Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

bai van mau lop 6 so 1 de 1 ke lai mot truyen da biet truyen thuyet co tich bang loi van cua em

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.49 KB, 12 trang )

VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

Đề bài 1: Kể lại một truyện đã biết (truyền thuyết, cổ tích) bằng lời văn của em. Kể lại
câu chuyện Con Rồng cháu Tiên.
1. Hướng dẫn tìm hiểu đề bài
- Đề yêu cầu kể nội dung gì?
- Đề yêu cầu viết theo kiểu bài gì? Văn tự sự
- Dựa vào yếu tố nào em biết đề yêu cầu viết theo kiểu tự sự?
- Thông thường dàn bài gồm mấy phần? Nhiệm vụ của từng phần?
- Mở bài cần giới thiệu điều gì?
- Thân bài cần nêu những chi tiết nào?
- Các chi tiết phải sắp xếp như thế nào?
- Kết thúc câu chyện kể như thế nào?
- Viết đoạn mở bài
- Viết đoạn Lạc Long quân và Âu Cơ gặp nhau và trở thành vợ chồng
- Viết đoạn Lạc Long Quân và Âu Cơ chia tay nhau
- Viết đoạn kết bài
2- Yêu cầu cụ thể:
1. Mở bài: - Giới thiệu nhân vật Lạc Long Quân và Âu Cơ.
2. Thân bài:
- Âu Cơ và Lạc Long Quân gặp nhau, đem lòng yêu thương và trở thành vợ chồng.
- Âu Cơ có mang, sinh ra một cái bọc trăm trứng, nở ra một trăm người con.
- Lạc Long Quân từ biệt Âu Cơ và đưa 50 con trở về biển.
- Âu Cơ đưa 50 con lên rừng.
- Người con trưởng theo Âu Cơ được tôn làm vua, lấy hiệu là Hùng Vương.
3. Kết bài:
Cũng bởi sự tích này mà về sau người Việt Nam ta thường xưng là con Rồng cháu Tiên.
Bài tham khảo 1
Các bạn có biết vì sao nhân dân ta tự xưng là con Rồng cháu Tiên hay khơng? Điều đó có
liên quan đến câu chuyện sau đây:
“Ngày xưa, ngày xửa từ lâu lắm rồi, ở vùng đất Lạc Việt, nay là Bắc Bộ nước ta có một vị


thần. Thần là con của Thần Long Nữ, tên là Lạc Long Quân. Thần mình rồng sức khỏe vô
địch, thường sống ở dưới nước. Thần giúp dân giệt trừ yêu quái như Ngư Tinh, Hồ Tinh,
Mộc Tinh… Thần cịn dạy dân cách trồng trọt, chăn ni và dạy dân cách ăn ở sao cho
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

đúng nghĩa.. Khi làm xong thần trở về Thủy cung sống với mẹ lúc có việc cần mới hiện lên.
Bấy giờ, ở vùng núi cao phương Bắc, có vị tiên xinh đẹp tuyệt trần là con gái Thần Nơng
tên là Âu Cơ. Nàng nghe nói ở vùng Lạc Việt có nhiều hoa thơm cỏ lạ bèn tìm đến thăm.
Lạc Long Quân và Âu Cơ gặp nhau đem lòng yêu nhau rồi trở thành vợ chồng chung sống
ở Long Trang. Chung sống với nhau được chừng một năm, Âu Cơ mang thai. Đến kì sinh
nở, Âu Cơ sinh ra một cái bọc trăm trứng, trăm trứng nở ra một trăm đứa con da dẻ hồng
hào. Không cần bú mớm mà vẫn lớn nhanh như thổi mặt mũi khôi ngô tuấn tú, đẹp đẽ như
thần. Cuộc sống hai vợ chồng đã hạnh phúc lại càng hạnh phúc hơn.
Một hôm, Lạc Long Qn chợt nghĩ mình là dịng giống nịi rồng sống ở vùng nước thẳm
không thể sống trên cạn mãi được. Chàng bèn từ giã vợ và và con về vùng nước thẳm. Âu
Cơ ở lại chờ mong Lạc Long Quân trở về, tháng ngày chờ đợi mỏi mòn, buồn bã. Nàng
bèn tìm ra bờ biển, cất tiếng gọi:
- Chàng ơi hãy trở về với thiếp.
Lập tức, Lạc Long Quân hiện ra. Âu cơ than thở:
- Sao chàng bỏ thiếp mà đi, không ở lại cùng thiếp nuôi dạy các con nên người?
Lạc Long Quân bèn giải thích:
- Ta vốn dĩ rất yêu nàng và các con nhưng ta là giống nịi Rồng, đứng đầu các lồi dưới
nước cịn nàng là giống tiên ở chốn non cao. Tuy âm dương khí tụ mà sinh con nhưng
khơng sao đồn tụ được vì hai giống tương khắc như nước với lửa. Nay đành phải chia lìa.
Ta đem năm mươi người con xuống biển, nàng đưa năm mươi con lên núi, chia nhau cai
quản các phương. Khi có việc cần phải giúp đỡ lẫn nhau, đừng bao giờ quên lời hẹn này.
Rồi Lạc Long Quân đưa năm mươi người con xuống nước còn Âu Cơ đưa năm mươi

