Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Án lệ và việc áp dụng án lệ trong lĩnh vực dân sự ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.85 KB, 16 trang )

MỤC LỤC
A. Án lệ.................................................................................................................2
I. Khái niệm án lệ...............................................................................................2
1.1 Khái niệm án lệ trong Nghị quyết số 3/2015.............................................2
1.2 Án lệ là những lập luận làm rõ quy định của pháp luật còn có cách hiểu
khác nhau........................................................................................................2
II. Lịch sử án lệ..................................................................................................3
2.1 Lịch sử án lệ trên thế giới.........................................................................3
2.2 Lịch sử án lệ và áp dụng án lệ ở Việt Nam...............................................4
III. Nội dung án lệ và nguyên tắc áp dụng.........................................................7
3.1 Nội dung án lệ...........................................................................................7
3.2 Nguyên tắc áp dụng án lệ..........................................................................9
B. áp dụng án lệ trong lĩnh vực dân sự ở việt nam hiện nay...............................13
I. Nguyên tắc áp dụng án lệ trong lĩnh vực dân sự...........................................13
II. Án lệ trong lĩnh vực dân sự ở Việt Nam......................................................14
2.1 Thực trạng áp dụng án lệ vào giải quyết các vấn đề trong lĩnh vực dân
sự...................................................................................................................15
2.2 Ý kiến cá nhân về việc áp dụng án lệ trong lĩnh vực dân sự ở Việt Nam 15

1


ÁN LỆ VÀ VIỆC ÁP DỤNG ÁN LỆ TRONG LĨNH VỰC DÂN SỰ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Trong bối cảnh nước ta đang tích cực đổi mới trên nhiều lĩnh vực, tích cực
hội nhập quốc tế, với ý nghĩa và giá trị đã được thừa nhận của án lệ theo kinh
nghiệm quốc tế thì việc áp dụng án lệ là phương thức hiệu quả để góp phần nâng
cao năng lực của Tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp dân sự, thương
mại, đặc biệt là những tranh chấp có yếu tố nước ngoài, bảo đảm việc áp dụng
pháp luật thống nhất trong xét xử, tạo lập tính ổn định, minh bạch và tiên liệu
được trong các phán quyết của Tòa án.



A. Án lệ
I. Khái niệm án lệ
1.1 Khái niệm án lệ trong Nghị quyết số 3/2015
Khái niệm án lệ được định nghĩa tại Điều 1 và Điều 2 của Nghị quyết số
03/2015. Điều 1 Nghị quyết số 03/2015 định nghĩa: “Án lệ là những lập luận,
phán quyết trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án về một
vụ việc cụ thể”.
Với định nghĩa này, thì khái niệm án lệ là chưa đủ rõ về mặt nội dung. Do
đó, Điều 2 Nghị quyết số 03/2015 đã tiếp tục cụ thể hóa nội dung của án lệ, theo
đó án lệ là “những lập luận làm rõ quy định của pháp luật còn có cách hiểu khác
nhau; phân tích, giải thích các vấn đề, sự kiện pháp lý và chỉ ra nguyên tắc,
đường lối xử lý, quy phạm pháp luật cần áp dụng”.
1.2 Án lệ là những lập luận làm rõ quy định của pháp luật còn có cách hiểu
khác nhau
Loại án lệ này được xác lập để Tòa án bảo đảm áp dụng thống nhất pháp
luật trong trường hợp nội dung văn bản quy phạm pháp luật cần áp dụng chưa
đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn đặt ra. Hiện nay, trên thực tế, đã xảy ra
nhiều trường hợp không có sự thống nhất về nhận thức giữa cơ quan tiến hành tố
tụng với nhau hoặc giữa các cơ quan tiến hành tố tụng với đương sự về việc áp
dụng các quy định cụ thể của pháp luật về tố tụng hoặc pháp luật về nội dung để
xét xử, giải quyết vụ việc dân sự. Đó là các trường hợp một số quy định còn
thiếu chi tiết, cụ thể, mới dừng lại ở những nguyên tắc chung; một số văn bản
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành nhưng vẫn còn thiếu chi tiết, chưa phù
hợp với quy định của luật, pháp lệnh, nghị quyết hoặc còn chồng chéo, mâu
2


thuẫn. Vì vậy, việc phân tích, diễn giải nội dung, phạm vi, đối tượng áp dụng của
một hoặc một số quy định trong văn bản quy phạm pháp luật nêu trên cho vấn

