Tải bản đầy đủ (.docx) (47 trang)

NGHIÊN CỨU KHOA HỌC NHÀ NƯỚC CHUYỂN TỪ KIỂM SOÁT SANG ĐIỀU TIẾT THẬN TRỌNG TÀI CHÍNH 2016 2017

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (307.58 KB, 47 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

CHUYÊN ĐỀ:
NHÀ NƯỚC CHUYỂN TỪ KIỂM SOÁT SANG ĐIỀU TIẾT THẬN
TRỌNG TÀI CHÍNH

Nhóm thực hiện: Nhóm 2
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.

Vũ Ngân Hà (NT)
Ngô Thị Loan
Nguyễn Thị Trang
Mai Thị Yến
Nguyễn Thị Hường
Dương Hồng Anh
Nguyễn Mai Hiền

Hà Nội, ngày 28 tháng 9 năm 2015


MỤC LỤC
BẢNG CHÚ GIẢI CHỮ VIẾT TẮT...............................................................................i
DANH MỤC CÁC HÌNH................................................................................................ii
LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................................... 1


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN..........................................3
1.1.

Cơ sở lý luận........................................................................................................3

1.1.1 Tài chính, hệ thống tài chính, vai trò của nhà nước đối với hệ thống tài
chính ………………………………………………………………………………..3
1.1.2

Kiểm soát tài chính......................................................................................7

1.1.3 Bản chất của điều tiết thận trọng tài chính, khái niệm tự do hoá tài
chính ………………………………………………………………………………..9
1.2.

Cơ sở thực tiễn..................................................................................................12

1.2.1.

Nguyên nhân tác động...............................................................................12

1.2.2.

Nhiều nước trên thế giới đã tiến hành tự do hoá tài chính.....................14

1.2.3. Nhà nước chuyển từ kiểm soát sang điều tiết thận trọng tài chính là một
tất yếu khách quan..................................................................................................15
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHUYỂN TỪ ĐIỀU TIẾT SANG THẬN TRỌNG
TÀI CHÍNH.................................................................................................................... 17
2.1. Trình tự tự do hóa tài chính................................................................................17

2.2. Thực trạng tiến hành tự do hóa ở các nước trên thế giới..................................19
2.3. Tác động...............................................................................................................23
2.3.1. Những mặt lợi................................................................................................23
2.3.2. Những mặt trái..............................................................................................25
CHƯƠNG 3: TỰ DO HOÁ TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM............................................26
3.1. Thực trạng tự do hoá tài chính ở Việt Nam.......................................................26
3.2. Hạn chế................................................................................................................. 32
3.3. Giải pháp..............................................................................................................36
KẾT LUẬN..................................................................................................................... 41
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................43


BẢNG CHÚ GIẢI CHỮ VIẾT TẮT
STT

Chữ viết tắt

1

AFTA

ASEAN Free Trade Area

2

APEC

Asia – Pacific Economic
Cooperation


3

ASEAN

Association of Southeast
Asian Nations

4

CSTT

5

G7

6

GATS

7
8

GDP
HTTC

9

IMF

10

11
12
13
14
15

NHNH
NHTM
NSNN
TCTD
TTCK
WB

16

WTO

Nguyên nghĩa tiếng Anh

Nguyên nghĩa Tiếng Việt
Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN
Diễn đàn hợp tác kinh tế
châu Á – Thái Bình
Dương
Hiệp hội các Quốc gia
Đông Nam Á
Chính sách tiền tệ

Group of Seven


Nhóm 7 nước (Canada,
Pháp, Đức, Ý, Nhật, Anh
và Hoa Kỳ)

General Agreement on
Trade in Services

Hiệp định chung về
thương mại dịch vụ

Gross Domestic Product

Tổng sản phẩm
Hệ thống tài chính

International Montary
Foundation

World Bank
World Trade Organization

Trường đại học kinh tế - ĐHQGHN

1

Quỹ tiền tệ quốc tế
Ngân hàng nhà nước
Ngân hàng thương mại
Ngân sách nhà nước

Tổ chức tín dụng
Thị trường chứng khoán
Ngân hàng thế giới
Tổ chức thương mại thế
giới


