Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu nông sản sang thị trường EU từ nay đến năm 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (468.66 KB, 62 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Với xu thế toàn cầu hoá hiên nay, chuyển từ đối đầu sang đối thoại
thì thương mại quốc tế đóng một vai trò to lớn trong sự nghiệp phát triển
kinh tế của mỗi quốc gia trên thế giới trong đó hoạt động xuất khẩu đóng
vai trò quan trọng trong hoạt động thương mại. Với một nước mà ngành
nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn trong GDP như Việt Nam thì xuất khẩu
nông sản là một hướng đi đúng đắn. Nhận biết được điểm mạnh này, ngành
nông nghiệp nước ta đã nỗ lực hết sức để chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật
nuôi sao cho phù hợp với nhu cầu của thế giới về mặt hàng nông sản.
Việt Nam đang trong thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước
việc xuất khẩu các mặt hàng chủ lực nói chung và nông sản nói chung để
phục vụ cho mục tiêu lớn đó. EU là một thị trương lớn và đầy tiềm năng
cho mặt hàng nông sản của Việt Nam, nhu cầu tiêu thụ nông sản của EU rất
lớn. Nắm bắt được điều này những thuận lợi này Việt Nam đã đẩy mạnh
đầu tư xuất khẩu mặt hàng nông sản sang thị trường EU. Tuy nhiên chúng
ta cũng gặp không ít khó khăn trong việc xuất khẩu nông sản sang thị
trường EU. Vì vậy, để hoạt động xuất khẩu nông sản sang thị trường EU có
hiệu quả và khuyến khích các chủ thể kinh tế đẩy mạnh xuất khẩu sang thị
trường này cần có một phương hướng xuất khẩu nông sản sang thị trường
EU.
Phương hướng xuất khẩu nông sản sẽ quyết định hướng cho việc dự
đoán cơ hội và nguy cơ có thể xảy ra nhằm cung cấp thông tin hữu ích cho
chu thể xuất khẩu.
Với những lý do trên và kết hợp với nhưng gì đã được học em đã lựa
chọn đề tài “Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu nông sản sang thị
trường EU từ nay đến năm 2010 ”
1
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA XUẤT NHẬP KHẨU
HÀNG HOÁ
I. Khái niệm và vai trò của xuất nhập khẩu.
1. Khái niệm


Kinh tế đối ngoại là một lĩnh vực phong phú và đa dạng của nền kinh
tế quốc dân, thể hiện phần tham gia của nền kinh tế cảu mỗi quốc gia vào
sự phân công lao động quốc tế, sự trao đổi mậu dịch quốc tế. Lĩnh vực kinh
tế đối ngoại được hình thành trên cơ sở sự phát triển của các mối quan hệ
kinh tế đối ngoại. Các mối quan hệ kinh tế đối ngoại là một bộ phận của
các mối quan hệ kinh tế quốc tế với chủ thể là một quốc gia nhất dịnh trong
mối quan hệ với các quốc gia còn lại khác và các tổ chức kinh tế quốc tế.
Văn kiện hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành trung ương Đảng cộng
sản Việt Nam khoá 7 đã chỉ rõ : ” mở rông kinh tế đối ngoại phải nhằm
chiến lược phát triển kinh tế, từng bước đổi mới cơ cấu sản xuất, đẩy mạnh
công nghiệp hoá, tạo điều kiện cho nền kinh tế nước ta phát triển mạnh ”.
Kinh tế đối ngoại có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của mỗi
quốc gia.
Không có một quốc gia nào trên thế giới có thể có thể tồn tại riêng
biệt mà không hề ảnh hưởng đến quốc gia khác đặc biệt trên lĩnh vực kinh
tế. Bởi vậy hình thành nên các quan hệ buôn bán tiền tệ hàng hoá giữa các
nước vì vậy quan hệ giữa các nước trong lĩnh vực kinh tế mang tính khách
quan. Mỗi một quốc gia có một vị trí địa lý khác nhau, có những yếu tố khó
khăn và thuận lợi riêng và mỗi khu vực có sự phát triển về kinh tế là khác
nhau.Vì vậy dẫn đến trao đổi hàng hoá đề thoả mãn nhu cầu của nhau tùy
thuộc vào điểm mạnh của từng quốc gia.
Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam việc mở rộng quan
hệ kinh tế ra bên ngoài có lợi trong việc tiếp nhận kỹ thuật mới, tiên tiến
làm cho năng suất lao động tăng. Việc mở rộng quan hệ quốc tế giúp cho
tập trung phát triển thế mạnh của đất nước.
2
Vì vậy, việc mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế có ý nghĩa thực sự
quan trọng đối với mọi quốc gia đặc biệt là nước ta nơi nền kinh tế còn
chậm phát triển. Đảng và nhà nước ta đã đề ra biện pháp nhằm “ mở cửa
kinh tế “đưa nền kinh tế Việt Nam tham gia mạnh mẽ vào phân công lao

động quốc tế và thương mại quốc tế.
Kinh tế đối ngoại là một bộ phận cực kỳ quan trọng đối với nền kinh
tế quốc dân của mỗi quốc gia và hoạt động xuất nhập khẩu là xương sống
vì nó là yếu tố chủ động nhất trong các lĩnh vực kinh tế đối ngoại, XNK
chịu tác động trức tiếp và sâu sắc nhất của các qui luật của thị trường quốc
tế, nó có thể vượt qua trợ ngại phi kinh tế khác ( cấm vận, chính sách
phong toả…)
Hoạt động XNK có tác động mạnh mẽ và trực tiếp đến hoạt động
đầu tư thể hiện ở chỗ : XNK là tiền đề và nơi thể hiện kết quả đạt được của
hoạt động đầu tư. Hoạt động XNK có tác động rộng lớn, sâu sắc đến khoa
học công nghệ, thể hiện thông qua sự chuyên môn hoá và hợp tác của các
công ty ở những nước khác nhau và ngược lại nhờ hoạt động XNK mà quá
trình chuyên môn hoá và hợp tác hoá được phát triển một cách thuận lợi.
XNK thường xuyên mang lại hiệu quả tích cực cho sự phát triển kinh
tế quốc dân nếu việc tổ chức XNK phù hợp với đòi hỏi của các quy luật
khách quan dựa trên cơ sở lợi thế tương đối và tuyệt đối của các yếu tố cấu
thành sản phẩm có liên quan đến XNK.
Đối với nước ta, XNK nói riêng và kinh tế đối ngoại nói chung sẽ
góp phần to lớn trong việc tạo vốn và công nghệ tiên tiến từ nước ngoài,
tạo điều kiện tốt để ta đổi mới cơ cấu sản xuất trong nước thúc dẩy nâng
cao hiệu quả kinh tế xã hội của đất nước.
2.Mối quan hệ giữa xuất khẩu và nhập khẩu.
Xuất khẩu và nhập khẩu là hai bộ phận cấu thành của ngoại thương,
chúng liên quan một mật thiết đến nhau và thúc đẩy nhau, chúng vừa là tiền
đề vừa là kết quả của nhau.
3
Xuất khẩu và nhập khẩu là hai hoạt động cần thiết của bất kỳ một
nền kinh tế nào xây dựng theo mô hình kinh tế mở vì nó tác động đến cả
tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế quốc dân một cách hài hoà.
Kết hợp giữa xuất khẩu và nhập khẩu để xây dựng, phát triển tạo ra