đề pháp lý cụ thể trong vụ việc dân sự là hết sức khó khăn. Để giải quyết vấn đề
này, tùy từng trường hợp, Thẩm phán, Hội đồng xét xử sẽ lựa chọn phương pháp
phù hợp (phương pháp phân tích nghĩa của từ; phân tích khái niệm trong bối
cảnh của quy định hoặc theo mục đích ban hành văn bản...) để đưa ra lập luận, lý
giải về nội dung, phạm vi, đối tượng áp dụng của quy định còn có cách hiểu
khác nhau hoặc luận giải về lý do lựa chọn, áp dụng một hoặc một số điều luật
cụ thể để đưa ra phán quyết giải quyết vụ việc dân sự. Vì vậy, trong trường hợp
bản án, quyết định đó được lựa chọn, thông qua để phát triển án lệ, thì những lập
luận, lý giải nêu trên chính là án lệ.
II. Lịch sử án lệ
2.1 Lịch sử án lệ trên thế giới
Với người Anh, họ sẽ cho rằng nước Anh là “quê hương” là nơi ra đời của
án lệ. Điều này cò thể được các luật gia, các nhà nghiên cứu, các chuyên gia
trong lĩnh vực pháp luật ở Anh, và các nứơc theo truyền thống Thông luật
(Common law) giải thích với lý do:
Thứ nhất, truyền thống pháp luật Anh là truyền thống của Thông luật –
pháp luật đựơc hình thành chủ yếu bằng con đường xét xử;
Thứ hai, Thông luật ở Anh đựơc hình thành từ rất sớm, từ năm 1066;
Thứ ba, pháp luật Anh đã đựơc lan truyền khắp thế giới chủ yếu bằng con
đưòng mở rộng thuộc địa của Đế quốc Anh, và bằng con đường tự tiếp nhận, từ
đó đã hình thành trên thế giới hệ thống pháp luật Common Law ( Thông luật);
Và lý do quan trọng nữa là, nước Anh là nước sử dụng án lệ điển hình nhất.
Đó chỉ là lập luận của những “người Anh”, hay một số học giả khác. Nếu
chúng ta nghiên cưú chính trong pháp luật Anh, và xem đến tận cùng của vấn đề,
chúng ta sẽ thấy có một điều mà người Anh đã tự công nhận nguồn gốc của án
lệ. Ta có thể thấy rằng, án lệ đã ra đời trước đó (trứơc năm 1066), án lệ có nguồn
gốc từ trong pháp luật La mã_tức nó đã có từ thời kỳ La MÃ cổ đại. Điều này
được minh chứng rõ và không thể phủ nhận đựơc trong việc áp dụng học thuyết
án lệ ở Anh, với quy tắc bất thành văn Stare Decisis-tức là quy tắc tôn trọng tiền
lệ. Nếu không có án lệ thì làm sao có sự tôn trọng tiền lệ, để rồi ra đời học

thuyến về quy tắc án lệ trong pháp luật La Mã cổ đại. Và có thể thấy một ví dụ
cho việc ra đời một nguyện tắc, trở thành một khuôn mẫu trong xét xử đối với
các vụ án tử hình đã có từ thời kỳ La Mã cổ đại. Đó là nguyên tắc:” trong khi xét
3


xử vụ án tử hình, nếu tất cả các thành viên phán xét ( ngày nay, có thể là hội
đồng xét xử, hay là Hội đồng thẩm phán) ngay lập tức bỏ phiếu đồng ý với bản
cáo trạng thì bị cáo sẽ được tuyên vô tội (trắng án). Chỉ khi có người đưa ra một
lập luận ủng hộ người bị xét xử đó (bị cáo) và lập luận đó bị tất cả các thành
viên còn lại đồng ý với bảo cáo trạng xử tử hình, thì bị cáo mới bị xử tử hình”nguyên tắc không nhất trí trong pháp luật La Mã xưa.
Vấn đề này được tuyên và hình thành một nguyên tắc xét xử ở thời kỳ cổ
đại là do:
Nguyên tắc trên đã được đảm bảo rằng, các bị cáo khi bị xét xử sẽ được
thực hiện theo một quy trình nhất định, tức là, sau khi các thành viên xét xử
tranh tụng và trứoc khi đưa ra phán quyết nào, các thành viên sẽ pahỉ dành một
đêm tiếp tục tranh luận theo từng cặp để tìm ra lí lẻ bào chữa cho người bị xem
là có tôi. Điều này có nghĩa, là pháp luật đã coi trong việc một bị cáo có cơ hội
được tha tội;
Nguyên tắc này là một cách để các thành viên xét xử phải đưa ra ít nhất
một lập luận để bảo vệ người bị xét xử. Nếu tất cả đều vội vàng kết tội thì sẽ nảy
sinh vấn đề không biết liệu cả hai mặt lập luận có được xem xét nghiêm túc hay
không, điều này sẽ dảm bảo cho một thủ tục được tiến hành để đảm bảo rằng sẽ
có tranh cãi – tức là hai mặt lập luận đã được phân tích và tất cả mọi dữ kiện
điều đã được trình bày.
Vấn đề còn lại của việc tuyên tử hình để đảm bảo chính xác và công lý là
cần có một người - thành viên xét xử phải pảhn đối kịch liệt lại những lập lập
chống án tử hình đối với người bị xét xử. Do đo, mà trong khi xét xử ở La Ma
thời kỷ cổ đại đã hình thành nên một người phản biện, gọi là người chống đối
trung thành.

2.2 Lịch sử án lệ và áp dụng án lệ ở Việt Nam
Về lịch sử xa xưa thì ngày nay chúng ta chỉ có thể khẳng định tới thế kỷ
XV đầu nhà Lê. Bởi vì trước đó, qua cuộc xâm lược đô hộ của phương Bắc (từ
1400 đến 1427), giặc Minh đã tóm thu toàn bộ tư liệu thư tịch, pháp điển của
nước ta đem về Kim Lăng (Trung Quốc) hoặc tiêu hủy tại chỗ, đến nay không
còn tìm lại được, nên trong bài tiểu luận này chỉ nhắc đến lịch sử từ đời nhà Lê Hậu Lê (1428-1789) đến nhà Nguyễn (1802-1945). Đó là giai đoạn độc lập, tự
chủ của Nhà nước Đại Việt - Việt Nam dưới chế độ quân chủ trung ương tập
quyền, với nền pháp luật mà đỉnh cao là Bộ Quốc triều hình luật (thường gọi là
Bộ luật Hồng Đức) ra đời vào thế kỷ XV và Hoàng Việt luật lệ (thường gọi Bộ
luật Gia Long) ra đời vào đầu thế kỷ XIX. Hai bộ luật này có hiệu lực liên tục ở
nước ta từ thế kỷ XV đến giữa thế kỷ XX và sau đó, cho đến nay vẫn còn tồn tại
4