DANH MỤC CÁC HÌNH

STT

Số hiệu

Tên hình

1

Hình 1.1

Cấu trúc hệ thống tài chính

2

Hình 1.2

Sơ đồ dẫn chuyển vốn của hệ thống tài chính

Trường đại học kinh tế - ĐHQGHN

2



LỜI MỞ ĐẦU
Trong xu thế hội nhập toàn cầu, tự do hoá tài chính là một tất yếu khách quan vì
nó tự sẽ đem lại những lợi ích và tiềm năng to lớn cho một quốc gia. Nó trở thành
sân chơi cho các tổ chức tài chính được vận hành một cách hiệu quả theo đúng bản
chất của một cơ chế thị trường tạo một môi trường minh bạch, linh hoạt cho hệ
thống tài chính, thu hút đầu tư và tạo đà phát triển cho nền kinh tế.
Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, nhà nước can thiệp toàn diện vào mọi ngành
kinh tế, thấm sâu mọi khâu của quá trình tái sản xuất bao trùm các hoạt động kinh
tế trong và ngoài nước. Đặc biệt, nhà nước giữ vai trò rất quan trọng trong hệ thống
tài chính của một quốc gia với mô hình kiểm soát tài chính chặt chẽ. Tuy nhiên sau
đó, quá trình kiểm soát tài chính nặng nề đã khiến cho nền kinh tế của các quốc gia
chịu tổn thương rất lớn. Vấn đề đặt ra là các quốc gia phải thay đổi chiến lược để có
một hệ thống tài chính hoạt động hiệu quả hơn, phù hợp hơn đặc biệt là trong quá
trình hội nhập toàn cầu diễn ra ngày càng mạnh mẽ.
Sáng ngày 16 tháng 6 năm 2009 - sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm
2008, tại Hà Nội, Trường Bồi dưỡng cán bộ Tài chính của Bộ Tài chính phối hợp
với Trung tâm Tài chính và Phát triển châu Á – Thái Bình Dương thuộc Bộ Tài
chính Trung Quốc đã tổ chức Hội thảo quốc tế qua cầu truyền hình với chủ đề
“Điều tiết và phi điều tiết trong hệ thống tài chính: Vai trò trong bối cảnh khủng
hoảng” với 8 điểm nối trên thế giới là: Trung Quốc với 2 đầu cầu Bắc Kinh và
Thượng Hải, Tokyo (Nhật Bản), Hàn Quốc, Philipin, SriLanka và Hà Nội, Thành
phố Hồ Chí Minh (Việt Nam). Tại hội thảo, ông Arvind Gupta – Chuyên gia tài
chính hàng đầu – Học viện Ngân hàng Thế giới đã trình bày về vấn đề: Điều tiết và
phi điều tiết hệ thống tài chính - Những tác động, cải cách và hợp tác. Ông nhấn
mạnh vào nội dung khủng hoảng tài chính và việc điều tiết với tác động và vai trò
của việc điều tiết thận trọng tài chính.
Trường đại học kinh tế - ĐHQGHN


1


Việc nhà nước dần dần chuyển từ kiểm soát sang điều tiết thận trọng tài chính
là bước đầu của quá trình tự do hoá tài chính. Tự do hóa tài chính là một xu thế tất
yếu, là một quá trình bắt buộc sẽ phải diễn ra trên đà tiến triển của nền kinh tế toàn
cầu. Rất nhiều các nghiên cứu và thực tiễn của các quốc gia trong mấy thập niên
gần đây, đã chứng minh được những lợi ích, sự cần thiết của tự do hóa tài chính.
Tuy nhiên, thực tế lại đặt ra một vấn đề là không phải quốc gia nào cũng có thể
thực hiện tự do tài chính được ngay. Quá trình tự do hóa vội vàng đã để lại hậu quả
nghiêm trọng như là: nguyên nhân của các cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ Latinh
vào năm 1980, cuộc khủng hoảng tài chính châu Á vào năm 1997 và cuộc khủng
hoảng gần đây nhất bắt nguồn từ sự đổ vỡ của hệ thống tài chính Mỹ năm 2008…
Nhận thức được điều đó nhiều quan điểm đã nổi lên ủng hộ việc tự do hóa tài chính
phải diễn ra từ từ và từng bước một. Tuy nhiên, cũng cần phải hiểu rằng tự do hoá
tài chính không phải là phi điều tiết, mà chỉ là tìm ra sự phối hợp hiệu quả giữa nhà
nước và thị trường trong việc thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu kinh tế - xã hội.
Từ thập niên 70 trở lại đây, các nước công nghiệp đẩy mạnh chính sách tự do
hoá tài chính gắn với bối cảnh toàn cầu hoá. Cho đến thập niên 90, các nền kinh tế
đang chuyển đổi cũng bị cuốn vào vòng xoáy tự do hoá tài chính và Việt Nam cũng
không nằm ngoài quy luật. Việc tự do hóa tài chính là điều chúng ta sẽ phải thực
hiện khi chúng ta là một thành viên của ASEAN (1995), APEC (1998), khi chúng ta
ký Hiệp định thương mại Việt - Mỹ. Đặc biệt hơn nữa, Việt Nam cũng đã gia nhập
WTO vào năm 2007. Vậy nhà nước ta đã và sẽ có những chính sách điều tiết tài
chính như thế nào để chúng ta có thể tận dụng được những lợi ích tự do hóa tài
chính và hạn chế được mức tối đa mặt trái của nó đối với nền kinh tế. Chính bởi
những lý do trên, nhóm chúng tôi đã lựa chọn đề tài: “Nhà nước chuyển tư kiểm
soát sang điều tiết thận trọng tài chính”.

Trường đại học kinh tế - ĐHQGHN


2


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1 Tài chính, hệ thống tài chính, vai trò của nhà nước đối với hệ thống tài
chính
 Tài chính là gì?
Xét về hình thức bên ngoài: Tài chính là quá trình phân phối các nguồn tài
nguyên (hay vốn) gắn liền với việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đáp ứng
nhu cầu của các chủ thể kinh tế.
Xét về bản chất bên trong của tài chính: Tài chính là tổng thể các mối quan
hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình phân phối các nguồn tài chính thông qua việc
tạo lập hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đáp ứng nhu cầu của các chủ thể trong
nền kinh tế.
Quỹ tiền tệ là một lượng nhất định các nguồn tài chính huy động được để sử
dụng cho mục đích nhất định của chủ thể. Quỹ tiền tệ có tính sở hữu, tính mục đích
và tính vận động thường xuyên liên tục.
 Hệ thống tài chính
Do chuyên đề của nhóm tập trung vào quá trình nhà nước chuyển từ kiểm
soát sang thận trọng tài chính và tác động của nó nên trong phần này, chuyên đề chỉ
nêu tổng quan về hệ thống tài chính.
- Khái niệm:
Hệ thống tài chính (Financial System) là tổng thể các hoạt động tài chính
trong các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế quốc dân nhưng có quan hệ hữu cơ
với nhau về việc hình thành và sử dụng quỹ tiền tệ ở các chủ thể kinh tế – xã hội
hoạt động trong lĩnh vực đó.
 Một số khái niệm khác về hệ thống tài chính
Trường đại học kinh tế - ĐHQGHN