thêm nhiều nguồn hàng xuất khẩu.
Lấy hoạt động xuất khẩu bù lỗ cho hoạt động nhập khẩu và ngược lại
lấy hoạt động nhập khẩu bù lỗ cho hoạt động xuất khẩu.
3.Sự cần thiết phải mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả của hoạt động XNK
* Vào những năm của thập niên 60 có rất nhiều quốc gia đã sử dụng chính
sách “đóng cửa “để áp dụng vào nước mình. Chính sách “đóng cửa có
những đặc trưng sau :
- Tuy tốc độ phát triển có chậm nhưng vững chắc và ổn định.
- Sự hoạt động của nền kinh tế ít chịu ảnh hưởng của nền kinh tế thế
giới
- Mọi tiềm lực của đất nước không cần phải cần được khai thác và
huy động một cách cao độ.
- Sự độc lập tương đối về kinh tế cho phép các nước thi hành chính
sách “đóng cửa kinh tế “ thực hiện quyền tự quyết định về chính trị.
* Nguyên nhân thất bại của chiến lược”đóng cửa “ :
- Không khai thách được ”lợi thế so sánh “ vì không mở cửa trao
đổi hàng hoá với nước khác.
- Các nước đang phát triển và chậm phát triển vốn là các nước
nghèo nên trình độ sản xuất, phát triển của lực lượng sản xuất còn thấp, nên
khi chính sách “đóng cửa “ hạn chế khả năng tiếp thu khoa học công nghệ,
kỹ thuật mới áp dụng.
- Để có thể nhập khẩu những tư liệu sản xuất phải có một nguồn vốn
lớn để thoả mãn nhu cầu nhập khẩu, mà các nước chậm và đang phát triển
không có khối lượng về tiền lớn như vậy nên phải dựa vào nguồn vốn từ
nước ngoài.
4
- Một phần lớn các nước thị trường nội địa quá chật hẹp và nhỏ bé
không dủ khả năng cho sự phát triển một nền công nghiệp hiện đại với qui
mô lớn nên khả năng thu hút lao động kém dẫn đến nạn thất nghiệp tăng.
- Việc nhập vật tư từ ngoài vào là chủ yếu để thoả mãn nhu cầu sử

dụng trong nước khiến sản xuất đắt đỏ, kém hiệu quả và tạo ra hiều quả
làm ngược lại so với mục đích tiết kiệm ngoại tệ.
Vì những nguyên nhân trên đây mà chính sách “đóng cửa “được thay
bằng chính sách “ mở cửa “ kinh tế.
Nhờ đẩy nhanh xuất khẩu mà tăng thu nhập ngoại tệ
. Tăng khả năng nhập khẩu máy móc trang thiết bị và công nghệ tiên tiến.
. Cải thiện tình hình mất cân đối về thu chi của ngân sách nhà nước.
. Tăng khả năng thu hút lao động.
. Chất lượng hàng hoá tăng.
. Tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế, có lợi thế của một
đất nước.
* Những hạn chế của chính sách “ mở cửa “.
- Lệ thuộc vào nước khác về kinh tế.
- Tập trung chiến lược “ hướng về xuất khẩu” làm cho nền kinh tế
phát triển lệch mất cân đối.
- Ưu tiên ngoại thương cùng sự phát triển mạnh mẽ của cơ chế thị
trường làm xảy ra sự bất bình đẳng giữa các tầng lớp dân cư.
Đối với các nước phát triển thì mở rộng quan hệ kinh tế ra ngoài
giúp cho việc bành trướng sức mạnh kinh tế của mình như tìm hiểu thị
trường để tiêu thụ sản phẩm, xuất khẩu hàng hoá và đầu tư đem lại hiệu quả
cao cũng như có lợi nhuận cao, giảm được chi phí về nhân công, tài nguyên
rẻ của các nước đang phát triển.
Nhìn chung tốc độ XNK của thế giới gia tăng nhanh tốc độ tăng của
GDP. Những nước có tốc độ thương mại cao là do tăng cường chính sách
hướng ngoại đẩy mạnh xuất khẩu, thu hút vốn dầu tư nước ngoài.
5
Một số nước gặp khó khăn trong buôn bán quốc tế là do một mặt ảnh
hưởng của sự suy thoái kinh tế chung trên toàn cầu, mặt khác bản thân các
nước này gặp khủng hoảng về kinh tế, chính trị, nội chiến, tôn giáo.
II. Đặc điểm của xuất khẩu hàng nông sản.

1. Một số lý luận về xuất khẩu nông sản.
Trong quá trình đổi mới, hội nhập kinh tế, hàng nông sản Việt Nam
đã có mặt trên nhiều nước và đã góp phần thu ngoại tệ để phát triển đất
nước. Lợi thế phát triển hàng hóa nông sản xuất khẩu của ta có nhiều
nhưng cũng không ít khí khăn, bất lợi - mà điều bất lợi đó chúng ta có thể
khắc phục được nếu như chúng ta có biện pháp thích hợp và kiên quyết.
Trong bối cảnh mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, hoạt động xuất
nhập khẩu của các nước là thước đo đánh giá kết quả của quá trình hội
nhập quốc tế và phát triển trong mối quan hệ tùy thuộc vào nhau giữa các
quốc gia. Sự độc lập phát triển của mỗi quốc gia là sự phụ thuộc của quốc
gia đó vào thế giới phải cân bằng với sự phụ thuộc của thế giới vào quốc
gia đó.
Hoạt động xuất nhập khẩu còn là yếu tố quan trọng nhằm phát huy
mọi nguồn nội lực, tạo thêm vốn đầu tư để đổi mới công nghệ, tăng thêm
việc làm, thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
Xuất khẩu là một bộ phận của hoạt động ngoại thương, trong dó
hàng hoá và dịch vụ bán cho nước ngoài nhằm thu ngoại tệ tăng tích luỹ
ngân sách nhà nước, đồng thời phát triển sản xuất kinh doanh và nâng cao
đời sống cho nhân dân. Hoạt động xuất khẩu phức tạp hơn nhiều so với
việc buôn bán trong nước vì hoạt động này diễn ra trên một thị trường rộng
lớn và nhà xuất khẩu phải có những hiểu biết nhất định về thị trường và
những nhân tố ảnh hưởng đến việc xuất khẩu của doanh nghiêp như văn
hoá, thói quen, cách nghĩ, lối sống...Có nhiều hình thức hợp tác trong kĩnh
vực kinh tế quốc tế nhưng có thể chia thành các hoạt động sau:
- Thương mại quốc tế.
6
- Đầu tư quốc tế.
- Nhập khẩu sức lao động.
- Hợp tác trong lĩnh vực tiền tệ.
- Các hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ quốc tế.