ảnh hưởng sâu sắc trong tục lệ của nhân dân ta.Trong kỹ thuật lập pháp của
người xưa, bên cạnh các bộ luật chính thức, nhà nước còn ban hành các “lệ” hay
“lệnh” để hướng dẫn đường lối xét xử khi luật còn thiếu sót, chưa quy định đủ
mọi góc cạnh chi tiết hoặc có quy định rồi mà chưa rõ. Các triều đại quân chủ
Việt Nam triệt để áp dụng cách làm này.
a. Án lệ trong luật nhà Lê
Dưới thời nhà Lê, niên hiệu Hồng Đức, vua Lê Thánh Tông (1460-1497)
tận dụng kỹ thuật “làm cho pháp luật đầy đủ, dễ hiểu” bằng cách ghi tóm lược
lại những bản án đã được các quan xử án xử rồi, chọn ra làm tiền lệ điển hình để
về sau cứ noi theo đó mà xử các trường hợp tương tự. Cụ thể như trong Bộ luật
Hồng Đức, các Điều 396, 397 về việc phân chia điền sản hương hỏa thực chất là
những bản án được tóm lược lại, chép kèm vào bộ luật.
Hồng Đức thiện chính thư là một kho tài liệu rất quý giá về hai phương
diện án lệ và luật pháp triều Lê. Trong đó, phần lớn các bản án trở thành án lệ
thời xưa đều liên quan đến ruộng đất. Ngoài ra, cũng có những án lệ liên quan
đến nhiều lĩnh vực khác, nhất là hôn nhân và gia đình. Lệ về “phụ trái tử hoàn”

(Đoạn 101) nêu rõ: “Nếu cha mẹ mắc nợ mà bỏ trốn thì con cháu phải trả; nếu
con cháu có nợ mà bỏ trốn thì cha mẹ, ông bà không phải chịu trách nhiệm”. Lệ
về “không chồng mà có thai” (Đoạn 262), Trạng nguyên Lương Thế Vinh (14411496) trình bản án được vua chuẩn phê thành lệ: “Gian phụ có thai thì ở phía
gian phụ có chứng cứ; còn phía nam phu vì không có bằng chứng thì chỉ có thể
xử phạt gian phụ về tội thông gian thôi”…
Việc dùng bản án xử trước làm tiền lệ để giúp đưa ra đường lối xét xử cho
các vụ việc sau đã là một kỹ thuật lập pháp hay, đọc dễ hiểu, dễ áp dụng trong
thực tế. Các bản án này do các phán quan vận dụng kiến thức pháp luật của
mình vào tình huống thực tế để xét xử, qua đó đưa ra đường lối xử lý chung.
b. Án lệ trong luật nhà Nguyễn
Đầu thế kỷ XIX ở nước ta, Bộ luật Gia Long (Hoàng Việt luật lệ) được ban
hành năm 1815, có hiệu lực năm 1818. Bộ luật này gồm có 22 quyển với 398
điều. Về hình thức và nội dung bắt chước theo luật nhà Thanh bên Trung Quốc
nên hai bộ luật giống từ cách gọi tên đến việc sắp xếp nội dung. Bộ luật nhà
Thanh của Trung Quốc gọi tên là “Đại Thanh luật lệ” thì Bộ luật nhà Nguyễn
của Việt Nam gọi tên là “Hoàng Việt luật lệ”, vì mỗi điều khoản trong cả hai bộ
luật ấy gồm có nội dung luật và lệ. GS Vũ Văn Mẫu, Khoa trưởng Đại học Luật
khoa Sài Gòn có phân tích về các án lệ ghi trong Đại Thanh luật lệ và Hoàng
5


Việt luật lệ như sau: “Các lệ nguyên là những bản án đã xử trong thực tế và được
xét là quan trọng nên được thêm vào trong bộ luật”; “Ở trên đầu trang giấy, có
những chú thích in bằng chữ nhỏ cho biết những bản án có liên can đến mấy
điều luật ấy”; “Sau mỗi điều luật và phần chú giải chính văn có in thêm các lệ
liên quan đến điều luật ấy”…
Đồng quan điểm trên, PGS,TS Nguyễn Văn Nhật, Viện trưởng Viện Sử học
(2009) cũng có phân tích: “Hoàng Việt luật lệ được mô phỏng và biên soạn theo
cách thức của Đại Thanh luật lệ (Trung Quốc) từ các điều khoản (luật), các điều
lệ (các bản án đã xử trong thực tế), đến phần chú giải (giải thích) và cách ấn