3


Theo Mankiw: Hệ thống tài chính bao gồm những tổ chức (định chế) tài
chính trong nền kinh tế giúp cho tiết kiệm người này khớp với đầu tư của người
khác.
Theo ngân hàng thế giới (WB): Hệ thống tài chính bao gồm nhiều tổ chức,
công cụ và thị trường tài chính.
Theo Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF): Hệ thống tài chính gồm các chủ thể tài
chính và thị trường tương tác qua lại với nhau nhằm mục đích huy động vốn cho
đầu tư và cung cấp phương tiện thanh toán cho hoạt động thương mại.
- Cấu trúc hệ thống tài chính:
Cấu trúc của hệ thống tài chính bao gồm các tụ điểm vốn và các bộ phận dẫn
vốn: Tài chính doanh nghiệp, Ngân sách nhà nước, thị trường tài chính và các tổ
chức tài chính trung gian, tài chính dân cư.

Hình 1.1: Cấu trúc hệ thống tài chính
Nguồn:
- Vai trò của hệ thống tài chính
 Sàng lọc, chuyển giao, phân tán rủi ro và chuyển hóa thời hạn

Trường đại học kinh tế - ĐHQGHN

4


Với chức năng chuyển hóa thời hạn, các tổ chức như ngân hàng có thể tao
điều kiện cho phép người tiết kiệm trong ngắn hạn giảm bớt rủi ro và người đầu tư
huy động được vốn dài hạn cho các dự án. Ngoài ra chúng ta thấy rằng người tiết

kiệm rất ngần ngại khi cho vay trực tiếp hoặc tham gia cổ phần vào các dự án đầu
tư vì trước tiên họ không tin tưởng khi cho vay trực tiếp và do họ không có nhiều
hiểu biết cũng như kinh nghiệm về tài chính và pháp lý để bảo vệ cho khoản tiết
kiệm của mình. Bởi vậy, họ sẽ tìm đến trung gian tài chính mà họ tin cậy và có uy
tín để gửi tài sản của mình. Các tổ chức này lại cung cấp tài chính cho rất nhiều nhà
đầu tư. Thông qua việc sử dụng hình thức bảo lãnh đảm bảo các rủi ro đầu tư có thể
được phân bổ giữa tổ chức trung gian và người đầu tư theo nhiều cách khác nhau,
đa dạng hóa được rủi ro. Với việc huy động tiết kiệm tăng đầu tư sẽ dẫn đến tăng
trưởng kinh tế.

 Làm cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư
Việc chuyển dịch tiết kiệm sang người đầu tư có thể thực hiện trực tiếp thông
qua hình thức cho vay cá nhân hoặc giữ cổ phần trong dự án của nhà đầu tư hoặc có
thể thực hiện thông qua một tổ chức trung gian tài chính. Để tổ chức trung gian tài
chính này hoạt động hiệu quả thì tổ chức này cần phải: khuyến khích tiết kiệm, tăng
mức đầu tư và tăng hiệu quả của đầu tư. Người tiết kiệm sẽ tham gia đầu tư tài
chính và việc tham gia vào đầu tư tài chính sẽ đem lại cho họ một mức sinh lời tốt
hơn. Do vậy, những người có nhu cầu đầu tư sẽ có khả năng tiếp cận với nguồn vốn
dễ dàng hơn. Mặt khác, sự phát triển của thị trường và các công cụ tiền tệ và tài
chính sẽ có tác động hướng tiền vốn vào các khoản đầu tư có lợi hơn. Do đó, ta
thấy rõ ràng sự phát triển của các công cụ, tổ chức và thị trường tài chính đã tạo ra
những cơ hội và động cơ khuyến khích mới cho người tiết kiệm thực hiện tiết kiệm
và người đầu tư thực hiện đầu tư. Đồng thời với sự phát triển của tổ chức trung gian
tài chính tạo nên sự chuyên môn hóa của thị trường vốn để phân bổ nguồn vốn cho
các nhà đầu tư vào các dự án đầu tư được coi là tốt nhất. Chức năng phân bổ này
Trường đại học kinh tế - ĐHQGHN

5



của tổ chức trung gian tài chính sẽ dẫn đến sự cải thiện chung về hiệu quả đầu tư, vì
vậy dẫn đến tăng trưởng kinh tế nhanh hơn. Do vậy có thể nói rằng phát triển tài
chính là cần thiết để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Hình 1.2. Sơ đồ dẫn chuyển vốn của HTTC