Trong đó ra đời sớm nhất và hiện nay vẫn giữ vai trò quan trọng là hoạt
động thương mại quốc tế. Thương mại quốc tế là hoạt động mua bán và
trao đổi hàng hoá và dịch vụ được diễn ra giữa các quốc gia. Như vậy, khi
mua hàng hoá hay dịch vụ của một bên nước ngoài được hiểu là hoạt động
nhập khẩu và khi bán hàng hoá hay dịch vụ cho bên nước ngoài được hiểu
là hoạt động xuất khẩu.
Ở một số nước thị trường trong nước là hữu hạn thậm chí với một số
nước còn quá nhỏ bé nên thị trường thế giới rộng lớn là mục tiêu để các
nước này vươn ra để xuất khẩu hàng hoá của nước mình. Vì thế ngày nay
khuyến khích xuất khẩu là chính sách mà các quốc gia đều ưu tiên và nhiều
khi nhập khẩu là để phục vụ xuất khẩu.
Không ngoài xu thế chung của thế giới Việt Nam cũng có nhiều
chính sách khuyến khích các cá nhân, doanh nghiệp tăng cường xuất khẩu.
Trong điều 2 Nghị Định số 57/1998/NĐ – CP quy định : “ Hoạt động xuất
nhập khẩu hàng hoá là hoạt đông mua, bán hàng hoá của các thương nhân
Việt Nam với các thương nhân nứơc ngoài theo các hợp đồng buôn bán bao
gồm cả tạm nhập tái xuất, hàng hoá chuyển khẩu. Thương nhân là các cá
nhân, tổ chức hay doanh nghiệp thực hiện hành vi thương mại bao gồm:
mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ thương mại và xúc tiến thương mại “
1.1. Cơ sở tồn tại của hoạt động xuất khẩu.
Mỗi một quốc gia muốn xuất khẩu một măt hàng nào đó phải phụ
thuộc vào tiềm năng của mỗi nước. Điều đó phụ thuộc vào lợi thế tuyệt đôi
và lợi thế tương đối của mỗi quốc gia.
7
1.1.1. Lợi thế tuyệt đối
Là lợi thế có thể được dựa trên việc so sánh chi phí sản xuất bỏ ra để
sản xuất ra một loại hàng hoá.
Theo A.Smith nếu mỗi quốc gia tập trung vào sản xuất mặt hàng mà
mình có hiệu quả hơn và xuất khẩu mặt hàng mình có thế mạnh này sang
nước khác sau đó nhập khẩu mặt hàng mình không có ưu thế thì sản lượng

của cả hai mặt hàng sẽ tăng lên và cả hai nước cùng có lợi qua hoạt động
trên.
1.1.2 Lợi thế tương đối ( lợi thế so sánh )
Là lợi thế thông qua việc mua bán giữa các quốc gia dựa trên cơ sở
chi phí so sánh để sản xuất hàng hoá.
Theo D.Ricardo thì khi một quốc gia thực hiện chuyên môn hoá sản
xuất mặt hàng có lợi thế so sánh và đem trao đổi cho một quốc gia khác thì
tất cả các quốc gia đều có lợi.
2. Các hình thức xuất khẩu nông sản chủ yếu.
Kinh doanh xuất khẩu diễn ra dưới các hình thức khác nhau. Do vậy,
hoạt động này được diễn ra trong một doanh nghiệp ngay cả trong một
doanh nghiệp đã đa dạng hoá hình thức kinh doanh của mình. Các hình
thức kinh doanh thể hiện ở nhiều mặt như : xuất khẩu hàng hoá hữu hình là
xuất khẩu những mặt hàng có thể di chuyển ở khối lượng lớn bằng các
phương tiện vận chuyển khác nhau. Bên cạnh đấy còn xuất khẩu hàng hoá
vô hình là hình thức xuất khẩu dịch vụ vận tải, thông tin, tài chính ...
Nhìn từ nhiều khía cạnh ta thấy hoạt động xuất nhập khẩu được chia
thành các hình thức khác nhau như sau :
2.1.Xuất khẩu trực tiếp.
Đây là hình thức xuất khẩu hàng hoá - dịch vụ do chính doanh
nghiệp sản xuất trong nước tới khách hàng nước ngoài thông qua tổ chức
của mình. Việt Nam có hai hình thức xuất khẩu trực tiếp :
8
- Xuất khẩu chính ngạch : Là hợp đồng xuất khẩu theo giấy phép của Bộ
Thương mại, lưu thông qua các cửa khẩu quốc tế và quốc gia, phải chấp
hành đầy đủ các thủ tục xuất khẩu theo thông lệ và tập quán quốc tế.
- Xuất khẩu tiểu ngạch : Là hình thức xuất khẩu theo giấy phép của
UBND các tỉnh biên giới.
2.2.Xuất khẩu gia công uỷ thác.
Đây là hình thức trong đó một đơn vị đứng ra nhập nguyên liệu hoặc

bán thành phẩm cho xí nghiệp để gia công sau đó thu hàng thành phẩm về
để xuất khẩu cho bên nước ngoài. Đơn vị nhận uỷ thác được hưởng phí uỷ
thác theo thoả thuận với các xí nghiệp khác.
2.3.Gia công quốc tế.
Đây là hình thức kinh doanh trong đó bên nhận gia công nhập
nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của bên gia công để chế biến ra thành
phẩm rồi giao lại cho bên đặt gia cồng để nhận được phí gia công. Hình
thức này áp dụng chủ yếu cho các nước đang phát triển có nhiều tài
nguyên, lao động dồi dào với giá rẻ nhưng lại thiếu vốn, kém về công nghệ.
Qua gia công cả hai bên cùng có lợi. Bên đặt gia công lợi dụng được giá rẻ
về nhân công, nguyên phụ liệu của nước gia công, không đòi hỏi nhiều
vốn. Nước nhận gia công tạo được việc làm cho lao động trong nước, nhập
được máy móc thiết bị, công nghệ mới.
2.4. Tái xuất khẩu
Là hình thức nhập khẩu tạm thời hàng hoá vào nước mình sau đó lại
xuất khẩu sang nước thứ ba. Hình thức này thường xuyên xảy ra ở những
nước trung gian xuất khẩu, có vị trí địa lý thuận lợi, thị trường và uy tín
kinh doanh xuất khẩu.
2.5. Xuất khẩu uỷ thác.
Đây là hình thức mà trong đó một đơn vị đóng vai trò là người trung
gian cho đơn vị sản xuất kí kết hợp đồng mua bán ngoại thương, tiến hành
9
các thủ tục cần thiết để xuất khẩu hàng hoá cho nhà sản xuất để qua đó
hưởng tỷ lệ phần trăm.
2.6. Xuất khẩu tại chỗ.
Trong hình thức này hàng hoá chưa xuất khẩu ra khỏi biên giới quốc
gia. Đó là việc cung cấp hàng hoá cho các đoàn ngoại giao, đoàn khách du
lịch nước ngoài hay hàng hoá bán ra khỏi khu chế xuất của nước đó. Từ
hình thức này hình thành nên thị trường xuất khẩu tại chỗ. Với ưu điểm của
hình thức này là giảm bớt các chi phí cho bao bì vận chuyển, cước phí vận

chuyển, rủi ro trong quá trình vận chuyển và thời gian thanh toán nhanh.
2.7. Buôn bán đối lưu.
Đây là phương thức giao dịch trong đó xuất khẩu kết hợp chăt chẽ
với nhập khẩu, người bán thường đồng thời là người mua và lượng hàng
hoá mang ra trao đổi thường có giá trị tương đương với giá hàng xuất khẩu
chứ không có mục đích thu ngoại tệ.
2.8. Xuất khẩu theo nghị định thư.
Đây là hình thức xuất khẩu hàng hoá thường để gán nợ được ký theo
nghị định thư giữa hai Chính phủ. Thực tế, hình thức xuất khẩu này thường
rất ít, thường trong một số nước XHCN trước đây và chỉ trong một số
doanh nghiệp nhà nước.
Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ và sự hợp tác quốc tế
ngày càng sâu rộng thì hình thành nên xu hướng của xuất khẩu như sau :
- Tốc độ tăng trưởng của hoạt động xuất khẩu nhanh hơn các hoạt
động sản xuất khác.
- Tốc độ tăng của xuất khẩu các sản phẩm dịch vụ nhanh hơn xuất khẩu
các sản phẩm hàng hóa do nhu cầu về sản phẩm dịch vụ ngày càng tăng.
- Chu kỳ sống của các sản phẩm xuất khẩu ngày càng ngắn đòi hỏi các
nhà xuất khẩu phải nhậy bén với môi trường xuất khẩu cũng như sự nhậy
bén về khoa học công nghệ áp dụng trong việc chế biến sản phẩm xuất
khẩu.
10
- Sự liên minh trong hoạt động xuất khẩu ngày càng tinh vi hơn và phức
tạp hơn. Cạnh tranh ngày càng đa dạng không chi dừng lại ở giá cả và chất
lượng mà còn phụ thuộc vào kiểu dáng, mẫu mã và các dịch vụ đi kèm
khác.
- Hoạt động xuất khẩu đồng thời chịu tác động của hai xu hướng :
Hợp tác quốc tế ngày càng mở rộng tạo điều kiện cho thương mại tự do
cạnh tranh, liên minh kinh tế cũng như hàng rào mậu dịch ngày càng tinh vi
tại mỗi quốc gia khiến cho hoạt động xuất khẩu gặp nhiều khó khăn.