loát. Bởi thế cho nên, bộ luật của nhà Nguyễn này (…) gọi là Hoàng Việt luật lệ,
cũng như bộ luật của nhà Thanh gọi là Đại Thanh luật lệ.
Ngoài ra, dưới thời nhà Nguyễn, bộ hội điển Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ
cũng có chép án lệ.
Bàn chung về án lệ và pháp luật thời xưa, GS Vũ Văn Mẫu đã có nhận xét:
“Về phương diện án lệ, trong cổ luật của ta không có những tạp chí hay các loại
sách đặc biệt để ấn hành hoặc chú thích các bản án; vì vậy trong cổ luật, các bản
án không thể gây được một án lệ theo đúng với nghĩa chuyên môn mà chúng ta
hiện nay dành cho danh từ này. Tuy nhiên, các vụ án phân xử ngày xưa không
phải vì thế mà không quan trọng. Ta đã rõ những bản án điển hình thường được
nghiên cứu tâu lên vua để được phê chuẩn thành lệ. Như vậy, tuy không có án lệ
mà nhờ ở sự kiểm soát của các guồng máy trung ương phụ trách về việc án, án
lệ này cũng đã hợp thành một nguồn gốc bổ sung cho pháp luật”.
c. Dưới thời Pháp thuộc và chế độ Việt Nam Cộng hòa
Nền pháp luật nước ta chịu ảnh hưởng phương Tây (châu Âu lục địa) mà cụ
thể là hệ thống pháp luật nước Pháp. Trong đó, án lệ là một nguồn gốc pháp luật
quan trọng. Án lệ ra đời nhằm để giải thích pháp luật cho rõ ràng và bổ sung
những khoảng trống thiếu sót do pháp luật thực định hiện hành quy định chưa
đầy đủ. Các án lệ do ngành tòa án đúc kết qua những bản án đã được xét xử
trong thực tế, làm tiền lệ để các vụ xét xử sau có thể tham khảo vận dụng theo
đó. Nói cách khác, án lệ do các tòa án xây dựng nên trong khi phân xử các vụ
kiện, nếu gặp một điều luật tối nghĩa, không rõ rệt hoặc nhiều điều luật tương
phản nhau; hoặc pháp luật không có quy định mà về nguyên tắc thẩm phán
không thể không xử. Nhiệm vụ “phải xử” này đã được cả 3 bộ Dân luật thời
Pháp thuộc ghi rõ: “Thẩm phán nào viện lẽ rằng vì luật không quy định hoặc tối
nghĩa hoặc không đủ để thoái thác không xét xử, có thể bị truy tố về sự bất
khẳng thụ lý” (Điều 5 Dân luật Bắc, Dân luật Trung, Điều 4 Dân luật giản yếu
6



áp dụng ở Nam Kỳ). Đó cũng là mô phỏng theo Điều 4 Bộ Dân luật Pháp lúc
bấy giờ.
Cũng cần lưu ý: sự phán quyết của các thẩm phán xét xử các cấp chỉ có giá
trị đối với việc đem ra xử mà thôi; nói cách khác, các bản án ấy không được có
tính chất pháp quy, bắt buộc các tòa án khác phải xử theo một cách tuyệt đối.
Các phán quyết của các cấp tòa án sẽ dần dần trở thành án lệ khi nào được các
tòa án coi như một đường lối chung, đã được tòa án cấp tối cao tổng kết và phổ
biến chung cho cả nước thông qua các tạp chí công bố án văn thành án lệ như
Đông Dương tư pháp tập san (Journal judiciaire de l’Indochine), Pháp lý tập san,
Pháp luật tập san, v.v..
Ở miền Nam dưới chính thể Việt Nam Cộng hòa (từ 1954-1975), nói chung
nền pháp luật cũng theo trường phái châu Âu (của Pháp), bên cạnh pháp luật
thực định, còn có án lệ để bổ sung cho những trường hợp pháp luật không rõ
ràng, chưa đầy đủ. Thí dụ: Án lệ về “giá trị các văn thư làm ra dưới thời Nhật”
hướng dẫn rằng: “Các văn thư về tư pháp làm ra dưới thời Nhật vẫn có giá trị
nếu không điều gì trái với luật lệ hiện hành” (Án văn của Tòa thượng thẩm Sài
Gòn ngày 28/6/1951, đăng trong Pháp lý tập san năm 1952, trang 52, dẫn từ
sách Án lệ vựng tập (Recueil de jurisprudence), Trần Đại Khâm, Nhà sách Khai
Trí, Sài Gòn, 1969, trang 15).
Khi muốn viện dẫn một bản án nào để chứng minh sự suy luận của mình,
thì phải kể tên tòa án, ngày tuyên bản án, tạp chí đã đăng án văn (năm nào, phần
nào, trang nào).
III. Nội dung án lệ và nguyên tắc áp dụng
3.1 Nội dung án lệ
Để xem xét một bản án cũ có được áp dụng cho vụ án mới đang phải xử lý
hay không, Tòa án phải xác định những tình tiết thực tế của vụ án cũ cùng với
những căn cứ đi đến phán quyết trong bản án cũ. Có hai lọai căn cứ: Những căn
cứ để đi đến phán quyết và những căn cứ đi kèm theo. Những căn cứ để đi đến
phán quyết có hiệu lực bắt buộc đối với những vụ án có tình tiết thực tế tương tự
sau này trong khi những căn cứ đi kèm theo không có hiệu lực bắt buộc nhưng

có thể mang ý nghĩa khuyến nghị, tham khảo.
Hai loại căn cứ trên có ý nghĩa rất quan trọng. Nếu đó là những căn cứ có
hiệu lực bắt buộc, các tòa án sau này phải tuân theo trừ khi tình tiết thực tế của
7


vụ án sau đó hoàn toàn khác. Nếu chỉ có hiệu lực khuyến nghị, các tòa án có thể
tuân theo hay không tuân theo phụ thuộc vào tính thuyết phục của những căn cứ
đó.
Những căn cứ để đi đến phán quyết là tất cả những căn cứ lý lẽ dựa vào đó
tòa án đưa ra phán quyết về một vụ việc. Ngược lại, những căn cứ bổ trợ không
liên quan trực tiếp đến việc phán quyết của Toà án. Chẳng hạn, khi Tòa án phải
giải quyết một vụ việc liên quan đến việc trục xuất một người do đã nhập cảnh
trái phép thì Tòa án phải đưa ra lập luận về việc trục xuất hay không trục xuất
người đó. Đó là căn cứ để đi đến phán quyết. Nhưng nếu trong phán quyết còn
bình luận về vị trí pháp lý của những người vi phạm thời hạn cư trú thì đó là căn
cứ bổ trợ. Việc phân biệt hai loại căn cứ này, đặc biệt là căn cứ để đưa ra phán
quyết không phải là đơn giản vì rất nhiều trường hợp các căn cứ đưa ra không
hoàn toàn rõ ràng, nhất là về phạm vi có hiệu lực sau này của án lệ đó.
Chẳng hạn, một thẩm phán khi quyết định liệu một người lái một chiếc xe
tải xe quá nhanh trên đường và gây thương tích cho người khác có phạm tội lái
xe không an toàn gây nguy hiểm cho người khác hay không thì căn cứ lập luận
có thể được đưa ra rất khác nhau. Thông thường, một thẩm phán sẽ quyết định
rằng bất kỳ người nào lái xe trên đường như vậy và gây thương tích cho người
khác sẽ phạm tội. Nếu vậy, trong các vụ án sau này khi có bất kỳ người nào lái
bất kỳ chiếc xe nào đi quá nhanh và gây thương tích cho người khác sẽ phạm
vào tội đó. Tuy nhiên, thẩm phán cũng có thể hạn chế phạm vi áp dụng nếu nói
rõ là một người chỉ phạm tội nếu chiếc xe là xe tải và được lái quá nhanh. Khi
đó, những người lái xe ô tô nhỏ bình thường gặp vào tính huống tương tự sẽ
không phạm tội do không bị bắt buộc áp dụng án lệ này.