Nguồn: />
 Vai trò của nhà nước đối với hệ thống tài chính
Thế kỉ XX, nhân loại đã chứng kiến cuộc đua tranh giữa hai hệ thống kinh tế
đối lập nhau:
+ Nền kinh tế chỉ huy chịu sự kiểm soát của Nhà nước.
+ Nền kinh tế thị trường dựa vào thành phần kinh tế tư nhân.
Đó là hai giải pháp vĩ mô trái ngược nhau, đến cuối thế kỉ XX, mô hình kinh
tế chỉ huy đã thất bại trong việc duy trì sự tăng trưởng, phát triển và nâng cao đời
sống nhân dân. Trong khi đó, nền kinh tế thị trường lại chứng minh sự thành công
trong nhiều nước trên thế giới từ Tây Âu đến Bắc Mĩ và cả Châu Á, trong đó có
Việt Nam. Vậy thì câu hỏi đặt ra là: Nếu nền kinh tế thị trường hoạt động hiệu quả
thì tại sao Nhà nước vẫn phải can thiệp vào các hoạt động của nó? Tại sao Nhà
Trường đại học kinh tế - ĐHQGHN

6


nước không để cho các tư nhân được hoàn toàn tự do kinh doanh? Câu trả lời cho
vấn đề này là Nhà nước có thể tác động một cách hiệu quả đến mọi hoat động của
nền kinh tế thị trường:
Thứ nhất, do bản thân các doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị
trường, một mình doanh nghiệp không thể tự giải quyết được nhiều vấn đề nảy sinh
do vậy cần nhà nước tác động vào nhằm điều chỉnh, giải quyết những ách tắc, trở
ngại trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như: về hợp đồng và giải quyết

các hợp đồng, khung pháp lý tạo môi trường thuận lợi và hành lang pháp luật an
toàn để các doanh nghiệp hoạt động canh tranh một cách lành mạnh.
Thứ hai, quản lý nhà nước trong điều kiện nền kinh tế thị trường là cần thiết
nhằm ngăn ngừa những hạn chế những khuyết tật của thị trường như: môi trường
cạnh tranh không hoàn hảo, thông tin không đầy đủ, lạm phát thất nghiệp khủng
hoảng kinh tế, hủy hoại môi trường sinh thái, mất ổn định và nhiều vấn đề kinh tế
xã hội khác.
Vai trò của Nhà nước đối với hệ thống tài chính:
+ Bảo đảm việc cung cấp đầy đủ kịp thời thông tin cho các nhà đầu tư.
+ Tăng tính minh bạch của hệ thống tài chính.
+ Bảo đảm sự lành mạnh và an toàn của hệ thống tài chính.
1.1.2 Kiểm soát tài chính
Kiểm soát tài chính (Financial Repression) hay còn gọi là áp chế tài chính là
khái niệm dùng để chỉ sự can thiệp của Nhà nước vào hệ thống tài chính nhằm mục
đích duy trì sự ổn định tài chính, bảo vệ công chúng khỏi những tổn thất bất ngờ và
giúp phân bổ của cải công bằng hơn trong xã hội. Nói cách khác, là tình trạng các
nước không có thị trường vốn tự do chịu sự kiểm soát của Nhà nước về lãi suất đặc
biệt là những kiểm soát đưa đến kết quả lãi suất tiền gửi thực âm.
Nhà nước can thiệp vào hệ thống tài chính bằng các biện pháp như:
Trường đại học kinh tế - ĐHQGHN

7


+ Khống chế lãi suất tiền gửi và tiền vay
+ Yêu cầu dự trữ bắt buộc cao đối với các ngân hàng
+ Sở hữu hoặc can thiệp sâu vào ngân hàng
+ Hạn chế sự tham gia của các định chế tài chính vào thị trường tài chính
+ Hạn chế các luồng vốn vào và ra khỏi nền kinh tế nhằm điều tiết các khoản
đầu tư vốn trong nền kinh tế phù hợp với các chính sách phát triển kinh tế

của chính phủ.
Thông thường, do chính phủ đề ra những kiểm soát này làm cho mức lãi suất
thực tế bị bóp méo khác với mức lãi suất cân bằng trong một thị trường tiền tệ cạnh
tranh. Sự áp chế đó được mở rộng liên quan đến những hạn định của chính phủ
nhằm kìm hãm sự phát triển của các tổ chức và công cụ tài chính dẫn đến một thị
trường tài chính không đầy đủ và phân tán.
Qua nghiên cứu cũng như thực tế của rất nhiều nước thực hiện chính sách áp
chế tài chính đã đúc kết lại tác hại của việc kiểm soát như sau:
 Các kiểm soát lãi suất ngặt nghèo, tỷ lệ dự trữ bắt buộc cao tương tác
với lạm phát và thường làm cho lãi suất tiền gửi thường vào mức âm,
từ đó cản trở sự phát triển của hệ thống tài chính theo chiều sâu.
 Lãi suất thấp không làm tăng được vốn đầu tư như dự kiến vì khả
năng huy động tiết kiệm bị hạn chế.
 Đầu tư của cả hộ gia đình và doanh nghiệp được tập trung nhiều vào
các tài sản có giá trị không bị tác động bởi lạm phát.
 Do vay vốn trong hệ thống tài chính chính thức bị giảm, các nhà đầu
tư phải dựa nhiều hơn vào vốn tự có.
 Việc dựa vào vốn tự có làm cho tài sản nợ của các doanh nghiệp có
tính thanh khoản rất thấp.
 Hoạt động đầu tư của các quỹ đầu tư và công ty bảo hiểm bị hạn chế
khi tiền tệ bất ổn định và tài sản chính không có tính thanh khoản.