người con lên núi.
Người con trai trưởng đi theo Âu Cơ sau này được tôn lên làm vua và đặt tên nước là Văn
Lang, niên hiệu là Hùng Vương. Mỗi khi vua chết truyền ngôi cho con trai trưởng. Cứ cha
truyền cho con tới mười mấy đời đều lấy niên hiệu là Hùng Vương.”
Do vậy, cứ mỗi lần nhắc đến nguồn gốc của mình Người Việt chúng ta thường tự xưng là
con Rồng cháu Tiên và thân mật gọi nhau là đồng bào vì ai cũng nghĩ mình là cùng một
bọc sinh ra cho nên người trong một nước phải thương yêu nhau như vậy. Câu chuyện cịn
suy tơn nguồn gốc cao q thiêng liêng của cộng đồng người Việt và tự hào về nguồn gốc
của dân tộc mình.

VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

Bài tham khảo 2
Thuở xưa ở vùng đất Lạc Việt có vị thần tên là Lạc Long Quân, con trai của thần Long Nữ
sống ở dưới biển Đông. Thần hình rồng, sức khỏe phi thường và có nhiều phép lạ. Thỉnh
thoảng thần lên sống trên cạn, giúp dân diệt trừ các loài yêu quái như Ngư Tinh, Hồ tinh,
Mộc Tinh. thần còn dạy dân cách trồng trọt và sinh sống. Âu cơ là một tiên nữ dòng dõi
Thần Nơng ở vùng núi cao phương Bắc. Nàng thích ngao du đây đó, những nơi có phong
cảnh đẹp. Bên trai tài, bên gái sắc, họ yêu nhau rồi kết thành vợ chồng. Ít lâu sau, Âu Cơ
sinh ra cái bọc trăm trứng, nở ra một trăm người con khôi ngô tuấn tú lạ thường. Chẳng
cồn bú mớm mà đàn con lớn nhanh như thổi, khỏe mạnh như thần. Một hôm, nhớ biển cả
và cảm thấy mình khơng thể sống lâu trên cạn được, Lạc Long Quân đành từ biệt Âu Cơ để
trở về chốn thủy cung. Âu Cơ một mình ni con. Ngày lại ngày qua, nàng sốt ruột trơng
ngóng chồng với tâm trạng buồn tủi. Cuối cùng, nàng gọi chồng lên mà than thở:
- Sao chàng nỡ bỏ thiếp mà đi, không cùng thiếp nuôi các con?! Lạc Long Qn ân cần giải
thích:
- Ta vốn nịi rồng ở miền nước thẳm, nàng là dòng tiên ở chốn non cao. Kẻ trên cạn người