Nhìn chung việc mở rộng hay hạn chế phạm vi áp dụng có ý nghĩa rất quan
trọng vì nó có ý nghĩa ảnh hưởng đến tính công bằng và thống nhất khi áp dụng
pháp luật sau này.

8


3.2 Nguyên tắc áp dụng án lệ
Khi Tòa án phải xử lý một vấn đề nào đó và vấn đề đó đã được quyết định
bởi một Tòa án cấp cao hơn, thẩm phán sẽ phải xác định những tình tiết thực tế
liệu có giống với vụ án trước đó để áp dụng trong vụ án đang xử lý không và
nếu thấy tương tự thì phải áp dụng tuân theo. Nếu không, họ có quyền không
tuân theo.
Mặt khác, nếu thấy tình tiết của vụ án đang xử lý cho dù có khác biệt với
vụ án cũ về tính tiết nhng vẫn có thể áp dụng được nguyên tắc của một án lệ cũ
thì tòa án vẫn có quyền áp dụng, khi đó toà án coi như đã tiếp tục mở rộng phạm
vi những khía cạnh về nội dung để sau đó lại tạo thành án lệ mới. Một bản án có
thể bị kháng cáo, nếu tòa án cấp trên đồng ý với bản án của tòa án cấp dưới thì
coi như việc áp dụng hay không áp dụng hay mở rộng phạm vi áp dụng án lệ của
tòa án cấp dưới đã được chấp thuận.
Một tòa án có thể không áp dụng một phần của nội dung án lệ cũ qua việc
hạn chế những nội dung mà án lệ cũ có hiệu lực và qua đó để tạo dựng, phát
triển, tạo nên án lệ mới. Như vậy, điều đó tạo cho thẩm phán có được sự sáng
tạo và tự chủ nhất định khi gặp phải những tình tiết mới của thực tế vốn liên tục
nảy sinh theo sự phát triển của xã hội.
Bên cạnh đó, một (cấp) tòa án cũng có quyền không tuân theo những án lệ
của chính tòa án cấp đó nếu thấy không thể tuân theo. Nếu bản án đó lại bị
kháng cáo, và nếu tòa án cấp trên bác bỏ phán quyết của tòa án cấp dưới, như
vậy án lệ vừa được tạo nên không còn hiệu lực nữa. Cũng có trường hợp, tòa án
cấp trên chỉ bác bỏ một phần khi phân tích những tình tiết thực tế trong vụ án và

nội dung áp dụng, khi đó, phần không bị bác vẫn có hiệu lực. Một khả năng
hiếm hoi nữa là một bản án có thể hạn chế phạm vi áp dụng án lệ đối với những
tình tiết đặc thù mà rất ít khả năng xảy ra tương tự.
Thông thường các thẩm phán rất bảo thủ khi áp dụng án lệ, tức ít khi
“mạo hiểm” để đưa ra án lệ mới. Tuy nhiên, thực tế những gì mà họ thực hiện lại
hoàn toàn khác vì họ thường xuyên phải đối phó với những vấn đề mới của thực
9


tế nảy sinh, phải đưa ra quan điểm của mình trên cơ sở cân nhắc án lệ cũ, tạo ra
sự sáng tạo không ngừng khi áp dụng luật, do đó chính họ là những người tạo
nên một hệ thống luật pháp liên tục phát triển theo thời đại.
Cách thức áp dụng án lệ: mỗi cấp tòa phải tuân theo án lệ của cấp tòa nào?
Quy tắc thông thường nhất là: Tòa án cấp dưới phải tuân theo án lệ của
tòa án cấp trên và của Tòa án tối cao. Một giả định có 3 cấp tòa chính: Sơ cấp,
trung cấp và tòa án tối cao. Mọi Tòa án sơ cấp phải tuân theo án lệ của Tòa án
tối cao và của tòa án trung cấp. Nếu cả hai cấp tòa trên không có án lệ về vấn đề
liên quan nhưng có án lệ ở một tòa án sơ cấp nào đó thì án lệ đó không có ý
nghĩa bắt buộc nhưng có thể sử dụng để tham khảo, tức chỉ có tính chất khuyến
nghị đối với tòa án sơ cấp cùng cấp.
Quy tắc đó cũng được áp dụng với tòa án trung cấp. Trường hợp khác có
thể xảy ra là khi gặp một án lệ của tòa án cấp dưới, tòa án cấp trên có thể tham
khảo án lệ đó và nếu chấp thuận thì án lệ của tòa án cấp dưới trở thành án lệ của
tòa án cấp trên. Ngược lại, nếu không chấp thuận và bác bỏ thì coi như đã lập ra
một án lệ mới hoàn toàn mới, án lệ cũ không còn hiệu lực nữa. Bất kỳ Tòa án
cấp nào cũng không bị bắt buộc phải tuân theo các án lệ của tòa án cấp mình và
cấp dưới.
Như vậy, Tòa án tối cao không bị bắt buộc phải tuân theo các án lệ cũ của
chính Tòa án tối cao. Mọi phán quyết của Tòa án tối cao bao giờ cũng có hiệu
lực pháp lý bắt buộc cao nhất đối với toà án các cấp. Một quy tắc nữa là, các

