nặng tựa Thái sơn. Nước mất thì nhà cũng tan, thù nhà chỉ có
thể trả được khi thù nước đã rửa sạch. Nguyễn Phi Khanh muốn con mình biến nỗi đau mất
cha thành nỗi hận mất nước.
Mượn xưa để nói nay, mượn người để nói ta vốn là thủ pháp có từ lâu đời trong truyền
thống văn học. Trần Tuấn Khải đã rất thành công khi lựa chọn chuyện chia li giữa hai cha

con Nguyễn Phi Khanh và Nguyễn Trãi để gửi gắm tâm sự, nỗi đau mất nước nhằm khơi
gợi tinh thần yêu nước thương nòi khi non sông đang bị giày xéo bởi gót giày thực dân.
Bằng tình cảm sâu đậm, mãnh liệt, với một giọng điệu thống thiết, thán ca, tác giả của Hai
chữ nước nhà đã thực hiện bổn phận, sứ mệnh cao cả của người nghệ sĩ yêu nước. Thơ ông
thôi thúc lòng người, khích lệ mọi người tranh đấu cho giang sơn độc lập, tự do.
Bài tham khảo 2
Trong rất nhiều những sáng tác văn chương được lưu hành công khai trên văn đàn hợp
pháp ba mươi năm đầu thế kỉ XX, bài thơ: Hai chữ nước nhà nhận được sự đón chào nồng
nhiệt của công chúng độc giả. Bởi lẽ sáng tác đó đã nói hộ tấm lòng và trái tim yêu nước
của người dân Việt Nam lúc bấy giờ.
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

Là người có trái tim yêu nước sôi nổi, thiết tha, Trần Tuấn Khải xót xa tận đáy lòng trước
hiện tình đau thương của đất nước. Để giãi bày tâm sự của mình, ông hóa thân vào các
nhân vật lịch sử. Tâm trạng phẫn uất, đau thương của các nhân vật lịch sử trước cảnh nước
mất nhà tan cũng chính là tâm trạng của ông. Tình cảm ấy đã trở thành nguồn cảm hứng
chân thành và xúc động cho mạch thơ yêu nước của Trần Tuấn Khải tuôn chảy vào lòng
người.
Bài thơ Hai chữ nước nhà nằm trong tập Bút quan hoài, xuất bản lần đầu tiên vào năm
1924. Lấy đề tài lịch sử thời quân Minh xâm lược, Trần Tuấn Khải đã chọn một khoảnh
khắc lịch sử đặc biệt để câu chuyện thêm phần xúc động. Đó là giờ phút chia li vĩnh biệt
của hai nạn nhân vong quốc: Cha con ông Nguyễn Phi Khanh. Cảnh tình ấy khiến lời dặn
dò của người cha hóa thành lời trăng trối thấm đầy máu và nước mắt.
Tâm trạng phẫn uất đau thương cùng với lời trăng trối thấm máu và lệ được nhà thơ diễn tả
bằng một lời thơ lâm li, thống thiết của thể song thất lục bát nên có sức rung động và
truyền cảm mạnh mẽ.
Cuộc chia li của hai cha con diễn ra ở chốn ải Bắc, nơi tận cùng của đất nước. Người cha li

biệt gia đình, quê hương xứ sở để lê tấm thân tàn tới chốn lưu đày biệt xứ. Người con quay
trở lại quê hương đất nước mình nhưng tình cảnh cũng chua xót không kém cha: Cũng chỉ
là một nạn nhân vong quốc! Trong tâm trạng u uất của hai cha con, cảnh vật nhuốm một
màu thê lương, tang tóc:
Chốn ải Bắc mây sầu ảm đạm,
Cõi giời Nam gió thổi đìu hiu,
Bốn bề hổ thét chim kêu
Và cảnh vật thê lương tang tóc càng làm tăng thêm nỗi sầu muộn, buồn đau trong lòng
người:
Đoái nom phong cảnh như khêu bất bình.
Bốn câu song thất lục bát với những từ ngữ, hình ảnh cũ mòn, ước lệ mà lại có sức gợi cảm,
tạo được không khí đau thương của cả thời xưa và nay!
Trong không khí tang tóc đau thương của đất nước, tình cảnh của hai cha con càng éo le,
chua xót: Người con những muốn đi theo cha để làm tròn đạo hiếu, người cha phải dằn
lòng khuyên con quay trở lại để lo tính việc trả thù nhà, đền nợ nước. Tình cha con tuy thật

VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

da diết, nhưng nghĩa nước còn sâu đậm hơn nhiều! Tình nhà nghĩa nước giằng xé, khiến cả
hai cha con đều tột cùng đau đớn, xót xa:
Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước,
Chút thân tàn lần bước dặm khơi,
Trông con tầm tã châu rơi
Con ơi, con nhớ lấy lời cha khuyên
Trong bối cảnh không gian và tâm trạng như thế, lời trăng trối của người cha thật thiêng
liêng, xúc động và có sức truyền cảm mạnh mẽ, khiến người con phải khắc cốt ghi xương.
Để lời trăng trôi của mình tăng thêm sức mạnh, người cha chỉ ra cho người con tội ác tày

trời của quân giặc và hiện tình bi thảm của đất nước:
Than vận nước gặp khi biến đổi,
Để quân Minh thừa hội xâm lăng,
Bốn phương khối lửa bừng bừng
Xiết bao thảm họa xương rừng máu sông!
Nơi đô thị thành tung quách vỡ,
Chốn nhân gian bỏ vợ lìa con,
Làm cho xiêu tán hao mòn,
Lạ gì khác giống dễ còn thương đâu!
Lời thơ tràn đầy sự phẫn uất và xót đau da diết, làm xúc động tận tâm can người đọc.
Người đọc những năm 20 của thế kỉ XX cũng là những nạn nhân vong quốc, dễ dàng cảm
nhận nỗi đau của cha con ông Nguyễn Phi Khanh như chính nỗi đau của mình.
Sau khi miêu tả hiện tình đất nước và tội ác của quân giặc, người cha trực tiếp bày tỏ nỗi
lòng của mình:
Thảm vong quốc kể sao xiết kể,
Trông cơ đồ nhường xé tâm can,
Ngậm ngùi đất khóc giời than,
Thương tâm nòi giống lầm than nỗi này!
Khối Nùng Lĩnh như xây khối uất,
Sông Hồng Giang nhường uất cơn sầu,
Con ơi! Càng nói càng đau
Lấy ai té độ đàn sau đó mà?
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

Tám câu song thất lục bát cũng là tám câu cảm thán với những từ ngữ, hình ảnh đầy cảm
xúc: Kể sao kể xiết, xé tâm can, ngậm ngùi, khóc, than, thương tâm… đã có tác dụng diễn
tả sâu sắc, mạnh mẽ nỗi đau đớn, xót xa trong tâm trạng người cha.

Dường như người cha đã quên đi nỗi đau và số phận của bản thân mình, ông chỉ nghĩ đến
nỗi đau thương và số phận của cả đất nước, dân tộc. Một tấm lòng như thế, thật xiết bao
cảm phục! Từ trong đau thương, nhân vật trữ tình vụt lớn lên. Và lòng nhiệt tình yêu nước
của ông còn làm rung động cả ngàn đời sau.
Nhiệt tình ấy được kí thác vào lời trao gửi cho con, cho cả thế hệ sau:
Con ơi! Con nhớ lấy lời cha khuyên.
Câu chuyện của người cha xưa hay chính nỗi lòng của nhà thơ luôn trăn trở về đất nước?
Sự trăn trở ấy đã làm nên một giọng thơ tâm huyết đầy bi phẫn có tác dụng rung vào dây
đàn yêu nước thương nòi của mọi lòng người, (Xuân Diệu).
Bài tham khảo 3
Trần Tuấn Khải (1895 – 1983), bút hiệu Á Nam quê ở làng Quang Xán, xã Mĩ Hà, huyện
Mĩ Lộc, tỉnh Nam Định. Là một nhà Nho tiến bộ, ông thường mượn đề tài lịch sử hoặc
những biểu tượng nghệ thuật bóng gió để kín đáo bộc lộ nỗi đau mất nước, thái độ căm
giận bọn cướp nước cùng bè lũ tay sai và bày tỏ khát vọng độc lập, tự do của mình, đồng
thời động viên, khích lệ tinh thần yêu nước của đồng bào. Thơ Trần Tuấn Khải được truyền
tụng rộng rãi trong giai đoạn đầu thế kỉ XX, nổi tiếng nhất là những bài hát theo làn điệu
dân ca như Gánh nước đêm, Anh đi anh nhớ, Hai chữ nước nhà được viết dưới hình thức
thơ lục bát và song thất lục bát.
Hai chữ nước nhà là bài thơ mở đầu tập Bút quan hoài I, quyển thứ nhất, sáng tác vào năm
1924. Mượn đề tài lịch sử thời quân Minh xâm lược nước ta, Nguyễn Phi Khanh, một viên
quan tài giỏi của triều đình phong kiến đương thời bị giặc bắt đem sang Trung Quốc.
Nguyễn Trãi định đi theo để chăm sóc cha nhưng tới biên giới phía Bắc, Nguyễn Phi
Khanh đã khuyên con nên quay về để mưu tính việc trả thù nhà, đền nợ nước.
Đoạn trích trong sách giáo khoa gồm 36 câu là phần mỗ đầu của bài thơ dài 101 câu, nội
dung kể lại cuộc chia tay đầy ý nghĩa của cha con Nguyễn Trãi đã được ghi vào lịch sử
chống ngoại xâm đau thương và oanh liệt của dân tộc. Trong cảnh ngộ đau thương,
Nguyễn Phi Khanh gạt lệ khuyên con trai bao điều hữu ích. Đất nước thịnh suy là lẽ
thường tình. Làm trai phải biết nuốt hận, chờ thời cơ để trả nợ nước, báo thù nhà. Người
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí



VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

cha già lực bất tòng tâm, đành gửi trọn niềm tin vào con trai, mong con nối chí lớn của
mình, tiếp tục sự nghiệp đánh đuổi ngoại xâm, giải phóng đất nước.
Đoạn trích có thể chia làm ba phần:
Phần 1: Từ đầu… đến lời cha khuyên: Tâm trạng đau đớn của người cha trong cảnh ngộ éo
le;
Phần 2: Tiếp theo… đến sau đó mà: Hiện tình đất nước trong cảnh đau thương, tang tóc.
Phần còn lại: Sự bất lực của người cha và lời trao gửi tâm huyết dành cho con.
Tại sao tác giả lại lấy Hai chữ nước nhà làm tựa đề của bài thơ? Tựa đề đó gắn với tư
tưởng chung của bài thơ như thế nào?
Nước và nhà vốn là hai khái niệm, nhưng trong hoàn cảnh riêng của hai cha con Nguyễn
Trãi thời xưa (thế kỉ XV) và hoàn cảnh chung của đất nước ta vào những năm đầu thế kỉ
XX thì hai khái niệm đó lại có mối liên quan không thể tách rời. Nước mất thì nhà tan. Thù
nhà chỉ có thể trả được khi thù nước đã rửa. Bởi thế Nguyễn Phi Khanh muốn nhắc nhở
con là hãy lấy nước làm nhà, lấy cái nghĩa với nước thay cho chữ hiếu với cha, như thế là
vẹn cả đôi đường.
Sức truyền cảm mạnh mẽ của bài thơ toát lên từ nội dung yêu nước. Tác giả đã tái hiện khá
đầy đủ khung cảnh buổi chia li và tâm trạng đau thương, khắc khoải cua hai cha con
Nguyễn trãi. Điều đó giống như “gảy đúng vào dây đàn yêu nước thương nòi của mọi lòng
người”. (Xuân Diệu).
Có thể coi những lời khuyên của Nguyễn Phi Khanh trong bối cảnh nước mất, nhà tan là
lời trăn trối của cha với con trong giờ vĩnh biệt. Các câu cảm thán đã tạo nên âm hưởng
lâm li, thống thiết. Thể thơ song thất lục bát rất phù hợp với việc diễn tả tâm trạng nặng
trĩu buồn thương của nhân vật.
Nội dung bài thơ không chỉ đơn thuần mang tính chất hoài cổ mà nó chất chứa tâm sự phẫn
uất, đau thương của tác giả trước tình cảnh nước mất, nhà tan trong hiện tại. Vì vậy, nó làm
rung động lòng người và được truyền tụng rộng rãi, đặc biệt là trong tầng lớp trí thức,
thanh niên và học sinh yêu nước.