dưới nước, tính tình tập qn khác nhau, khó lịng mà ăn ở cùng nhau một nơi lâu dài được.
Nay ta đưa năm mươi con xuống biển, nàng đưa năm mươi con lên núi, chia nhau cai quản
các phương. Kẻ miền núi, người miền biển, khi có việc gì khó khăn thì giúp đỡ nhau, đừng
qn lời hẹn. Âu Cơ nghe theo đưa năm mươi người con lên đất Phong Châu. Người con
trưởng được tôn làm vua, lấy hiệu là Hùng Vương, lập ra nước Văn Lang, đóng đơ ở Phong
Châu (vùng Bạc Hạc, Lâm Thao, Phú Thọ ngày nay). Triều đình có quan văn, quan võ (Lạc
tướng, Lạc hầu). Con trai của vua gọi là lang, con gái vua gọi là mị nương. Vua cha chết,
con trai trưởng nối ngôi. Mười tám đời vua kế tiếp nhau đều lấy hiệu Hùng Vương. Từ sự
tích này mà dân tộc Việt Nam thường nhắc đến nguồn gốc cao quý của mình là con Rồng
cháu Tiên. Tất cả các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam đều là anh em cùng chung một
bọc sinh ra (đồng bào). Các dân tộc đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau trong sự
nghiệp dựng nước và giữ nước.
Đề bài 2: Kể lại một truyện đã biết (truyền thuyết, cổ tích) bằng lời văn của em:
truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh
Hướng dẫn lập dàn ý
A. Mở bài

VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

Giới thiệu truyền thuyết “Sơn Tinh, Thủy Tinh”.
B. Thân bài (diễn biến sự việc)
+ Mở đầu:
- Vua Hùng Vương có con gái tên Mị Nương.
+ Thắt nút
- Vua tìm gả chồng cho con.
+ Phát triển
- Sơn Tinh, Thủy Tinh đến tranh tài.

+ Mở nút
- Sơn Tinh đến trước lấy được Mị Nương.
+ Kết thúc
- Thủy Tinh đánh Sơn Tinh.
C. Kết bài.
- Ý nghĩa câu chuyện: Hiện tượng lũ lụt.
Bài làm
“Âm... ầm...ầm”. Từng đợt sóng biển đập vào vách đá gợi cho em nhớ đến cuộc giao tranh
ác liệt giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh. Đây là một truyện rất hay mà em luôn nhớ từ thuở ấu
thơ. Câu chuyện này đã được bà ngoại em kể vào những đêm trăng sáng khi mọi người
ngồi xúm xít trước sân nhà.
Bà kể rằng vào thuở xa xưa, thời vua Hùng Vương thứ mười tám, vua có một người con
gái tên là Mị Nương sắc đẹp như tiên giáng trần. Nhà vua rất thương con nên muốn tìm gả
cho nàng một người chồng tài ba, tuấn tú
Lệnh vua vừa ban ra, các chàng trai từ khắp nơi đều đổ về cầu hơn. Trong số đó, nổi bật
nhất là hai chàng trai Sơn Tinh và Thủy Tinh. Sơn Tinh dời núi Ba Vì. Chàng vừa tuấn tú
lại vừa tài giỏi khác thường: Chỉ tay về phía đơng, phía đơng biến thành đồng lúa xanh; chỉ
tay về phía tây, phía tây mọc lên hàng dãy núi. Còn Thủy Tinh ở tận miền biển Đơng, tài
giỏi cũng khơng kém: Gọi gió, gió đến; hơ mưa, mưa về. Cả hai cùng ngang sức ngang tài
và đều xứng đáng với Mị Nương.
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

Vua Hùng rất băn khoăn khơng biết chọn ai, bỏ ai. Vua liền triệu tập các quan vào bàn bạc
nhưng cũng chẳng có ai nghĩ ra một kế gì hay. Cuối cùng, vua nghĩ ra được một cách và
cho vời hai chàng trai vào mà phán rằng:
- Ta đều vừa ý cả hai người nhưng ta chỉ có một người con gái. Vậy vào rạng sáng ngày
mai ai mang lễ vật đến trước thì ta gả con gái cho. Lễ cưới phải có đủ: một trăm ván cơm