phán quyết của một thẩm phán trong cùng một cấp tòa chỉ có ý nghĩa bắt buộc
đối với cấp tòa dưới và có ý nghĩa khuyến nghị đối với một thẩm phán khác hay
hội đồng gồm nhiều thẩm phán của cấp tòa đó.
Chẳng hạn, nếu một thẩm phán tòa án tòa án tối cao đưa ra phán quyết nhưng sau đó vụ án lại bị xem xét bởi một hội đồng gồm ba hay toàn bộ các thẩm
phán thì phán quyết của hội đồng có hiệu lực cao nhất. Trong một hội đồng thì
phán quyết của bên chiếm đa số sẽ có hiệu lực và trở thành án lệ.
10


Nhìn chung, các thẩm phán chỉ quan tâm nhất đến việc án lệ cũ có phải là
bắt buộc phải tuân theo hay không. Nếu không bắt buộc, họ sẽ tham khảo các án
lệ khác để có thể tuân theo hay không tuân theo và như vậy đều có khả năng tạo
ra án lệ mới. Cách thức như vậy tạo ra sự thống nhất và công bằng trong việc áp
dụng pháp luật vì khi đã trở thành án lệ có hiệu lực bắt buộc, tất cả các tòa án
cấp dưới đều phải tuân theo. Mặt khác, nó cũng tạo ra sự phát triển không ngừng
của án lệ khi thực tiễn phải đối phó với các vấn đề mới mà hoạt động lập pháp
chưa thể bổ sung và hoàn thiện ngay được.
Để xác định những căn cứ của tòa án khi đưa ra phán quyết, cần phải xác
định những tình tiết thực tế và vấn đề pháp lý đặt ra. Những tình tiết thực tế của
vụ án là những tình tiết có liên quan và ảnh hưởng tới kết quả giải quyết vụ án.
Chẳng hạn, khi tòa án phải phán xét một người có phạm tội trộm cắp hay không
thì tình tiết người đó có đôi mắt xanh rõ ràng không phải là tình tiết thực tế của
vụ án nhưng việc liệu người đó có ý định lấy cắp một đồ vật hay không là một
tình tiết thực tế. Căn cứ để tòa án đưa ra phán quyết là những yếu tố pháp lý dựa
vào đó tòa án giải quyết các vấn đề pháp luật liên quan đến các tình tiết thực tế
của vụ án.
Cơ chế án lệ, hay nói cách khác, pháp luật án lệ được hình thành từ một vụ
án rất cụ thể và có thể được phát triển, mở rộng hơn và thậm chí bị thu hẹp lại
phạm vi áp dụng khi xử lý những vụ án cụ thể sau này. Chẳng hạn, vấn đề lỗi vô
ý ban đầu chỉ áp dụng đối với những hành động vô ý gây ra thiệt hại cho người

khác dẫn đến việc người có lỗi phải bồi thường cho những thiệt hại về thể chất.
Nhưng ngày nay, vấn đề lỗi vô ý đã mở rộng ra đối với cả những lời nói hay
phát ngôn gây thiệt hại cho người khác không chỉ về thể chất mà còn cả tinh
thần.
Để án lệ có thể vận hành hiệu quả và đơn giản, các bản án của toà án các
cấp đều được đưa vào lưu trữ đánh số theo ngày tháng năm. Hàng năm, có cơ
quan chuyên trách (thậm chí của các công ty tư nhân) đều có những tổng hợp
11


trong đó có nêu rõ những bản án nào trước đây đã được xem xét, tuân theo, hay
bác bỏ và không còn hiệu lực.
Án lệ là một khái niệm rất mới trong các khái niệm pháp lý của pháp luật
nước ta. Tuy nhiên, có thể thấy, trong thực tiễn xét xử và áp dụng pháp luật nước
ta đã có những hình thái sơ khai của án lệ mà rõ nhất trong các báo cáo tổng kết
hàng năm của ngành Toà án. Việc áp dụng án lệ là một nguồn không thể thiếu
trong hệ pháp luật thông luật và ngày nay đã và đang được áp dụng với các mức
độ khác nhau trong các hệ pháp luật khác như luật lục địa (civil law) và pháp
luật quốc tế.
Hai ưu điểm lớn nhất của án lệ, thứ nhất, cơ chế này tạo ra tính sáng tạo
trong việc áp dụng pháp luật của toà án mà ở đó thẩm phán chính là những
người vừa áp dụng pháp luật vừa làm luật. Điều này rất cần thiết khi các thẩm
phán luôn phải tiếp xúc và xử lý với những vấn đề thực tiễn nảy sinh mà pháp
luật do các cơ quan lập pháp chưa thể ban hành kịp thời. Ưu điểm thứ hai là cơ
chế này tạo ra việc áp dụng pháp luật một cách thống nhất và công bằng trong
toàn bộ hệ thống tư pháp. Các vụ việc như nhau sẽ được xử lý tương tự trong
toàn bộ các cấp toà vì khi có vi phạm hay áp dụng sai, cấp toà trên sẽ huỷ bỏ.
Tuy nhiên, việc áp dụng án lệ trong bối cảnh pháp luật nước ta cũng sẽ đặt
ra rất nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn và quan trọng nhất là trong lý luận
pháp lý có chấp nhận việc các thẩm phán được phép “làm luật”, hay nói cách

khác là quyền lập pháp của Quốc hội có được chia xẻ cho quyền tư pháp mà trực
tiếp là các thẩm phán hay không.