2.9. Để hoạt động xuất khẩu diễn ra một cách thuận lợi và mang lại
lợi nhuận lớn cho đất nước, nhà nước cần xây dựng kế hoạch một cách có
hệ thống và việc xây dựng các kế hoạch 5 năm về xuất nhập khẩu nói
chung và xuất khẩu nói riêng là cần thiết. Đối tượng của kế hoạch 5 năm về
xuất khẩu là hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nền kinh tế
quốc dân. Kế hoạch xuất khẩu là một bộ phận quan trọng trong hệ thống kế
hoạch hoá phát triển kinh tế xã hội. Nó hướng các hoạt động xuất khẩu của
các quốc gia đi theo một mục tiêu nhất định đồng thời đưa ra các chính
sách và giải pháp cần thiết nhằm đạt được mục tiêu phát triển xuất khẩu
một cách có hiệu quả.
Xây dựng kế hoạch 5 năm về xuất khẩu nông sản là một yêu cầu hết
sức quan trọng và cần thiết bởi vì :
Hiện nay có nhiều thành phần kinh tế tham gia hoạt động xuất khẩu
nông sản và chúng ta đã thừa nhận kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là tất
yếu, mọi thành phần kinh tế đều được tự do kinh doanh trong khuôn khổ
pháp luật, cho nên việc có nhiều thành phần kinh tế tham gia hoạt động
xuất khẩu nông sản là tất yếu. Nhà nước cần sử dụng các hình thức kế
hoạch hoá đa dạng thích hợp với từng thành phần kinh tế để giải phóng mọi
năng lực sản xuất, tạo môi trường cho các thành phần kinh tế kinh doanh
năng động với hiệu quả cao, đảm bảo chức năng điều tiết vĩ mô với các
thành phần kinh tế.
11
- Hoạt động xuất khẩu nông sản tuân theo sự điều tiết của thị trường.
Thừa nhận kinh tế hàng hoá tất yếu thừa nhận thị trường kinh tế hàng hoá
càng phát triển thì thị trường cũng ngày càng mở rộng và càng khẳng định
vai trò của nó đến đời sống kinh tế xã hội. Kế hoạch hoá nền kinh tế quốc
dân về xuất khẩu trên cơ sở sử dụng đúng đắn quan hệ thị trường, tăng
cường mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực làm cho hoạt động xuất khẩu trở
lên sôi nổi nhưng không làm rối loạn các hoạt động xuất khẩu của thị
trường. Nghiên cứu sự vận động của thị trường hiện tại và xu hướng phát

triển trong thời gian tới, từ đó lựa chọn các giải pháp hợp lý để hướng dẫn
và điều tiết các hoạt động xuất khẩu nông sản thông qua thị trường đưa kế
hoạch vào cuộc sống. Như vậy, sự vận động của hoạt động xuất khẩu nông
sản trong cơ chế thị trường được định hướng và điều tiết của các kế hoạch
kinh tế quốc dân về xuất khẩu.
- Hoạt động xuất khẩu nông sản giữa các nước được tiến hành trên
cơ sở tự do, bình đẳng theo giá cả thị trường. Trước đây, hoạt động xuất
khẩu nói chung và xuất khẩu nông sản nói riêng chủ yếu là xuất khẩu sang
thị trường các nước xã hội chủ nghĩa và được sự giám sát theo các hiệp
định của Chính phủ thì nay không còn nữa. Ngày nay, nền kinh tế thế giới
bao gồm các nước có chế độ chính trị khác nhau nhưng tất cả đều muốn mở
rộng quan hệ kinh tế nhưng điều đó phải được tiến hành trên cơ sở tự do,
các bên cùng có lợi. Do đó, kế hoạch hoá kinh tế quốc dân về xuất khẩu
nông sản làm cho thị trường nước ta gắn liền với thị trường thế giới, phát
huy những ngành, lĩnh vực mà nước ta có thế mạnh để mở rộng sự hợp tác
và phân công lao động với các nước nhằm tăng nhanh nguồn thu ngoại tệ,
thu hút mọi nguồn vốn và tiến bộ kỹ thuật của nước ngoài để phát triển có
hiệu quả đối với nền kinh tế quốc dân.
3. Hoạt động xuất khẩu và vai trò của xuất khẩu hàng hoá nông sản.
Nông sản được hiểu là toàn bộ sản phẩm của quá trình sản xuất tại
các ngành nông, lâm, thuỷ sản. Cụ thể, nông sản chủ yếu và phổ biến như
12
các sản phẩm từ trồng trọt, chăn nuôi, sản phẩm từ rừng trồng, sản phẩm từ
hoật động khai thác, đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản.
Nông sản xuất khẩu là một loại hàng hoá xuất khẩu. Nông sản xuất
khẩu khác so với hàng nông sản trong nước vì nó phải thoả mãn được yều
cầu của nước nhập khẩu và người tiêu dùng tai nước nhập khẩu về thông số
dinh dưỡng, an toàn thực phẩm cũng như các thông số kỹ thuật, môi trường
đồng thời phải đạt được tính cạnh tranh cao so với các sản phẩm cùng loại
tại các nước nhập khẩu.

Thị trường nông sản xuất khẩu là nơi diễn ra các giao dịch hàng
nông sản đáp ứng nhu cầu của nước ngoài về nông sản. Trên thị trường
xuất khẩu nông sản người mua và người bán thoả thuận giá cả theo các hợp
đồng, thanh toán chủ yếu bằng các ngoại tệ mạnh và phải có các thủ tục hải
quan của các nước. Một điểm chú ý là thị trường xuất khẩu không chỉ giới
hạn trong thị trường nước ngoài mà còn có một bộ phận khác đó là thị
trường xuất khẩu tại chỗ.
Thị trường sản xuất gạo gồm thị trường của từng mặt hàng nông sản
xuất khẩu nhất định như thị trường sạo, cà phê, cao su ... Giá cả của từng
loại nông sản xuất khẩu phụ thuộc vào tình hình cung cầu của mặt hàng đó.
Trên thị trường nông sản xuất khẩu thì yếu tố cung khó thay đổi do tính
mùa vụ của sản xuất nông nghiệp và đặc tính sinh học rõ rệt của các loại
nông sản.
3.1 . Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu nông sản.
3.1.1.Môi trường quốc tế
Trong xu thế toàn cầu hoá thì tình hình biến động về mặt kinh
tế,chính trị, xã hội của nước này ảnh hưởng nhất định đến các nước xung
quanh. Hoạt động xuất khẩu nông sản có quan hệ trực tiếp với các chủ thể
nước ngoài, chịu sự tác động và phân phối của các nhân tố ở nước ngoài
nên nó càng nhậy cảm đối với các doanh nghiệp xuất khẩu. Bất kỳ một sự
thay đổi nào về các mặt như chính sách xuất nhập khẩu, tình hình lạm phát,
13
thất nghiệp, tăng trưởng hay suy thoái kinh tế ... của các nước đều ảnh
hưởng đến hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản
của nước ta.
3.1.2. Môi lớn vào môi trường văn hóa mà họ sống ( cách sống, lối
sống, cách lưa chọn sản phẩmtrường văn hoá xã hội.
Môi trường văn hoá xã hội bao gồm : nhiều kiến thức, tín ngưỡng
pháp luật, nghệ thuật, lý luận, lối sống... của những người sống trong môi
trương mà doanh nghiệp muốn xuất khẩu. Khi một doanh nghiệp muốn