Trường đại học kinh tế - ĐHQGHN

8


 Hoạt động phân bổ tín dụng theo chỉ định kèm với những ưu đãi khác
nhau về lãi suất tạo ra những khác biệt lớn về lãi suất giữa đối tượng
được ưu tiên và không được ưu tiên.

1.1.3 Bản chất của điều tiết thận trọng tài chính, khái niệm tự do hoá tài
chính
 Điều tiết thận trọng tài chính
Nguyên nhân sâu xa của việc tăng cường vai trò của nhà nước trong việc
điều tiết nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng bắt nguồn từ sự phát
triển nhanh chóng của lực lương sản xuất dưới tác động của các cuộc cách mạng
khoa học, công nghệ khiến trình độ xã hội hoá tăng lên một cách mạnh mẽ, làm cho
độc quyền tư nhân không thể thích ứng nổi. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ
hiện đại (cách mạng khoa học kỹ thuật lần 2) diễn ra vào những năm 40 của thế kỉ
XX đã làm xuất hiện nhiều ngành mới như: điện tử, năng lượng, hàng không vũ trụ,
… Phát triển những ngành này yêu cầu phải có một nguồn vốn rất lớn, cơ sở hạ
tầng hiện đại, đội ngũ những người lao động lành nghề có tri thức, những điều này
bản thân các nhà tư bản không thể tự giải quyết hết được. Mặt khác, sự ra đời của
các ngành sản xuất mới đòi hỏi các quốc gia phải có chiến lược kinh tế - xã hội,
khoa học - công nghệ để định hướng cho sự phát triển, đồng thời nó còn đòi hỏi
nhứng khoản đầu tư lớn cho việc nghiên cứu và phát triển, đào tạo, xây dựng kết
cấu hạ tầng mới. Những việc này chỉ có nhà nước mới giải quyết nổi. Quá trình
quốc tế hoá sản xuất và lưu thông được đẩy mạnh, sự phân công hợp tác quốc tế
ngày càng sâu rộng đã làm nảy sinh mâu thuẫn mới mang tính quốc tế, cần có nhà
nước đứng ra điều chỉnh, giải quyết và phối hợp được các hoạt động mang tính
quốc tế.
Sự chuyển biến nền kinh tế của các nước tư bản từ nền kinh tế công nghiệp
sang nền kinh tế thông tin đã làm thay căn bản môi trường hoạt động của nhà nước.
Sự phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học công nghệ hiện đại cũng đồng
Trường đại học kinh tế - ĐHQGHN

9


thời làm thay đổi, tăng cường vai trò của thị trường đối với nền kinh tế, vai trò của

nhà nước cũng có sự khác biệt so với trước đây. Nhà nước không còn là người đảm
bảo độc nhất nữa mà trở thành người tạo điều kiện và người điều tiết các hoạt động
của nhà nước nói chung và lĩnh vực tài chính nói riêng.
Một trong những xu hướng biến đổi của chủ nghĩa tư bản hiện đại là nhà
nước chuyển từ kiểm soát sang thận trọng tài chính theo hướng do hoá. Như vậy,
điều tiết thận trọng tài chính là một bước trong quá trình phát triển thị trường tài
chính trên cơ sở xoá bỏ những sự kiểm soát và tiến dần đến tự do hoá tài chính.
Mục tiêu của sự điều tiết kinh tế là nhằm khắc phục những khuyết tật của
kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, định hướng cho sự phát triển kinh tế - xã hội
nhằm tăng trưởng kinh tế, đảm bảo sự tồn tại và phát triển chủ nghĩa tư bản, giải
quyết những mâu thuẫn trong quá trình phát triển, thúc đẩy cạnh tranh. Còn mục
tiêu của sự điều tiết thận trọng tài chính là dự báo tác động điều tiết hệ thống tài
chính, nhận biết xu hướng thị trường nhằm giảm rủi ro hệ thống tài chính, ngăn
chặn khủng hoảng tài chính bằng sự điều tiết hiệu quả và nhạy bén hơn hướng đến
một hệ thống điều tiết tài chính toàn diện không tiếp cận đơn lẻ. Điều tiết thận
trọng tài chính là một vẫn đề quan trọng bởi lẽ một khu vực tài chính vững vàng sẽ
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế do chuyển các khoản tiết kiệm đầu tư.
Công cụ điều tiết tài chính
- Thị trường tiền tệ
- Thị trường vốn
 Tự do hoá tài chính
Trong 3 xu hướng tự do cơ bản (tự do hoá giá cả, tự do hoá thương mại và tự
do hoá tài chính) thì tự do hoá tài chính là bước cuối cùng khó khăn nhất, lâu dài
nhất và cũng nguy hiểm nhất nếu đứng về khía cạnh rủi ro và các cú sốc đối với
nền kinh tế. Bên cạnh đó, tự do hoá tài chính còn đặc biệt nhạy cảm với chính trị.
Trường đại học kinh tế - ĐHQGHN

