soan-‐van-‐lop-‐9/index.jsp
Copyright
©
vietjack.com
Soạn bài: Tỏ lòng (Thuật hoài)
Phạm Ngũ Lão
Hướng dẫn soạn bài: Tỏ lòng (Thuật
hoài)
Câu 1: Chỉ ra điểm khác nhau giữa câu thơ đầu trong nguyên tác
chữ Hán (qua phần dịch nghĩa) với câu thơ dịch. Có gì đáng lưu ý
về không gian, thời gian trong đó con người xuất hiện? Con người ở
đây mang tư thế, dáng vóc như thế nào?
Hai chữ "múa giáo" chưa thể hiện được âm hưởng hào hùng của
hai từ "hoành sóc" trong câu thơ nguyên tác "Hoành sóc giang sơn
kháp kỉ thu" (có bản là "cáp kỉ thu"). "Hoành sóc" là tư thế cầm ngang
ngọn giáo của con người trấn giữ đất nước. Con người xuất hiện với
tư thế hiên ngang, lẫm liệt, mang tầm vóc của vũ trụ. Chính không
gian rộng lớn (giang sơn) và thời gian trải dài dường như vô tận
(kháp kỉ thu) đã làm cho hình ảnh con người trở nên kì vĩ, hào hùng
lạ thường. Ngọn trường giáo dường như được đo bằng chiều dài của
sông núi. Cầm ngang ngọn giáo là tư thế con người luôn luôn sẵn
sàng chiến đấu, so với phần dịch "múa giáo" thì hình ảnh đó mạnh
mẽ, hào hùng hơn nhiều.
Câu 2:
Câu thơ "Tam quân tì hổ khí thôn ngưu" có hai cách hiểu: Thứ
nhất, ta có thể hiểu là "ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu". Nhưng cũng
có thể giải thích theo cách khác, với cách hiểu là: Ba quân hùng
mạnh khí thế át sao Ngưu. Có thể nói quân đội nhà Trần mạnh cả về
trí và lực, không những nó có được đầy đủ binh hùng tướng mạnh
mà còn có những vị đại tướng quân trí dũng song toàn (như: Trần
Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão, Trần Nhật Duật…). Vì
thế thật không quá khoa trương khi nói: cái khí thế ấy đúng là đủ sức
làm đổi thay trời đất.
Câu 3: "Nợ" công danh mà tác giả nói tới trong bài thơ có thể hiểu
theo nghĩa nào dưới dây?
• Thể hiện chí làm trai theo tinh thần Nho giáo: lập công (để lại sự
nghiệp), lập danh (để lại tiếng thơm).
Trang
chia
sẻ
các
bài
học
online
miễn
phí
soan-‐van-‐lop-‐9/index.jsp
Copyright
©
vietjack.com
• Chưa hoàn thành nghĩa vụ đối với dân, với nước.
• Cả hai nghĩa trên.
Nam nhi thời phong kiến coi việc lập công (để lại sự nghiệp) và lập
danh (để lại tiếng thơm) là nhiệm vụ quan trọng của cuộc đời. Đây là
chí làm trai theo quan niệm Nho giáo. Lập công danh là món nợ của
kẻ làm trai. Chừng nào chưa lập được công danh, chưa tạo được
tiếng thơm là chưa hoàn thành nghĩa vụ đối với dân, với nước. Đặt
trong xã hội phong kiên thời loạn, đất nước luôn bị họa ngoại xâm,
chí làm trai có tác dụng mãnh mẽ, cổ vũ con người từ bỏ lối sống cá
nhân, ích kỉ để sẵn sàng hi sinh cho sự nghiệp "bình quốc an dân",
do đó nó mang giá trị tích cực.
Câu 4
Trong câu thơ cuối, nỗi "thẹn" đã thể hiện vẻ đẹp nhân cách của
người anh hùng. Phạm Ngũ Lão "thẹn" vì chưa có được tài năng
mưu lược như Vũ Hầu Gia Cát Lượng (Khổng Minh - đời Hán) để
giúp dân cứu nước, thẹn vì trí và lực của mình thì có hạn mà nhiệm
vụ khôi phục giang sơn, đất nước còn quá bộn bề. Nỗi thẹn của
Phạm Ngũ Lão cũng là những day dứt của Nguyễn Trãi hay của
Nguyễn Khuyến sau này. Đó là những nỗi thẹn có giá trị nhân cách nỗi thẹn của những con người có trách nhiệm với đất nước, non
sông.
Câu 5:
Bài thơ ca ngợi vẻ đẹp của con người thời đại nhà Trần. Hình ảnh
con người được đặt ngang tầm vóc của vũ trũ, mang vẻ lẫm liệt, hào
hùng. Họ là những con người sống hết kích thước cuộc sống, luôn
hết mình vì dân, vì nước. Mỗi cá nhân đều ý thức tạo nên sức mạnh
tập thể, hết mình cống hiến. Chính vì vậy đã tạo nên sức mạnh của
thời đại, tạo nên một nhà Trần "bách chiến bách thắng" và hào khí
Đông A mà sử sách mãi lưu danh.
Thế hệ trẻ hôm nay học được ở bài thơ cách sống và cách cống
hiến của người đời xưa. Con người đời xưa sống hết kích thước
cuộc sống cho dân cho nước. Nam nhi thời xưa luôn canh cánh trong
lòng ước mơ cống hiến để đem lại cuộc sống an vui, thái bình cho
nhân dân. Lí tưởng sống cao đẹp của họ là điều mà thế hệ trẻ hôm
nay nên vươn tới.
Trang
chia
sẻ
các
bài
học
online
miễn
phí