xuất khẩu vào thị trường thì yếu tố đầu tiên để đánh giá đó là khách hàng.
Khách hàng và hành vi ứng xử của họ trên thị trường phụ thuộc ...). Các
doanh nghiệp muốn xuất khẩu sang những thị trường khác nhau thì phải
tìm hiểu rõ khách hàng ở những quốc gia mà doanh nghiệp muốn xuất
khẩu, điều này góp phần quyết định vào việc sản phẩm có thê thâm nhập và
phát triển sau này.
3.1.3. Môi trường địa lý.
Nó ảnh hưởng lớn đến khả năng cung cấp hàng cho xuất khẩu nhất là
đối với mặt hàng nông sản chịu ảnh hưởng nhiều trong quá trình vận
chuyển, tạo điều kiện giao lưu, lưu thông hàng hoá. Có vị trí địa lý thuận
lợi và điều kiện giao thông thuận lợi tạo điều kiện cho giao dịch với môi
trường bên ngoài. Việc cung ứng sản phẩm diễn ra nhanh chóng và tránh
được rủi ro trong quá trình vận chuyển và tiêu thụ sản phẩm.
3.1.4. Thuế xuất khẩu.
Là số tiền mà người chủ hàng xuất khẩu mặt hàng nông sản phải nộp
cho hải quan của nước sở tại.Tuy nhiên, ở các quốc gia được khuyến khích
xuất khẩu nông sản thì thuế xuất khẩu rất ít được sử dụng vì nó hạnh chế
qui mô của các doanh nghiệp xuất khẩu. Trên thực tế, thuế xuất khẩu chỉ
đánh vào các mặt hàng truyền thống riêng hoặc hàng hoá độc quyền của
quốc gia đó.
3.1.5. Các hàng rào phi thuế quan.
14
Các quốc gia đều muốn xuất khẩu nhưng cũng đồng thời muốn hạn
chế lượng nhập khẩu để bảo vệ sản xuất trong nước. Trong điều kiện tự do
hoá thương mại như hiện nay thì hình thức thuế đánh vào hàng hoá nhập
khẩu được áp dụng rất hạn chế. Vì thế mà các nước đều xây dựng cho mình
một hàng rào phi thuế quan để hạn chế hàng hoá nhập khẩu vào nước mình.
- Hạn ngạch ( quota ) : là qui định của nhà nước về số lượng cao nhất
của một mặt hàng hoặc một số nhóm mặt hàng được phép xuất khẩu hoạch
nhập khẩu vào một thị trường nhất định trong một thời gian nhất định.

- Các biện pháp về tiêu chuẩn kỹ thuật.
Thực chất của biện pháp này là việc Chính phủ đưa ra hàng loạt các
tiêu chuẩn kỹ thuật qui định cho mỗi loại hàng hoá khác nhau. Cụ thể về
nhóm hàng nồng sản thì các biện pháp này có ảnh hưởng lớn. Với các mặt
hàng như rau quả đó là các qui định về hàm lượng hoá chất được phép sử
dụng sản xuất, bảo quản, vận chuyển và chế biến. Với các mặt hàng thịt
tươi sống thì là các yêu cầu về vệ sinh, kiểm dịch ...
- Trợ cấp xuất khẩu
Là biện phát nhà nước áp dụng đối với các doanh nghiệp thực hiện
nghiệp vụ sản xuất kinh doanh xuất khẩu bằng cách trợ giá đầu ra và đầu
vào cho sản xuất bằng cách trợ giá đầu ra và đầu vào cho sản xuất, cho vay
ưu dãi với lãi suất thấp và thời gian dài. cũng như điều chỉnh các mức thuế
quan hợp lý.
Hiện nay ở Việt Nam hình thức này được sử dụngcho nhiều mặt
hàng xuất khẩu. Nông sản là một trong những nhóm hàng được ưu tiên
nhiều nhất, đây là thuận lợi cho các nhà sản xuất nông sản Việt Nam.
- Hạn chế xuất khẩu tự nguyện.
Là hình thức bảo hộ thị trường nội địa bằng cách nhập khẩu đòi hỏi
nứơc xuất khẩu phải giảm lượng hàng xuất khẩu hoặc phải tự nâng giá
hàng xuất khẩu nều không nước nhập khẩu sẽ áp dụng biện pháp tra đũa.
3.1.6. Tỷ giá hối đoái
15
Là giá cả của một đơn vị tiền tệ của một quốc gia tính bằng tiền tệ
của một nước khác hay là giá cả của đồng tiền giữa hai quốc gia.Trong hoạt
động xuất nhập khẩu các doanh nghiệp thường sử dụng các ngoại tệ mạnh
để thanh toán với nhau mà cả hai bên cùng chấp nhận sử dụng ngoại tệ đó
để thanh toán.
3.2. Lợi thế của Việt Nam khi xuất khẩu nông sản.
Do mới ở trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nên chất lượng mặt hàng nông sản Việt Nam còn rất hạn chế.

Nhưng Việt Nam cũng có những điểm thuận lợi về hoạt động xuất khẩu
nông sản đã là truyền thống của Việt Nam từ trước đến nay :
- Việt Nam là nước có ưu thế về sản xuất nông nghiệp, nông sản đa
dạng và có giá trị kinh tế cao. Các nhóm mặt hàng nông sản chủ lực, có
kim ngạch xuất khẩu sang các nước trong khu vực và trên thế giới, gồm:
gạo, chè, cà phê, hạt điều, hạt tiêu, rau, quả, hoa, thịt lợn. Trong đó, xuất
khẩu gạo vẫn chiếm tỷ trọng lớn và ưu thế mạnh của Việt Nam, đứng vị trí
thứ 2 và hạt tiêu đang đứng đầu xuất khẩu trên thế giới.
- Tham gia CEPT/AFTA là bước tập dượt, thử nghiệm cho ngành
nông nghiệp hội nhập vào khu vực trước lộ trình hội nhập quốc tế với việc
tham gia tổ chức thương mại thế giới - WTO, đồng thời sẽ sớm tận dụng
được ưu đãi về thuế quan mà các nước ASEAN trong khối dành cho nhau.
Do đó, nó có tác dụng thúc đẩy xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang các
nước trong khu vực và trên thế giới.
- Gia nhập WTO là bước đi mạnh dạn vào thương trường quốc tế
mà Việt Nam phải bước vào một thế giới cạnh tranh khốc liệt về giá cả sản
phẩm, chất lượng, số lượng hàng hoá nông sản, thương hiệu và nhãn hiệu
nông sản. Song, Việt Nam cũng cần phải đối phó với những luật lệ riêng
của từng nước, từng tổ chức riêng rẽ và còn nhiều gai góc trên lộ trình hội
nhập.
16
- Gia nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo cho các nhà quản lý, các nhà hoạch
định chính sách, các doanh nghiệp Nhà nước và tư nhân làm việc động não
hơn, tinh khôn hơn, bình đẳng hơn. Ngoài ra, hội nhập kinh tế quốc tế có
khả năng, xu hướng tạo thêm đầu tư, thêm công ăn việc làm và tăng thu
nhập cho người dân
- Việt Nam có tới gần 70% dân số hoạt động trong lĩnh vực nông
nghiệp vì vậy mà nguồn lực cung cấp cho lĩnh vực này là rất lớn và hứa
hẹn nhiều thành công.
- Chương trình hợp tác “ bốn nhà “ : Nhà nông nghiệp, nhà nước,