10



Hiện nay, IMF cũng như WB đều lấy học thuyết tự do hoá tài chính làm kim chỉ
nam đổi mới tài chính trên toàn cầu. Họ nhận định rằng “Tự do hoá tài chính là bộ
phận cấu thành quan trọng trong chiến lược tăng trưởng kinh tế của mỗi nước”.
Tự do hoá tài chính (Financial Liberalization), theo IMF là quá trình giảm
thiểu và cuối cùng là xoá bỏ sự kiểm soát của Nhà nước đối với hoạt động của hệ
thống tài chính quốc gia, làm cho hệ thống tài chính hoạt động tự do hơn và hiệu
quả hơn theo quy luật thị trường.
Tự do hoá tài chính khác với phi điều tiết. Bản chất của tự do hoá tài chính là
đưa hoạt động tài chính vận hành theo cơ chế thị trường và chuyển vai trò điều tiết
từ nhà nước sang thị trường, chuyển từ quản lý bằng hành chính sang quy luật thị
trường, mục tiêu là tìm ra sự phối hợp có hiệu quả giữa nhà nước và thị trường trong
việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ kinh tế - xã hội. Do đó, kết quả của tự do hóa
tài chính thường được thể hiện bằng tỷ số giữa tiền mở rộng (tiền mặt và tiền gửi
trong hệ thống NHTM) trên thu nhập quốc dân. Tỷ lệ này ở các nước Châu Á trung
bình là 60%, ở Châu Phi là 20%.
Tự do hoá tài chính còn được hiểu là quá trình nới lỏng những hạn chế và
các quyền tham gia thị trường cho các bên tìm kiếm lợi ích bên trong phạm vi kiểm
soát được của pháp luật dưới nhiều hình thức khác nhau:
 Giảm thiểu tối đa việc kiểm soát về giá cả ( trái phiếu, cổ phiếu và
các chứng từ thanh toán) và lãi suất trên thị trường tài chính ( thị
trường vốn và thị trường tiền tệ).
 Xã hội hóa khu vực tài chính và đơn giản hóa các thủ tục hành chính
trong việc cho vay tín dụng.
 Cho phép sự gia nhập rộng rãi trong lĩnh vực dịch vụ tài chính, đặc
biệt xóa bỏ những trợ cấp cho các tổ chức hoạt động trong thị trường
tài chính.
Trường đại học kinh tế - ĐHQGHN

11



Tự do hoá tài chính được phân làm hai cấp độ:
+ Tự do hoá tài chính nội địa: xoá bỏ kiểm soát lãi suất và phân bổ tín
dụng, tức là sẽ cho phép các tổ chức tài chính trong nước tự do thực
hiện các dịch vụ tài chính theo nguyên tắc thị trường, các thị trường tài
chính trong nước được khuyến khích phát triển, các công cụ chính sách
tiền tệ được điểu hành theo tín hiệu thị trường.
+ Tự do hoá tài chính quốc tế: loại bỏ sự kiểm soát vốn và hạn chế trong
quản lý ngoại hối, tức là tự do hoá các giao dịch vãng lai và tự do hoá
giao dịch vốn.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Nguyên nhân tác động
- Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, xu hướng quốc tế hoá và toàn cầu hoá. Xu hướng quốc tế hoá và
toàn cầu hoá mặc dù khuyến khích các quốc gia tự do hoá tài chính để tranh thủ
những lợi thế tăng trưởng. Mặt khác xu hướng này cũng đặt các nước, đặc biệt các
nước đang phát triển trước một thách thức và sức ép rất lớn là phải tiến hành tự do
hoá tài chính nếu không muốn bị cô lập.
Thứ hai, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 - cuộc khủng hoảng
kinh tế lớn nhất, nặng nề nhất từ trước đến nay sau Đại khủng hoảng kinh tế thế
giới 1929 – 1933. Một nghiên cứu phân tích về các cuộc khủng hoảng ngân hàng
trên thế giới đã cho thấy 18 trong 25 nghiên cứu của Mĩ đã chỉ ra rằng cuộc khủng
hoảng diễn ra sau sự việc tiến hành tự do hoá tài chính 5 năm, tuy nhiên nguyên
nhân sâu xa của cuộc khủng hoảng không phải là do việc mở tự do tài chính. Theo
các nhà nghiên cứu, những cải cách tài chính theo hướng tự do, mở cửa thực chất
chỉ góp phần phơi bày những điểm yếu của hệ thống tài chính nội địa trước những
điều kiện của hệ thống tài chính quốc tế. Họ cũng đã xác định nguyên nhân của
Trường đại học kinh tế - ĐHQGHN