Đốn câu thơ đầu là khung cảnh cuộc chia li:
Chốn ải Bắc mây sầu ảm đạm,
Cõi giời Nam gió thảm đìu hiu.
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

Bốn bề hổ thét chim kêu,
Đoái nom phong cảnh như khêu bất bình.
Cuộc chia tay giữa hai cha con diễn ra ở biên ải phía Bắc vốn là nơi ảm đạm, heo hút, bốn
bề rừng núi trập trùng, mây sâu, gió thảm, hổ thốt, chim kêu… Đối với cuộc ra đi không có
ngày trở lại của Nguyễn Phi Khanh thì đây tựa điểm dừng chân cuối cùng để rồi vĩnh viễn
xa lìa Tổ quốc, quê hương và những người ruột thịt. Tấm trạng đau đớn của kẻ bị lưu đày
biệt xứ đã phủ lên cảnh vật một màu tang tóc, thê lương và ngược lại, cảnh vật ấy càng như
giục Cơn sầu trong lòng người vốn nặng tình non nước.
Tình cảm yêu nước của tác giả đã biến những hình ảnh ước lệ và từ ngữ sáo mòn trong thơ
cổ điển thành chân thực và cảm động. Dường như tác giả được trực tiếp chứng kiến cuộc
chia tay đau đớn ấy và hóa thân vào cả kẻ ở lẫn người đi để thấu hiểu, đồng cảm với tâm
trạng nhân vật, từ đó viết nên những dòng thơ máu hòa nước mắt:
Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước,
Chút thân tàn lần bước dặm khơi,
Trông con tầm tã châu rơi,
Con ơi, con nhớ lấy lời cha khuyên.
Giống Hồng Lạc hoàng thiên đã định,
Mấy ngàn năm suy thịnh đổi thay.
Giời Nam riêng một cõi này,
Anh hùng hiệp hữ xưa nay kém gì!
Hoàn cảnh của cha con Nguyễn Trãi thật éo le: cha bị giặc bắt giải sang Tàu, không mong
ngày trở lại; con muốn đi theo để phụng dưỡng cha già cho trọn đạo hiếu, nhưng cha dằn

lòng khuyên con trở lại để mưu tính việc đền nợ nước, trả thù nhà. Đối với cả hai cha con,
nghĩa nước, tình nhà đều thiêng liêng sâu đậm.
Trước cảnh nước mất, nhà tan, cha con li biệt, nỗi đau đớn xót xa trong lòng họ càng tăng
lên gấp bội.
Nguyễn Phi Khanh khuyên con những điều tâm huyết. Trước hết, ông nhắc nhở con về
dòng giống cao quý của dân tộc Việt : Giống Hồng Lạc hoàng thiên đã định. Sau đó phân
tích cho con hiểu về quy luật của lịch sử là các triều đại phong kiến ắt phải trải qua các giai
đoạn hưng thịnh và suy vong nhưng gương anh hùng, hiệp nữ cứu nước thì xưa nay không
hiếm và không kém gì những gương sáng trong lịch sử phong kiến phương Bắc. Để bảo vệ
đất nước, người phụ nữ còn làm nghĩa hiệp, huống chi các bậc nam nhi?!
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

Nguyễn Phi Khanh lấy bốn chữ Giang sơn làm trọng để giải thích cho Nguyễn Trãi – người
con mà ông yêu quý và tin tưởng nhất. Trong hoàn cảnh và tâm trạng như thế, lời khuyên
của người cha có ý nghĩa như một lời trăng trối. Nó thiêng liêng, xúc động vô cùng, khiến
người con phải khắc cốt ghi xương.
Tác giả hóa thân vào Nguyễn Phi Khanh, người bị biệt xứ lưu đày, tâm tư trĩu nặng nỗi lo
đời để miêu tả tình hình bi thảm của đất nước và lên án tội ác trời không dung đất không
tha của quân xâm lược:
Thân vận nước gặp khi biến đổi,
Để quân Minh thừa hội xâm lăng,
Bốn phương khói lửa bừng bừng,
Xiết bao thảm họa xương rừng máu sông!
Nơi đô thị thành tung quách vỡ,
Chốn nhân gian bỏ vợ lìa con,
Làm cho xiêu tán hao mòn,
Lạ gì khác giống dễ còn thương đâu!