12


B. áp dụng án lệ trong lĩnh v ực dân s ự ở vi ệt nam
hiện nay
I. Nguyên tắc áp dụng án lệ trong lĩnh vực dân sự
Theo hướng dẫn tại khoản 2 Điều 8 Nghị quyết số 03/2015 thì: “Khi xét
xử, Thẩm phán, Hội thẩm phải nghiên cứu, áp dụng án lệ để giải quyết các vụ
việc tương tự, bảo đảm những vụ việc có tình tiết, sự kiện pháp lý giống nhau
phải được giải quyết như nhau. Trường hợp áp dụng án lệ thì ...tính chất, tình
tiết vụ việc tương tự được nêu trong án lệ và tính chất, tình tiết vụ việc đang
được giải quyết, vấn đề pháp lý trong án lệ phải được viện dẫn, phân tích, làm
rõ trong bản án, quyết định của Tòa án”.
Như vậy, theo hướng dẫn nêu trên, để áp dụng án lệ, thì có hai vấn đề phải
xác định cho được là các tình tiết khách quan và vấn đề pháp lý trong vụ việc
dân sự mà Tòa án đã thụ lý có “giống” với các tình tiết khách quan và vấn đề
pháp lý đã được giải quyết bằng án lệ trong bản án, quyết định trước đó hay
không. Do đó, trong quá trình nghiên cứu, áp dụng án lệ, cần phải lưu ý một số
vấn đề sau đây:
Thứ nhất: Nguồn gốc của sự giống nhau giữa vụ án dân sự này với vụ án
dân sự khác hoặc giữa việc dân sự này với việc dân sự khác là xuất phát từ việc
tranh chấp hoặc yêu cầu giữa các vụ việc dân sự đó phát sinh từ cùng một loại
quan hệ dân sự. Tuy nhiên, cho dù phát sinh từ cùng một loại quan hệ dân sự,
cần phải khẳng định rằng, trên thực tế không có các vụ việc dân sự mà các tình
tiết khách quan của vụ việc này lại giống hoàn toàn với vụ việc khác. Do đó, sẽ
là phi thực tế nếu cho rằng, án lệ chỉ được áp dụng khi và chỉ khi các tình tiết
khách quan của vụ việc dân sự đang giải quyết phải giống hoàn toàn các tình tiết

khách quan của vụ việc dân sự đã được giải quyết trong bản án, quyết định có
chứa đựng án lệ. Ở các nước mà Tòa án áp dụng án lệ để xét xử, giải quyết vụ
việc dân sự, thì theo kết quả nghiên cứu của các học giả nước ngoài, án lệ chỉ
được áp dụng khi “các tình tiết khách quan cơ bản” của vụ việc dân sự đang
được giải quyết được xác định là tương tự với “các tình tiết khách quan cơ bản”
của vụ việc dân sự trong bản án, quyết định có chứa đựng án lệ. Các tình tiết
khách quan cơ bản của vụ việc dân sự là các tình tiết chính của vụ việc đó, phản
ánh về nội dung mối quan hệ dân sự đang phát sinh tranh chấp hoặc có yêu cầu
giải quyết. Nói cách khác, đây là những tình tiết quan trọng làm cơ sở cho yêu
cầu của đương sự. Như vậy, theo tác giả, đây là cách tiếp cận phù hợp nhất để
vận dụng trong việc thống nhất nhận thức về hướng dẫn “những vụ việc có tình
tiết, sự kiện pháp lý giống nhau” tại khoản 2 Điều 8 Nghị quyết số 03/2015.
Theo đó, việc áp dụng án lệ chỉ được thực hiện khi vụ việc dân sự đang được
giải quyết và vụ việc dân sự trong bản án, quyết định có chứa đựng án lệ được
Thẩm phán, Hội thẩm, Hội đồng xét xử, Hội đồng giải quyết thống nhất là có sự
tương đồng về các tình tiết khách quan cơ bản. Nếu các tình tiết khách quan cơ
bản này chỉ giống nhau một phần hoặc phần lớn thì không được áp dụng án lệ.
13


Thứ hai: Thẩm phán, Hội thẩm phải xem xét, so sánh vấn đề pháp lý
trong vụ việc dân sự cần được giải quyết với vấn đề pháp lý đã được giải quyết
bằng án lệ nhằm tìm ra sự tương đồng hay khác biệt làm cơ sở quyết định áp
dụng hay không áp dụng án lệ đó. Bên cạnh đó, cũng cần lưu ý rằng, trên
phương diện pháp luật áp dụng, thì án lệ bao gồm hai loại: Án lệ về áp dụng
pháp luật nội dung và án lệ về áp dụng pháp luật tố tụng. Do đó, tùy từng vụ
việc dân sự mà Tòa án áp dụng một trong hai loại án lệ nêu trên để giải quyết.
Tuy nhiên, việc phân loại án lệ này cũng chỉ mang tính chất tương đối; bởi lẽ,
cũng có một số loại án lệ về áp dụng pháp luật tố tụng được xác lập trên nền
tảng các quy định của pháp luật nội dung. Vì vậy, án lệ về pháp luật tố tụng cũng