nhà nông, nhà khoa học trong sản xuất nông sản nói chung và xuất khẩu
nông sản nói riêng sẽ tạo ra khối lượng xuất khẩu ổn định, đa dạng hoá các
mặt hàng và chất lượng ngày càng được cải thiện.
- Khoa học công nghệ ngày càng hiện đại đặc biệt là công nghệ sinh
học đã tạo ra không ít những bước tiến trong lĩnh vực nông nghiệp. Do vậy,
hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam không ngừng được cải thiện về
chủng loại và chất lượng.
- Ngoài ra chi phí sản xuất nông sản của Việt Nam thấp vì được nhà
nước hỗ trợ nhiều nên giá thành hoàn toàn có khả năng cạnh tranh với các
sản phẩm cùng loại trên thị trường.
3.3. Vai trò của xuất khẩu nông sản với nền kinh tế Việt Nam.
Việt Nam là một nước đang phát triển và đang cố gắng phát triển
kinh tế nhanh và vững chắc, đẩy mạnh xuất khẩu là một trong những cách
mà Việt Nam lựa chọn. Trong đó xuất khẩu nông sản đã và đang chiếm tỷ
trọng lớn về giá trị. Vì vậy xuất khẩu nông sản có ý nghĩa lớn đến nền kinh
tế Việt Nam thể hiện qua các mặt sau :
3.3.1. Tạo ra lượng ngoại tệ quan trọng trong công cuộc công nghiệp
hoá hiện đại hoá hiện nay. Lượng ngoại tệ có được từ mặt hàng xuất khẩu
nông sản có ảnh hưởng lớn đến việc nhập khẩu máy móc thiết bị phục vụ
17
đắc lực cho mục tiêu chung của nhà nước đó là công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đây là mục tiêu dài trong tương lai của nước ta.
3.3.2. Thúc đẩy nhanh ngành nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng
hoá lớn.
Hoạt động xuất khẩu ra thị trường thế giới rất rộng lớn, việc tìm
được thị trường và đáp ứng được nhu cầu về số lượng mà còn phải đáp ứng
được nhu cầu về chất lượng, muốn được như vậy thì nước ta phải có những
chính sách để vừa nâng cao chất lượng và phải mở rộng được sản xuất hàng
nông nghiệp để hàng nông sản của chúng ta có không những bán được mà
còn phải bán được với giá cao. Ngoài ra để thắng trong cạnh tranh chúng ta

có thể giảm giá thành sản phẩm nhờ vao lợi thế về qui mô. Kết quả là
ngành nông nghiệp Việt Nam trở thành ngành sản xuất hàng hoá lớn bởi
quy mô ngày càng được mở rộng.
3.3.3. Thúc đẩy các ngành có liên quan phát triển.
Từ việc xuất khẩu hàng nông sản tăng nhanh thì kéo theo đó là một
loạt các ngành phục vụ cho xuất khẩu cũng phát triển theo như công nghiệp
hoá chất, công nghiệp chế biến, dịch vụ trong nông nghiệp, giao thông, vận
tải ... Do quy mô của xuất khẩu nông nghiêp ngày càng phát triển nên nó
cũng kéo theo các ngành công nghiệp nêu trên cũng phát triển theo. Có thể
nói ngành xuất khẩu nông sản là nhân tố thúc đẩy một phần ngành công
nghiệp Việt Nam.
3.3.4. Góp phần cải thiện đời sống nhân dân. Xuất khẩu nông sản
góp phần tạo thêm công ăn việc làm cho lao động nhàn rỗi tại các vùng
nông thôn và khu vực nông nghiệp. Từ đó tạo ra các nhu cầu tiêu dùng
nhiều hàng hoá của địa phương góp phần tăng chỉ số tiêu dùng của địa
phương xuất khẩu, giảm các tệ nạn xã hội và các ảnh hưởng có tiêu cực đến
đời sống kinh tế văn hoá, xã hội, kinh tế.
18
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU NÔNG
SẢN VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG EU
I. Tình hình xuất khẩu nông sản sang thị trường EU.
1. Vài nét về thị trường EU.
Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang hội nhập kinh tế toàn cầu,
phải đối mặt với những cạnh tranh gay gắt, đẩy mạnh xúc tiến thương mại
là một yếu tố vô cùng quan trọng đối với việc sống còn của hàng hoá Việt
Nam trên thị trường thế giới. Với mục đích giới thiệu cho các doanh nghiệp
và nhà khoa học Việt Nam về những cơ hội cũng như thách thức của việc
đưa hàng hóa VN xâm nhập và đứng vững trên thị trường chung Châu Âu,
một thị trường rộng lớn đầy tiềm năng nhưng ẩn chứa không ít trở ngại, đặc
biệt là khi Liên Minh Châu Âu gia tăng số thành viên từ 15 lên 25 vào

tháng 5/ 2004.
1.1. Thị trường EU.
Về quy mô kinh tế của Liên hiệp châu Âu đứng thứ hai thế giới
(chiếm khoảng 25% GDP toàn thế giới), sau Mỹ. Về thương mại, EU
chiếm 19,4% giá trị hàng hoá và 24,3% dịch vụ tổng giá trị thương mại thế
giới năm 2002. Tình hình kinh tế nói trên của EU và của các nước trong
khối đã và đang tác động sâu sắc quan hệ kinh tế thương mại giữa EU và
các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước đang phát triển, trong đó có
Việt Nam. Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của EU lớn nhất thế giới, chiếm
45 – 47% tổng số vốn đầu tư trực tiếp các năm 1994- 2001 của toàn thế
giới. Tiềm lực khoa học công nghệ của EU vào loại mạnh nhất thế giới.
Năm 1998, tổng chi phí nghiên cứu và triển khai của toàn thế giới là 479 tỷ
USD trong đó EU chiếm 28%.
Kể từ năm 1995, Liên minh Châu Âu (EU) gồm 15 nước thành viên
là: Pháp, Đức, Bỉ, Italia, Luc Xăm Bua, Hà Lan, Anh, Đan Mạch, Công
Hoà Alien, Hy Lạp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Thuỵ Điển, Phần Lan, Áo
19
đã trở thành một thị trường thống nhất có chính sách thương mại và biểu
thuế quan chung đối với hàng nhập khẩu (tuy còn đôi chút khác biệt giữa
các nước thành viên) và gần đây đã sử dụng một đồng tiền chung là đồng
EURO. Đây là một cơ hội thuận lợi cho các nhà xuất khẩu VN trong việc
tăng cường, đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá vào thị trường này. Đồng thời
đồng EURO sẽ giúp các doanh nghiệp VN thuận lơi hơn trong việc tính
toán và triển khai chiến lược thâm nhập thị trường EU.
Đến tháng 5 năm 2004, EU sẽ mở rộng thêm 10 nước Đông Âu. Việc
mở rộng EU có tác động không chỉ đến bản thân các nước thành viên EU
mà còn tác động cả đến các quốc gia khác trong đó có VN. Với bài tham
luận nhan đề " Liên kết Châu Âu & thị trường chung", GS. David Camoux,
GS. Trường Science Po Pari, nêu lên những thuận lợi và khó khăn chung
của các nước thành viên Liên Minh Châu Âu (EU) khi Liên Minh Châu Âu