12



cuộc khủng hoảng là sự không ổn định có tính vĩ mô như sự thất thường của hoạt
động thương mại, tính áp đặt trong chính sách tỷ giá và lãi suất, sự bùng nổ của
hoạt động cho vay, sự sụt giá tài sản, sự du nhập vốn một cách ồ ạt, sự chuẩn bị
chưa kỹ để tiến hành mở cửa và sự không tuân thủ tính logic – trình tự tự do hoá tài
chính, nói cách khác các nước đã quá nôn nóng trong việc tiến hành tự do hoá tài
chính.
Ông George Soros là Chủ tịch Ban quản lý Quỹ Soros và người sáng lập
Viện Xã hội mở, trong cuốn sách “Mô hình mới cho các thị trường tài chính: Cuộc
khủng hoảng năm 2008 và ý nghĩa của nó” được xuất bản năm 2008 đã nhận định
rằng: cuộc khủng hoảng tài chính này cũng là cơ hội để các quốc gia củng cố lại hệ
thống tài chính của mình. Khi có một hệ thống tài chính đúng nghĩa, phân bổ vốn
một cách hiệu quả thì nền kinh tế sẽ tăng trưởng lành mạnh và phát triển bền vững.
Thứ ba, khuyết tật của mô hình cũ - kiểm soát tài chính không hiệu quả.
Kiềm chế tài chính là một cơ chế tài chính được đặc trưng bởi sự can thiệp quá mức
của Nhà nước vào các hoạt động và các quá trình tài chính. Năm 1986, Pakistan,
70% những khoản cho vay mới là của ngân hàng quốc gia, và các ngân hàng chiếm
ưu thế trong thế giới ngân hàng tại Braxin. Năm 1987, chương trình tín dụng Chính
phủ chiếm hơn 70% dự nợ tín dụng cho khu vực kinh tế công cộng và tư nhân. Như
ở Nicaragua việc trợ cấp tín dụng trực tiếp ngoài việc choán mất chỗ của các dự án
đem lại mức hoàn vốn có tiềm năng cao và kích thích sự bành trướng quan liêu của
các tổ chức thu nhập tín dụng khác nhau, còn mang lại nhiều hậu quả khác cho nền
kinh tế như vấn đề đầu tư không thu lại hiệu quả, nhu cầu tín dụng sẽ luôn luôn
vượt trội nếu người ta không phải trả lại hoặc nếu lãi suất cho vay thực là âm. Các
khoản trợ cấp tín dụng vượt quá cho các ngành nông nghiệp và một phần cho ngành
công nghiệp đã duy trì rất nhiều hãng và trang trại không có hiệu quả vẫn tiếp tục
tồn tại. Thậm chí sự phát triển của các xí nghiệp có hiệu quả tiềm tàng lại bị cản trở
Trường đại học kinh tế - ĐHQGHN


13


nghiêm trọng vì tất cả các trang trại đã bóp méo bản chất hoạt động của mình nhằm
mục tiêu kiếm được các khoản trợ cấp tín dụng. Điều này đã làm cho thâm hụt ngân
sách tăng vì phải bù lỗ, tổng thu nhập quốc dân giảm, xuất khẩu giảm, lạm phát
tăng.
Chính những đặc trưng trên đã làm cho môi trường cạnh tranh không bình
đẳng. Nó không kích thích được sự tự do cạnh tranh lành mạnh, bỏ qua sự điều
chỉnh của các quy luật cung cầu, quy luật kinh tế.
- Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, dường như tất cả các nước đều công nhận những lợi ích tuyệt đối
của tự do hoá tài chính so với kiểm soát tài chính. Thông qua phân tích những hậu
quả của cơ chế kiểm soát tài chính, đồng thời nêu ra những ưu thế tuyệt đối của cơ
chế tự do hoá tài chính, nghiên cứu của Mc Kinnon và E.Shaw năm 1973 đã đặt
nền tảng cho xu hướng tự do hoá tài chính được nhiều nước theo đuổi.
Thứ hai, các biện pháp của chính sách tiền tệ được hầu hết các nước áp dụng
chủ yếu là công cụ gián tiếp. Đó chính là một phần rất quan tọng trong xu hướng
rất quan trọng đang chi phối đổi mới chính sách tài chính - tiền tệ hiện nay trên thế
giới là tự do hoá tài chính.
1.2.2. Nhiều nước trên thế giới đã tiến hành tự do hoá tài chính
Kể từ đầu thập niên 70, nhiều quốc gia đã chuyển sang chính sách tự do hóa tài
chính, bắt đầu là từ các nước công nghiệp phát triển, sau đó lan dần sang các nước
đang phát triển.
Năm 2001, Kaminsky và Schmukler nghiên cứu tiến trình tự do hoá tài chính
đã có kết luận:
+ Tiến trình có diễn ra chậm nhưng vẫn tiếp tục trên toàn cầu.
+ Các nước G7 tiến trình tự do hoá tài chính diễn ra nhanh.

Trường đại học kinh tế - ĐHQGHN


14


+ Các nền kinh tế mới nổi Châu Á, nhất là Đông Á tự do hoá tài chính sau năm
1972.
+ Các nền kinh tế mới nổi Mỹ La tinh, tiến trình tự do hoá diễn ra không bằng
phẳng.
+ Các nước Nam Mỹ thực hiện tự do hoá rất nhanh. Sau khủng hoảng nợ năm
1982, tự do hoá tài chính không chú trọng, nhưng đến năm 1989 – 1992, các nước
này đẩy mạnh tiến trình tự do hoá tài chính đúng nghĩa.
Đúng vậy, quá trình tự do hóa ở các nước là khác nhau về thời điểm cải cách,
quy trình và hoàn cảnh phụ thuộc vào tình hình tài chính quốc gia đó. Tuy nhiên ở
một chừng mực nào đó, việc tham khảo kinh nghiệm và những bài học thực tế về
việc mở của thị trường ở một số nước là cần thiết cho các nước đi sau.
1.2.3. Nhà nước chuyển từ kiểm soát sang điều tiết thận trọng tài chính là một
tất yếu khách quan
Những xu thế vận động của chủ nghĩa tư bản hiện đại ngày nay đã cho thấy:
thứ nhất, bắt đầu từ những năm 1980, các nước phương Tây lần lượt bắt tay thực
hiện tư nhân hóa các xí nghiệp quốc doanh. Thứ hai nhà nước chuyển từ kiểm soát
sang thận trọng trong lĩnh vực tài chính theo hướng tự do hóa. Thứ ba, điều tiết mở
rộng cạnh tranh các ngành dịch vụ công cộng. Thứ tư, cải cách cơ chế và thay đổi
mô hình kinh tế. Thứ năm, tiến hành cải cách thể chế kinh tế, nhà nước thực hiện
điều tiết lĩnh vực xã hội thông qua việc bù đắp tổn thất về thu nhập và mở rộng
phúc lợi xã hội.
Từ những nội dung ở trên, ta thấy rằng tự do hóa tài chính là xu thế tất yếu
hội nhập kinh tế quốc tế bởi những tiềm năng to lớn của nó mang lại cho lợi ích
quốc gia. Nhờ tự do hoá tài chính, nhiều nước đang phát triển đã thu hút được
lượng vốn đầu tư rất lớn và tiếp nhận nền tảng công nghệ hiện đại từ các nước công
nghiệp phát triển để mở rộng sản xuất kinh doanh và thúc đẩy xuất khẩu. Tuy