có thể được áp dụng cho các vụ việc dân sự mà quan hệ dân sự phát sinh tranh
chấp hay phát sinh yêu cầu trong vụ việc dân sự đó khác với quan hệ dân sự
trong vụ việc dân sự đã được giải quyết bằng án lệ, nhưng yêu cầu pháp lý cần
phải giải quyết trong vụ việc dân sự mà Tòa án đã thụ lý là tương tự với yêu cầu
pháp lý đã được giải quyết bằng án lệ.
Khi xét xử Thẩm phán, Hội thẩm phải nghiên cứu và áp dụng án lệ để giải
quyết vụ việc tương tự, bảo đảm những vụ việc có tình tiết, sự kiện pháp lý
tương tự phải được giải quyết như nhau.Đối với những vụ việc đã có án lệ thì
Thẩm phán, Hội thẩm phải nghiên cứu án lệ đó để đưa ra quyết định việc viện
dẫn, áp dụng hoặc không áp dụng án lệ.Nếu áp dụng án lệ thì số án lệ, số bản án
và quyết định của Tòa án phải có chứa đựng án lệ, tính chất cộng với tình tiết vụ
việc tương tự được nêu trong án lệ và vấn đề pháp lý trong án lệ phải được viện
dẫn.Trường hợp Hội thẩm, thẩm phán thấy rằng án lệ không phù hợp để áp dụng
nhưng một trong các bên đương sự, người bảo chữa… đề nghị áp dụng án lệ thì
phải nêu rõ lý do không áp dụng án lệ trong bản án, quyết định của Tòa án.
II. Án lệ trong lĩnh vực dân sự ở Việt Nam
Các án lệ trong lĩnh vực dân sự ở Việt Nam bao gồm:
1. Án lệ số 02/2016/AL về vụ án “Tranh chấp đòi lại tài sản”
2. Án lệ số 03/2016/AL về vụ án “Ly hôn”
3. Án lệ số 04/2016/AL về vụ án “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất”
4. Án lệ số 05/2016/AL về vụ án “Tranh chấp di sản thừa kế”
5. Án lệ số 06/2016/AL về vụ án “Tranh chấp thừa kế”
6. Án lệ số 07/2016/AL về vụ án “Công nhận hợp đồng mua bán nhà trước
ngày 1/7/1991”
7. Án lệ số 08/2016/AL về xác định lãi suất, điều chỉnh lãi suất trong hợp
đồng tín dụng kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm
8. Án lệ số 09/2016/AL về xác định lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị
trường và việc chả lãi trên số tiền vi phạm, bồi thường thiệt hại
14



2.1 Thực trạng áp dụng án lệ vào giải quyết các vấn đề trong lĩnh vực dân sự
Hiện nay ở Việt Nam có tổng cộng 10 án lệ trong đó có 8 án lệ nằm trong
lĩnh vực dân sự, thực tế này cho thấy hai điều. Thứ nhất, việc áp dụng án lệ vào
giải quyết các vấn đề nằm trong lĩnh vực dân sự là rất hiệu quả và mang tính
chất thống nhất trong hệ thống pháp luật dân sự. Thứ hai, đối với lĩnh vực dân
sự thì sẽ có nhiều trường hợp phải giải quyết bằng án lệ vì các đối tượng điều
chỉnh của bộ luật dân sự rất rộng.
Mặc dù chiếm đa số trong tổng số án lệ nhưng số án lệ giải quyết vấn đề
dân sự này vẫn còn rất nhiều điểm còn chưa rõ ràng, không đáp ứng đủ số lượng
các trường hợp khác trong lĩnh vực dân sự như quyền sở hữu trí tuệ và chuyển
giao công nghệ, quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.
2.2 Ý kiến cá nhân về việc áp dụng án lệ trong lĩnh vực dân sự ở Việt Nam
Chúng ta nên nghiên cứu kinh nghiệm áp dụng án lệ ở các nước dân luật như
Đức, Pháp, Nhật và cả ở một số nước đang phát triển. Cùng với đó là tiếp tục chọn
lựa, hệ thống hóa, công bố những bản án phúc thẩm, giám đốc thẩm mang tính
điển hình trong các lĩnh vực và có thể chính thức gọi là những án lệ. Cụ thể là
đưa vào hiệu lực các án lệ về quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ,
quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Hơn nữa các trường luật phải giảng dạy
bằng lý thuyết gắn chặt với bản án điển hình, giáo trình phải được minh họa,dẫn
chứng bằng những bản án có thực. Việc áp dụng án lệ trong lĩnh vực dân sự
cũng như các lĩnh vực khác ở Việt Nam nên bắt đầu ngay từ bây giờ. Mặc dù sẽ
là một quá trình dài để đưa án lệ được áp dụng phổ biến nhưng nếu chúng ta bắt
đầu từ ngay bây giờ vẫn chưa là muộn. Để trễ hơn thì tiếp tục lãng phí chất xám
và làm hoạt động tố tụng của Việt Nam càng tụt hậu, càng bất cập so với nhu
cầu của xã hội hiện đại và lợi ích của người dân.

15



Tài liệu tham khảo
1. />2.
/>VrphYkf78n10S1t6JErcMgoL2KPRGr1bFl6M3pY-S-mzglQVt!-84879058?
id=PORTALDEVGS162000602&_afrLoop=147423800949000&_afrWindowM
ode=0&_afrWindowId=null&_adf.ctrl-state=17xhh37qz3_1#!
%40%40%3F_afrWindowId%3Dnull%26_afrLoop
%3D147423800949000%26id
%3DPORTALDEVGS162000602%26_afrWindowMode%3D0%26_adf.ctrlstate%3D17xhh37qz3_5
3. Giáo trình luật dân sự Việt Nam trường đại học Kiểm sát Hà Nội
4. Giáo trình luật dân sự Việt Nam trường đại học Luật Hà Nội
5. Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật Việt Nam trường đại học Kiểm sát
Hà Nội

16



×