Những câu thơ này xoáy mạnh vào nỗi nhục mất nước trong tâm can người đọc đương thời.
Giặc Pháp bây giờ nào có khác chi giặc Minh thuở ấy, cũng đang gây ra bao cảnh đau
thương tang tóc trên đất nước ta.
Xen giữa những dòng tâm tư đắng cay, chua xót là những lời cảm thán ngậm ngùi, bi
thương:
Thảm vong quốc kể sao xiết kể,
Trông cơ đồ nhường xé tâm can,
Ngậm ngùi đất khóc giời than,
Thương tâm nòi giống lầm than nỗi này!
Những động từ, tính từ có sức gợi cảm cao như : kể sao xiết kể, xé tâm can, thương tâm,
lầm than đã phản ánh mức độ bi thảm của thực trạng mất nước lúc bấy giờ. Gây xúc động
nhất là hình ảnh: Ngậm ngùi đất khóc giời than, quả là “tình cảnh cảm sầu, kể sao cho xiết”
đúng như nhận định của nhà chí sĩ Phan Bội Châu.
Tâm sự đau đớn của Nguyễn Phi Khanh được thể hiện trong bài thơ là nỗi đau lớn lao,
vượt lên số phận cá nhân, trở thành nỗi đau non nước. Mỗi lời nhắn nhủ con là một tiếng
than, tiếng nấc nghẹn ngào, cay đắng. Giọng thơ bi phẫn vốn là sở trường của Trần Tuấn
Khải rất phù hợp với việc diễn tả tâm trạng khắc khoải, buồn thương của nhần vật Nguyễn
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

Phi Khanh. Do đó bài thơ có sức lay động lòng người, nhất là đối với những tâm hồn đồng
điệu đương thời.
Trong những giây phút cuối cùng được sống bên con, Nguyễn Phi Khanh đã đặt ra cho
Nguyễn Trãi một câu hỏi lớn, cũng là nỗi niềm băn khoăn không lúc nào nguôi trong lòng
ông:
Khói Nùng Lĩnh như xây khối uất,
Sông Hồng Giang nhường vật cơn sầu,
Con ơi! Càng nói càng đau,

Lấy ai tế độ đàn sau đó mà?
Tác già mượn hình ảnh khói núi Nùng, sóng sông Nhị (sông Hồng còn gọi là Nhị Hà) biểu
tượng của kinh đô nước Đại Việt để thể hiện mức độ căm giận quân xâm lược của mình, cơ
nghiệp lớn lao vững chắc của ông cha, tổ tiên gây dựng tự bao đời, nay con cháu há lại để
rơi vào tay giặc dữ?
Nói đến tình cảnh “lực bất tòng tâm” của Nguyễn Phi Khanh, ngòi bút tác giả như đẫm
nước mắt:
Cha xót phận tuổi già sức yếu,
Lỡ sa cơ đành chịu bó tay,
Thân lươn bao quản vũng lầy,
Giang sơn gánh vác sau này cậy con.
Con nên nhớ tổ tông khi trước,
Đã từng phen vì nước gian lao.
Bắc Nam bờ cõi phân mao,
Ngọn cờ độc lập máu đào còn đây…
Tất cả những lời nói trên của Nguyễn Phi Khanh đều là lời gan ruột, tâm huyết trao lại cho
con. Gánh nặng sơn hà, xã tắc đã uỷ thác cho thế hệ sau với tất cả niềm tin tưởng và hi
vọng. Lời khuyên của cha kích thích, hun đúc chí nam nhi của con, động viên con hãy tỏ ra
xứng đáng với sự nghiệp oanh liệt của tổ tông đã bao phen vì nước.
Hai chữ nước nhà là bài thơ nổi tiếng của Á Nam Trần Tuấn Khải. Tác giả tái hiện cuộc
chia tay giữa hai cha con Nguyễn Phi Khanh và Nguyễn Trãi trong bối cảnh nước mất nhà
tan để thông qua đó bộc lộ cảm xúc của mình, đồng thời khích lệ lòng yêu nước, ý chí cứu
nước của đồng bào ta. Tình cảm sâu đậm, mãnh liệt đối với nước nhà của tác giả đã tạo nên
sức sống lâu dài cho bài thơ.
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

Nhà thơ Xuân Diệu nhận xét rất đúng: “Hai chữ nước nhà được xem là bài thơ hay nhất đã

tổng hợp các mô típ văn thơ yêu nước của Á Nam, từ giọng bi tráng đến giọng mỉa mai, từ
chất căm hờn đến lời mắng mỏ, từ sự dỗi tức nguyền rủa bọn Việt gian chết tiệt đến nỗi đau
thương ôm lấy bà mẹ giang san”.

VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí



×