nếp, hai trăm tệp bánh chưng voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao.
Mới sáng sớm tinh mơ, Sơn Tinh đã đem đầy đủ lễ vật đến trước. Vua Hùng giữ đúng lời
hứa liền gả Mị Nương cho Sơn Tinh và hai vợ chồng đưa nhau về núi.
Thủy Tinh mang lễ vật đến sau nên không cưới được vợ. Tức giận vô cùng, Thủy Tinh liền
đùng đùng mang quân đuổi theo quyết cướp dược Mị Nương. Khi thấy vợ chồng Sơn Tinh
lên núi, Thủy Tinh hơ mưa, gọi gió, làm thành giông bão, sấm sét rung chuyển cả đất trời,
dâng nưởc sông lên cuồn cuộn. Nước ngập lúa ngập đồng, ngập nhà, ngập cửa..
Sơn Tinh không nao núng một chút nào. Một mặt, chàng dùng phép bốc cao từng quả đồi,
dời từng dẫy núi để ngăn chặn dòng nước lũ. Nước dâng cao bao nhiêu, Sơn Tinh lại làm
cho đồi núi mọc cao lên bấy nhiêu. Mặt khác, chàng tung ra đội quân sư tử, voi, cọp báo...
để chống lại đồn qn thuồng luồng, cá, tơm, cua... của Thủy Tinh. Hai bên đánh nhau ác
liệt hết ngày này qua ngày khác ròng rã suốt mấy tháng liền. Thiệt hại người và của vô số
kể. Cuối cùng, Thủy Tinh cũng đành thua trận rút quân về biển.
Với lòng hận thù triền miên nên từ đó về sau khơng năm nào Thủy Tinh không làm mưa
bão, dâng nước lên để đánh Sơn Tinh, gây nên cảnh lụt lội, phá hoại nhà cửa, mùa màng
của nước ta. Song, lần nào cũng vậy, Thủy Tinh luôn thua trận và đành phải rút lui.
Kể xong câu chuyện, bà âu yếm xoa đầu em và nói: “Cuộc chiến giữa Sơn Tinh và Thủy
Tinh thật ác liệt phải khơng các cháu? Hình ảnh này đã giải thích hiện tượng bão lụt xảy ra
hằng năm suốt mùa mưa ở khăp vùng đồng bằng Bắc Bộ. Ngoài ra, truyện cịn nói lên ước
mơ của ngươi dân muốn chiến thắng bão lụt để bảo vệ cuộc sống lao dộng của mình. Các
cháu có hiểu khơng?”
Đề bài 3: Kể lại một truyện đã biết (truyền thuyết, cổ tích) bằng lời văn của em:
truyền thuyết “Thánh Gióng”.
Hướng dẫn lập dàn ý
A. Mở bài
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí


Giới thiệu truyền thuyết “Thánh Gióng”.
B. Thân bài (Diễn biến sự việc)
- Mở đầu
- Đời vua Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng …
- Thắt nút
- Giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi nước ta.
- Phát triển
- Nhà vua lo sợ, bèn sai sứ giả tìm người tài giỏi cứu nước.
- Đứa bé bảo: “Ông về tâu với vua sắm cho ta một con người sắt và một tấm áo giáp sắt”.
- Mở nút
- Chú bé vùng dậy, vươn vai một cái bỗng nhiên biến thành tráng sĩ.
- Kết thúc
- Tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre cạnh đường quật vào giặc. Giặc tan vỡ.
C. Kết bài
- Ý nghĩa câu chuyện: Tinh thần đoàn kết chống giặc cứu nước.
Bài làm
Kể xong câu chuyện, bà âu yếm xoa đầu em và nói: “Cuộc chiến giữa Sơn Tinh và Thủy
Tinh thật ác liệt phải khơng các cháu? Hình ảnh này đã giải thích hiện tượng bão lụt xảy ra
hằng năm suốt mùa mưa ở khăp vùng đồng bằng Bắc Bộ. Ngồi ra, truyện cịn nói lên ước
mơ của ngươi dân muốn chiến thắng bão lụt để bảo vệ cuộc sống lao Đã thành lệ, đêm nào,
trước khi di ngủ, bà nội cũng kể chuyện cổ tích cho chúng em nghe. Đêm qua, bà kể
chuyện “Thánh Gióng”. Câu chuyện thật hay. Chúng em bị cuốn hút theo từng lời kể hấp
dẫn của bà.
Bà kể rằng vào đời vua Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có hai vợ chồng ơng lão chăm
chỉ làm ăn và có tiếng là phúc đức. Hai ông bà ao uớc có một đứa con. Một hôm bà ra đồng
trông thấy một vết chân rất to, liền đặt bàn chân mình lên ướm thử để xem thua kém bao
nhiêu. Không ngờ về nhà bà thụ thai và mười hai tháng sau sinh ra một cậu bé mặt mũi rất

VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí



VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

khơi ngơ. Hai vợ chồng mừng lắm. Nhưng lạ thay! Đứa trẻ cho đến khi lên ba vẫn khơng
biết nói, biết cười, cũng chẳng biết đi, cứ đặt đâu thì nằm đấy.
Bấy giờ có giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi nước ta. Thế giặc mạnh, nhà vua lo sợ, bèn sai sứ
giả đi khắp nơi rao tìm người tài giỏi cứu nước. Đứa bé nghe tiếng rao, bỗng dưng cất tiếng
nói: “Mẹ ra mời sứ giả vào đây”. Sứ giả vào, đứa bé bảo: “Ông về tâu với vua sắm cho ta
một con ngựa sắt và một tấm áo giáp sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này”. Sứ giả vừa kinh ngạc,
vừa mừng rỡ, vội vàng về tâu vua. Nhà vua truyền cho thợ ngày đêm làm gấp những vật
chú bé dặn.
Càng lạ hơn nữa, từ sau hôm gặp sứ giả, chú bé lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cũng
không no, áo vừa mặc xong dã căng đứt chỉ. Hai vợ chồng làm ra bao nhiêu cũng không đủ
nuôi con, đành phải chạy nhờ bà con, làng xóm. Bà con đều vui lịng gom góp ni chú bé
vì ai cũng mong giết giặc, cứu nước.
Giặc đã đến chân núi Trâu. Thế nưởc rất nguy, người người hoảng hốt. Vừa lúc đó, sứ giả
dem ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt đến. Chú bé vùng dậy, vươn vai một cái bỗng biến thành
tráng sĩ mình cao hơn trượng, oai phong, lẫm liệt. Tráng sĩ bước lên vỗ vào mơng ngựa.
Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội. Tráng sĩ mặc ấo giáp, cầm roi, nhảy lên mình ngựa. Ngựa
phun lửa, tráng sĩ thúc ngựa phi thẳng đến nơi có giặc, đón đầu chúng đánh giết hết lớp này
đến lớp khác, giặc chết như rạ. Bỗng roi sắt gãy. Tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre cạnh
đường quật vào giặc. Giặc tan vỡ. Đám tàn quân giẫm đạp lên nhau chạy trốn, tráng sĩ đuổi
đến chân núi Sóc (Sóc Sơn). Đến đấy, một mình một ngựa, tráng sĩ lên đỉnh núi, cởi giáp
sắt bỏ lại rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời.
Vua nhớ công ơn phong là Phù Đổng Thiên Vương và lập đền thờ ngay ở quê nhà.
Hiện nay vẫn còn đền thờ ở làng Phù Đổng, tục gọi là làng Gióng. Mỗi năm đến tháng tư,
làng mở hội to lắm. Người ta kể rằng, những bụi tre đằng ngà ở huyện Gia Bình vì ngựa
phun lửa bị cháy mới ngả màu vàng óng như thế, còn những vết chân ngựa nay thành
những ao hồ liên tiếp. Người ta cịn nói khi ngựa thét ra lửa, lửa đã thiêu cháy một làng,
cho nên làng đó về sau gọi là làng Cháy.

Câu chuyện Thánh Gióng để lại cho em một ấn tượng sâu sắc. Nó nói lên truyền thống oai
hùng đồn kết chống giặc cứu nước của ông cha ta và thể hiện ước mơ của nhân dân: muốn
có đủ sức mạnh vật chất và tinh thần để chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược.

VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

Đề bài 4: Kể lại một truyện đã biết (truyền thuyết, cổ tích) bằng lời văn của em:
truyện cổ tích “Thạch Sanh”.
Hướng dẫn làm bài
A. Mở bài
- Giới thiệu truyện cổ tích “Thạch Sanh”.
B. Thân bài (diễn biến sự việc)
- Mở đầu
- Ngọc Hoàng sai Thái tử xuống đầu thai làm con.
- Thắt nút
- Lý thông gạ cùng Thạch Sanh kết nghĩa anh em để lợi dụng.
- Phát triển
- Thạch Sanh dùng búa chém chết chằn tinh. Lý Thông cướp công.
- Thạch Sanh dùng tên bắn bị thương đại bàng, cứu công chúa.
- Mở nút
- Khi nghe tiếng đàn văng ra từ trong ngục, công chúa bỗng cười nói vui vẻ. Vua tìm ra sự
thật, kết tội Lý Thông.
- Kết thúc
- Nhà vua gả công chúa cho Thạch Sanh. Chư hầu đến cầu hôn không được, kéo sang
đánh …
C. Kết bài.
- Ý nghĩa câu chuyện: “Ở hiền gặp lành” và “ác giả ác báo”.