mở rộng cũng như ảnh hưởng của đợt mở rộng này đến các quốc gia đang
phát triển, trong đó có Việt Nam. GS.David nhận định rằng EU mở rộng sẽ
làm thu hẹp đầu tư của EU vào thị trường các nước đang phát triển do các
nhà đầu tư dồn sang thị trường các nước thành viên mới kề cận. Tuy nhiên
sẽ là thuận lợi cho Việt Nam vì khi EU mở rộng, nhu cầu tiêu dùng tăng
cao và khi đó, hàng hoá Việt Nam, đặc biệt là các mặt hàng như giày dép,
hàng may mặc, nông sản,… nếu đáp ứng được các yêu cầu của EU, các sản
phẩm của Việt Nam sẽ đến được tay nhiều người tiêu dùng hơn.
1.2. Quan hệ hợp tác kinh tế Việt Nam – EU.
Với tiềm lực mạnh về qui mô và vững mạnh về kinh tế đồng tiền
chung Châu Âu trở thành ngoại tệ mạnh trên thị trường trao đổi ngoại tệ thế
giới, nó là một đơn vị tiền tệ định giá trong thương mại quốc tế với vai trò
ngày càng tăng của thị trường vốn. Không những thế, các công ty đa quốc
gia của EU cũng phát triên rất mạnh mẽ. Trong số 50 công ty xuyên quốc
gia hàng đầu thế giới thì EU có tới 14 công ty. Với vai trò và vị trí của
mình trên thế giới EU ngày càng củng cố vị trí của mình trên trường quốc
20
tế cũng như củng cố vị trí của minh trong WTO, IMF, OECD. Với vai trò
và vị trí quan trọng trong nền kinh tế thế giớinhư vậy thì việc đẩy nhanh
quan hệ thương mại với EU một thị trường rộng lớn và đầy tiềm năng là
mong muốn của bất kỳ quốc gia nào trong đó Việt Nam không nằm ngoài
các quốc gia đó.
Từ khi bình thường hoá quan hệ giữa Việt Nam và cộng đồng Châu
Âu ngày 22-10-1990, quan hệ kinh tế, thương mại giữa Việt Nam và EU
không ngừng phát triển cả chiều rộng và chiều sâu. Hiệp định khung được
ký giữa Việt Nam và EU (ngày 17-7-1995), mối quan hệ này đã có sự phát
triển mới. Thực tế cho thấy Việt Nam và EU đã trở thành những bạn hàng
không thể thiếu của nhau, cùng bổ sung cho nhau, hợp tác hai bên cùng có
lợi. Sự hợp tác này bao gồm các lĩnh vực từ thương mại đến đầu tư, tài
chính tín dụng, khoa học công nghệ, văn hoá - nghệ thuật.

- Về thương mại, quy mô buôn bán giữa Việt Nam và EU thời kỳ
1990-2000 tăng 12,1 lần. Kể từ năm 1991 đến nay, danh mục mặt hàng
xuất khẩu của Việt Nam sang EU có sự phát triển, ngoài những mặt hàng
truyền thống như thuỷ sản, nông sản (cà phê, chè, gia vị) đã có các sản
phẩm công nghiệp chế biến như: dệt may, giày dép, các sản phẩm bằng da
thuộc, đồ gỗ, đồ chơi trẻ em, đồ sứ mỹ nghệ, và gần đây đã xuất hiện
những mặt hàng như : điện tử, điện máy. EU đã và sẽ luôn luôn là thị
trường quan trọng đối với ngoại thương của Việt Nam. Trong quan hệ
thương mại song phương, Việt Nam tiếp tục xuất siêu; về nhập khẩu,
khoảng 90% hàng nhập khẩu của Việt Nam từ EU là sắt, thép, phân bón và
sản phẩm dầu mỏ.
Để thúc đẩy quan hệ thương mại song phương, Việt Nam và EU đã
dành cho nhau chế độ đãi ngộ tối huệ quốc (MFN). EU đã cam kết dành
cho hàng hoá xuất xứ từ Việt Nam chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP),
đồng thời EU đã gia hạn và điều chỉnh tăng hạn ngạch nhập hàng dệt - may
Việt Nam, công nhận hơn 30 doanh nghiệp chế biến thuỷ sản Việt Nam đạt
21
tiêu chuẩn chất lượng và vệ sinh cuả EU. Một số doanh nghiệp và nhiều
hàng hoá Việt Nam đã được chấp nhận và từng bước có chỗ đứng ổn định
tại thị trường EU. Nếu xét về cơ cấu các nước thuộc EU có quan hệ thương
mại với Việt Nam, đứng đầu là CHLB Đức chiếm tỷ trọng 28,5% tổng kim
ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam - EU: Tiếp đến là cộng hoà pháp chiếm
20,7%, Anh 12,7%, I-ta-li-a 9,6%, Bỉ, Luých-xăm-bua 8,1%, Hà Lan 7,6%,
Tây Ban Nha 4,2%, Thuỵ Điển 2,8%, Đan Mạch 2,2%, áo 1,4%, Phần Lan
0,9%, Hy Lạp và Bồ Đào Nha đều là 0,4%.
- Về vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của EU vào Việt Nam;
tính đến hết năm 2002 các nước thành viên EU đã có 285 dự án FDI đầu tư
vào việt Nam với tổng vôns đăng ký hơn 7 tỷ USD (trong đó Pháp 2,58 tỷ
USD, Anh 1,8 tỷ, Hà lan 1,17 tỷ USD)....Các dự án FDI của EU đã góp
phần quan trọng vào việc bổ sung nguồn vốn, mở rộng thị trường xuất

khẩu, tiếp thu công nghệ tiên tiến,. Tuy nhiên, nguồn vốn FDI của EU vào
Việt Nam mấy năm gần đây đang có chiều hướng suy giảm. Nhằm khuyến
khích các doanh nghiệp châu âu đầu tư vào Việt Nam, tháng 10-2003, EU
đã tổ chức diễn đàn đầu tư EU-ASIA tại thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài ra,
trên các trang thông tin của EU, các doanh nghiệp EU và Việt Nam có thể
tìm chọn lựa đối tác với các dự án cụ thể. Một số dự án có thể đước cộng
đồng châu Âu chọn để tài trợ cho từng khâu; làm luận chứng khả thi, đào
tạo và huấn luyện, chuyển giao công nghệ, hỗ trợ kỹ thuật....
EU đang có các chương trình, dự án đối với Việt Nam trong các lĩnh
vực; hỗ trợ về tài chính và kỹ thuật, phát triển nông nghiệp và nông thôn,
xoá đói giảm nghèo, bảo vệ môi trường, y tế , cải cách hệ thống ngân hàng,
phát triển nguồn nhân lực, hỗ trợ Việt Nam về kỹ thuật trong việc gia nhập
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Chỉ tính riêng năm 2002 tổng số vốn
của dự án, chương trình của EU tiến hành ở Việt Nam vào khoảng 311 triệu
ơ-rô, tăng 4% so với năm 2001.
22
1.3. Lợi ích của Việt Nam trong việc phát triển thương mại với EU.
Trong xu hướng hội nhập toàn cầu hiện nay, mở rộng kinh tế -
thương mại với tất cả các nước trên thế giới nói chung và EU nói riêng là
một yêu cầu của nứơc ta xuất phát từ những lợi ích sau:
Trước những năm đổi mới Việt Nam năm 86, Việt Nam chủ yếu
quan hệ kinh tế với các nước xã hội chủ nghĩa kim ngạch xuất khẩu nông
sản và nguyên liệu thô chiếm 91%. Từ đầu những năm 1990, Việt Nam
từng bứơc mở cửa và tìm nhiều thị trường mới. Với vai trò và vị thế của
EU trong nền kinh tế thế giới, EU đang trở thành một thị trường mới quan
trọng đối với Việt Nam.
Với nhu cầu tiêu dùng hàng hoá của thị trường EU rất cao việc phát
triển quan hệ thương mại với EU Việt Nam có điều kiện để mở rộng thị
trường và phát triển nhiều loại sản phẩm xuất khẩu đặc biệt là các mặt hàng
truyền thống và mặt hàng nông sản. Ngoài việc xuất khẩu hàng hoá, việc