Bài làm
“Thạch Sanh” là một truyện rất hay mà em luôn nhớ đến bây giờ. Câu chuyện này đã dược
cô giáo em kể thật hấp dẫn vào cuối tiết học như sau đấy.
Ngày xưa, có hai vợ chồng tuổi già mà chưa có con. Thấy họ tốt bụng, hay giúp mọi người,
Ngọc Hoàng bèn sai Thái tử xuống dầu thai làm con. Từ dó, người vự có mang nhưng đã

VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

qua mấy năm mà khơng sinh nở. Rồi người chồng lâm bệnh mà mất. Mãi về sau người vợ
mới sinh được một cậu con trai.
Khi cậu bé vừa khơn lớn thì mẹ chết. Cậu sống lủi thủi trong túp lều cũ dựng dưới gốc da,
cả gia tài chỉ có một lưỡi búa của cha dể lại. Người ta gọi cậu là Thạch Sanh.
Một hơm, có người hàng rượu tên là Lý Thông. Lý Thông gạ cùng Thạch Sanh kết nghĩa
anh em để lơi dụng. Thạch Sanh vui vẻ nhận lời và đến sống chung với mẹ con Lý Thơng.
Bấy giờ trong vùng có con chằn tinh có nhiều phép lạ thường ăn thịt người. Quan qn
khơng làm gì được, dân làng hàng năm phải nộp một người cho chằn tinh.
Năm ấy, đển lượt Lý Thơng nộp mình. Mẹ con hắn nghĩ kế lừa Thạch Sanh đi canh miếu
dể chết thay. Thạch Sanh thật thà, nhận lời đi ngay. Nửa đêm, chằn tinh hiện ra. Thạch
Sanh dùng búa chém chêt chằn tinh. Chàng chặt đầu chằn tinh và lấy được một bộ cung tên
bằng vàng mang về nhà. Mẹ con Lý Thông lúc đầu hoảng sợ vô cùng, nhưng sau đó Lý
Thơng nảy ra một kế dụ Thạch Sanh trơn đi vì dã chém chết con trăn của vua nuôi đã lâu.
Thạch Sanh lại thật thà tin ngay. Chàng từ giã mẹ con Lý Thông, trở về dưới gôc đa. Cịn
Lý Thơng hí hửng đem đầu con u qi vào kinh dô nộp cho vua. Hắn được vua khen và
phong cho làm Quận công.
Năm ấy, vua mở hội lớn dể chọn chồng cho công chúa nhưng không may nàng bị con dại
bàng khổng lồ quắp đi. Đại bàng bay qua túp lều của Thạch Sanh và bị chàng dùng tên
vàng bắn bị thương. Thạch Sanh lần theo dấu máu, tìm được chỗ ở của đại bàng.

Từ ngày cơng chúa bị mất tích, vua vơ cùng dau khổ, hứa gả cơng chúa và truyền ngơi cho
ai tìm được cơng chúa. Lý Thơng tìm gặp lại Thạch Sanh và được chàng cho biết chỗ ơ của
đại bàng. Thạch Sanh xuống hang để cứu công chúa. Chàng giết chết con quái vật rồi lấy
dây buộc vào người công chúa, ra hiệu cho Lý Thơng kéo lên. Khơng ngờ, sau đó Lý
Thơng ra lệnh cho quân sĩ dùng dá lấp kín cửa hang lại. Thạch Sanh tìm lối ra và tình cờ
cứu dược con trai vua Thủy Tề. Chàng được vua Thủy Tề tặng cho cây đàn.
Hồn chằn tinh và đại bàng gặp nhau tìm cách báo thù. Chúng ăn trộm của cải trong kho
nhà vua, đem tới giấu ở gốc đa để vu vạ cho chàng. Thạch Sanh bị bắt hạ ngục.
Lại nói chuyện nàng cơng chúa từ khi về cung, trở nên buồn rầu, chẳng nói chẳng cười.
Bao nhiêu thầy thuốc giỏi cũng không chữa được. Một hôm, khi nghe tiếng đàn vẳng ra từ
trong ngục, cơng chúa bỗng cười nói vui vẻ. Nhà vua lấy làm lạ, gọi Thạch Sanh đên.
Chàng kể hết sự tình. Vua sai bắt hai mẹ con Lý Thông giao cho Thạch Sanh xét xử.
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

Chàng khơng giết mà cho chúng về q làm ăn. Giữa đường, chúng bị sét đánh chết, hóa
kiếp thành bọ hung.
Nhà vua gả công chúa cho Thạch Sanh. Hồng tử các nước chư hầu đến cầu hơn khơng
được, liền tức giận họp binh lính cả mười tám nước kéo sang đánh. Thạch Sanh lấy cây dàn
ra gảy. Binh lính mười tám nước bủn rủn tay chân, khơng đánh nhau được nữa, các hoàng
tử phải cởi giáp xin hàng. Thạch Sanh thết đãi những kẻ thua trận bằng một niêu cơm tí xíu.
Quân sĩ mười tám nước ăn mãi mà không hết. Bọn chúng bái phục và kéo nhau về nước.
Về sau, vua nhường ngôi cho Thạch Sanh.
Càng nghe câu chuyện, em càng u q tính tình hiền lành, tốt bụng của Thạch Sanh và
càng căm ghét những kẻ vong ân bội nghĩa như mẹ con Lý Thông. Em tự hứa với lòng là
sẽ noi theo tấm gương tốt dể trd thành người có ích cho xã hội vì em hiểu đươc ý nghĩa sâu
xa của truyện cơ tích này là ở hiên sầv lành” và “ác giả ác báo”.
Đề bài 5: Kể lại một truyện đã biết (truyền thuyết, cổ tích) bằng lời văn của em:

truyện cổ tích “Cây tre trăm đốt”.
Hướng dẫn lập dàn ý
1. Mở bài
- Giới thiệu câu chuyện
2. Thân bài
- Mở đầu
+ Giới thiệu anh trai cày hiền lành và ỉão nhà giàu tham lam, lừa lọc.
- Thắt nút:
+ Lão lừa dối “sẽ gả con gái” cho anh.
- Phát triển
+ Anh quần quật làm giàu cho lão suốt ba năm.
+ Lão nhà giàu gả con gái với diều kiện anh phải đi tìm được cây tre trăm dốt
+ Anh trai cày khơng tìm được nhưng nhờ có Bụt ra tay giúp đỡ, anh đã thành công và
mừng rỡ gánh về.

VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

- Mở nút Khi thấy hai họ ăn uống linh đình và sửa soạn đón dâu, anh mới hiểu âm mưu
thâm độc của lão nhà giàu và anh ra tay trừng phạt.
- Kết thúc Lão nhà giàu phải gả con gái cho anh trai cày. Hai vợ chồng sông với nhau hạnh
phúc.
3. Kết bài
- Nêu cảm nghĩ
- Rút ra bài học
Bài làm
Đã thành lệ, đêm nào, trước khi đi ngủ, bà nội cũng kể chuyện cổ tích cho chúng em nghe.
Đêm qua, bà kể chuyện “Cây tre trăm đốt”. Câu chuyện thật hay. Chúng em bị cuốn hút

theo từng lời kể hấp dẫn của bà...
Ngày xưa có một anh chàng cày hiền lành, khoẻ mạnh, đi ở cho một lão nhà giàu. Anh rất
chăm chỉ lại thạo việc đồng áng nên lão nhà giàu muôn anh làm lợi thật nhiều cho lão. Một
hôm, lão gọi anh đến và ngon ngọt dỗ dành:
- Con chịu khó thức khuya dậy sớm làm lụng giúp ta, chớ quản nhọc nhằn. Ba năm nữa, ta
sẽ gả con gái cho.
Anh trai cày tưởng lão nói thật, cứ thể quần quật I làm giàu cho lão. Ba năm sau, nhờ công
sức anh, lão chủ có thêm nhà ngói, sân gạch, tậu thêm được ruộng, được vườn. Tuy nhiên,
lão nhà giàu chẳng giữ lời hứa năm xưa. Lão đã ngấm ngầm nhận lời gả con gái cho con
trai một nhà giàu khác trong vùng. Một hôm, lão làm ra vẻ thân mật bảo anh trai cày:
- Con thật có cơng với gia đình ta. Con đã chịu khó ba năm, trồng cây sắp đến ngày ăn quả.
Cơ ngơi nhà ta chỉ còn thiếu cây tre trăm dốt, con gắng lên rừng tìm cho được đem về, ta sẽ
gả con gái cho.
Anh trai cày mừng rỡ xách dao lên rừng. Anh không biết ở nhà hai lão nhà giàu đã sắp sẵn
cỗ bàn để làm lễ cưới con trai, con gái chúng. Hai lão hí hửng bảo nhau: “Cái thằng ngốc
ấy có đi quanh năm suốt tháng cũng đố mà kiếm được cây tre đủ trăm đốt! Thế nào rồi
cũng bị rắn cắn, hổ vồ!”
Về phần anh trai cày, anh hì hụi trèo đèo lội si, luồn hết bụi này bờ khác tìm kiếm mà
chỉ thấy những cây tre thấp bé bình thường, cây cao nhất cũng chưa được năm chục đốt.
Anh buồn quá, ngồi bưng mặt khóc. Nghe tiếng khóc, Bụt hiện lên hỏi:
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