phát triển mối quan hệ kinh tê – thương mại với EU còn giúp Việt Nam
khăc phục khó khăn về công nghệ kĩ thuật, đào tạo cán bộ, nhân lực. EU có
ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế thế giới, nếu chung ta có thể phát triển quan
hệ thương mại Việt Nam – EU tốt đẹp từ đó nâng cao uy tín của Việt Nam
trên thị trường quốc tế. Điều đó tạo điều kiện cho Việt Nam mở rộng quan
hệ thương mại với các nước còn lại của thế giới. Đồng thời khai thác triệt
để những ưu đãi trong chính sách của EU đối với các nước đang phát triển,
đây là yếu tố có lợi cho Việt Nam hiện nay.
Một trong những vấn đề quan trọng của Việt Nam nhằm tận dụng
những lợi ích của Việt Nam trong phát triển thương mại với EU. Điều đó
ảnh hưởng lớn đến quá trình hội nhập thương mại của Việt Nam cũng như
nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
2. Tình hình xuất khẩu nông sản sang thị trường EU
Từ một nước nhập khẩu nông sản nói chung và gạo nói riêng, chỉ sau
một thập kỷ Việt Nam trở thành một nước xuất khẩu hàng nông sản và có
23
một vài mặt hàng xuất khẩu hàng đầu so với thế giới. Tuy nhiên, điều
nghịch lý là những con số này chưa tương xứng với vị thế lẽ ra phải có. Giá
bán vẫn còn thấp và hầu như bị khách hàng nước ngoài chi phối. Mặt hàng
gạo dù có sự cải thiện đáng kể về giá so với Thái Lan, nhất là gạo cấp thấp
và trung bình, nhưng giá gạo bình quân vẫn thấp hơn Thái Lan 60 USD/tấn.
Hồ tiêu kém giá các nước vài trăm USD/tấn; mặt hàng cà phê, điều nhân…
cũng tương tự. Tất cả đều do vấn đề chất lượng phẩm và uy tín doanh
nghiệp cũng như thiếu sự liên kết giữa những nhà xuất khẩu gạo của Việt
Nám. Năm 2005, hàng nông lâm thủy sản xuất khẩu chiếm gần 25% tổng
kim ngạch xuất khẩu cả nước, với hơn 8 tỷ USD, trong đó, gạo 1,4 tỷ USD,
mặt hàng gỗ và lâm sản chế biến với 1,6 tỷ USD, thủy sản 2,6 tỷ USD, cao
su 787 triệu USD, cà phê 730 triệu USD, hạt điều gần 500 triệu USD, hồ
tiêu 120 triệu USD…
Ta có thế nhìn qua về tình hình xuất khẩu nông sản của Việt Nam

sang thị trường ASEAN trong thời gian qua. Khi hiệp định về khu vực
thương mại tự do ASEAN (AFTA) đã được khởi động (từ 1-7-2003), hàng
hóa ở các nước ASEAN đang ngày một tiến vào thị trường Việt Nam thì
ngược lại hàng Việt Nam chỉ có những bước tiến rất chậm chạp vào thị
trường ASEAN. Đối với Việt Nam, số lượng mặt hàng được hưởng ưu đãi
từ Indonesia là 50 mặt hàng; Malaysia 170 mặt hàng; Thái Lan 19 mặt
hàng. Có thể nói, hầu như tất cả nước thành viên của ASEAN đã gần như
“xả cảng” đối với hàng hóa của Việt Nam, nhưng chúng ta lại chưa tận
dụng được những lợi thế đó! Có thể lấy một ví dụ từ thực tế lượng hàng
thực phẩm Việt Nam vào Singapore. Ở Singapore, ngoại trừ một số mặt
hàng như thuốc lá, rượu, nước hoa là tính thuế, còn lại đến 99% hàng nhập
khẩu vào Singapore được miễn thuế. Và trong năm 2003, Singapore đã
nhập trên 223 tỉ USD hàng hóa, trong đó hàng nông sản thực phẩm chiếm tỉ
trọng khá lớn, nhưng hàng thực phẩm Việt Nam nhập khẩu vào thị trường
này chỉ chiếm tỉ lệ thấp, không đáng kể. Đó là một thực trạng cần được
24
quan tâm trong khi các nước láng giềng của chúng ta, các nước thành viên
khác của ASEAN nhanh chóng tận dụng ưu thế, cải thiện sản phẩm để xuất
khẩu.Số các mặt hàng nông sản VN được các nước thành viên ASEAN áp
dụng việc cắt giảm thuế ngay chỉ chiếm một tỉ trọng nhỏ, trong khi những
mặt hàng chủ đạo là dầu thô và nông sản chưa chế biến chiếm hầu hết kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Xét tiêu chí cạnh tranh của sản phẩm như
giá cả, chất lượng, mạng lưới tổ chức tiêu thụ và uy tín doanh nghiệp thì
sức cạnh tranh của hàng Việt Nam cũng thấp hơn so với các nước trong
khu vực và trên thế giới.
Trước thực trạng trình độ sản xuất nông nghiệp và trình độ công
nghệ bảo quản, chế biến nhiều loại hàng nông sản của ta còn thấp, nhất là
những loại hàng rau quả dễ hư hỏng do khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, khó bảo
quản, dễ sinh nấm mốc... Đặc biệt là sản phẩm có xuất xứ từ nguyên liệu
nông sản sạch và công nghệ chế biến tiên tiến đang được nhiều khách hàng

quốc tế ưa chuộng.Vì vậy, để đáp ứng thị hiếu trên, trong những năm qua,
nhiều địa phương và các cơ sở sản xuất đã đầu tư xây dựng nhiều nhà máy
chế biến rau quả khá hiện đại và công nghệ của Châu Âu, với tổng công
suất lên đến 290.000 tấn/năm để nâng cao khả năng chế biến và cạnh tranh
của rau, quả Việt Nam; đó là chưa kể 7 đơn vị liên doanh, 129 cơ sở tư
nhân và trên 10.000 hộ gia đình tham gia chế biến rau quả trong cả nước,
trong đó nhiều cơ sở chế biến đã xuất khẩu rau quả sang những thị trường
"khó tính" như EU. Ngoài ra, để phát huy ưu thế có nhiều loại trái cây ngon
có thể xuất khẩu được, nhiều địa phương, nhất là các tỉnh Đồng bằng sông
Cửu Long đã có nhiều cố gắng xây dựng các vùng trái cây nguyên liệu tập
trung với quy mô tương đối lớn và ươm trồng nhiều loại cây ăn quả có chất
lượng cao như: xoài cát Hòa Lộc của Tiền Giang, Bưởi Năm Roi (Cần
Thơ), vú sữa Vĩnh Kim, sầu riêng Chín Hóa.... để đáp ứng nhu cầu tiêu
dùng trong nước và xuất khẩu sang EU là thị trường lớn của trái cây Việt
Nam. Bên cạnh đó, để nâng cao tính cạnh tranh và giá trị của trái cây, rau
25

×