- Làm sao con khóc?
Anh trai cày thưa rõ dầu di câu chuyện. Bụt cười và bảo:
- Khó gì việc ấy! Con hãy chặt đủ một trăm đốt tre, đem xếp nối với nhau rồi hô: “Khắc
nhập, khắc nhập” thì sẽ có ngay cây tre trăm đốt.
Nói xong, Bụt biến mất. Anh trai cày làm đúng lời Bụt bảo, quả nhiên cả trăm dốt tre dính

liền nối nhau thành một cây tre dủ trăm dốt. Anh sung sướng nâng lên vai vác về. Song, tre
dài quá, vướng bờ vướng bụi, không sao đưa ra khỏi rừng được. Anh lại ngồi xuống khóc,
Bụt lại hiện lên hỏi:
- Cây tre trăm đốt có rồi, sao con cịn khóc?
Anh nói tre dài quá không vác về nhà được, Bụt liền bảo:
- Con hãy hô: “Khắc xuất, khắc xuất”, những đốt tre ấy sẽ rời ra!
Anh làm theo lời Bụt, quả nhiên cây tre rời ra trăm đốt, anh kiếm dây rừng buộc làm hai bó,
mừng rỡ gánh về.
Lúc anh về tới nơi, thấy hai họ ăn uống linh đình và sửa soạn đón dâu, anh mới biết rõ là
lão nhà giàu đã lừa anh và đã lén lút đem con gái gả cho người khác. Anh giận lắm nhưng
khơng nói năng gì, lẳng lặng xếp trăm đốt tre nối nhau và hô: “Khắc nhập, khắc nhập”.
Một cây tre đúng trăm đốt tươi xanh óng ả hiện ra trước mắt mọi người. Lão chủ thấy lạ,
chạy lại gần xem. Anh đọc luôn: “Khắc nhập, khắc nhập”. Lão ta dính liền ngay vào cây
tre, không tài nào rứt ra được. Lão thông gia thấy vậy chạy lại định gỡ cho nhà chủ. Anh
đợi cho hăn tới gần, rồi lại đọc: “Khắc nhập, khắc nhập”. Thế là lão ta cũng dính chặt ln
vào cây tre. Hai lão nhà giàu kêu khóc thảm thiết, van lạy anh trai cày xin anh gỡ ra cho và
hứa trước hai họ sẽ gả con gái cho anh ngay hơm đó. Lúc bấy giờ, anh mới khoan thai đọc:
“Khắc xuất, khắc xuất”. Tức thì cả hai lão kia rời khỏi cây tre và cây tre cũng chia thành
trăm đốt. Anh trai cày làm lễ cưới cô gái và hai vợ chồng sống với nhau hạnh phúc suốt
đời.
Khi nghe xong chuyện “Cây tre trăm đốt”, các bạn nhỏ ngồi quanh bà đều la lên: “Đáng
đời cho bọn gian tham, quỷ quyệt!”. Mấy lời đó dã làm em ngẫm nghĩ: Tụi nó nhỏ mà cũng
biết suy xét phải trái. Ở đời, những kẻ tham lam thường chuốc hại cho mình, cịn những
người hiền lành, chăm chỉ như anh trai cày sẽ dược mọi người yêu quý và đạt được kêt quả
tốt đẹp.
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí




×