nhiên, trên thực tế, quá trình tự do hóa tài chính nếu thực hiện một cách nôn nóng,
Trường đại học kinh tế - ĐHQGHN

15


sai trình tự hoặc thiếu đồng thời các biện pháp quản lý đồng bộ ở cấp quốc gia và
quốc tế đem lại nhiều hậu quả tiêu cực: lạm phát phi mã, phá sản hàng loạt, thất
nghiệp gia tăng và việc tái thiết lập hệ thống áp chế tài chính. Nó gây nên tình trạng
mỏng manh về tài chính mà các quốc gia đang phát triển và phát triển trong những
năm 80 và 90 đều trải qua. Cụ thể thời điểm đó, khu vực ngân hàng trên toàn thế
giới đã bị trấn động bởi các trục trặc nghiêm trọng, một số đã chuyển thành những
cuộc khủng hoảng tài chính mang tính hệ thống. Ví dụ, tại Chile năm 1981 các trục
trặc trong hệ thống ngân hàng đã nổi lên ngay sau khi chính phủ bãi bỏ các quy
định về kiểm soát khu vực tài chính. Từ đó thấy rằng người ta cần phải cân nhắc
giữa lợi ích của tự do hóa tài chính và cái giá phải trả của tình trạng mỏng manh về
tài chính gia tăng. Những mặt trái của việc mở cửa thị trường tài chính có thể được
khống chế hoặc hạn chế ở mức thấp nhất nếu năng lực cạnh tranh của hệ thống tài
chính nội địa được cải thiện đáng kể trước khi tiến hành mở cửa. Khả năng đó là
hiện thực nếu nó được trợ giúp bởi một chế độ giám sát kiểm tra thận trọng có hiệu
quả và một trình tự mở cửa hợp lý. Và nhiều quan điểm đã nổi lên trong các cuộc
tranh luận chính sách đã đưa ra việc ủng hộ cho một mức kiểm soát nhất định về tài
chính thay vì tự do hóa vội vã tại các quốc gia đang phát triển. Vì vậy, quá trình
thực hiện trình tự từng bước để tự do hóa tài chính, dần dần giảm bớt sự kiểm soát
tài chính của nhà nước là chính sách thực hiện thận trọng tài chính.
Tự do hoá tài chính như đã trình bày ở trên, không phải là một quá trình dễ
dàng, thể hiện bằng việc nhiều quốc gia gặp phải những khó khăn khác nhau khi
tiếp cận tự do hóa tài chính. Vì thế, các nhà hoạch định và thực thi chính sách ở các
quốc gia đang và sẽ tiến hành tự do hóa tài chính cần xác định và đánh giá kỹ
những vấn đề của quá trình tự do hóa mà các quốc gia đi trước đã và đang gặp phải,

nhằm có những cải cách phù hợp, tránh được những khó khăn của tiến trình tự do
hóa tài chính.
Để thực hiện tự do hoá tài chính, các nước cần có:
Trường đại học kinh tế - ĐHQGHN

16


-

Môi trường kinh tế vĩ mô lành mạnh.
Cơ chế thị trường được vận hành tốt.
Năng lực quản lý vĩ mô của chính phủ.
Năng lực, sự phát triển của các định chế tham gia thị trường.

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHUYỂN TỪ ĐIỀU TIẾT SANG THẬN
TRỌNG TÀI CHÍNH
2.1. Trình tự tự do hóa tài chính
Tự do hoá tài chính
Giảm
dự
trữ
bắt
buộc

Bỏ
kiểm
soát
lãi
suất


Đa
dạng
hoá
sở
hữu

Tăng
cạnh
tranh

Bỏ
tín
dụng
chỉ
định

Cải cách
Giảm thâm
tài khoản
hụt ngân
vốn
sách
cách thương
Thực tế quá trình tự do hoá Cải
tài chính
trên thếmại
giới cho thấy không có trình tự
tự do hoá tài chính chung nào cho tất cả các nước. Các quốc gia khác nhau thì tiến
Quản

lý tỷ
giá toàn
hối đoái
hành tự do hoá tài chính theo những
cách
hoàn
khác nhau. Tuy nhiên, theo Mc
Kinnon (1982) lập luận thì tự do hoá tài chính nói riêng và tự do hoá kinh tế nói
chung phải được tiến hành theo trình tự. Lý thuyết “Second Best” (chính sách tốt
nhất thứ hai) được áp dụng. Mô hình của Mc Kinnon và E.Shaw được các nhà kinh
tế chấp nhận (mô hình trên).
Theo mô hình trên, giảm thâm hụt ngân sách là bước đi đầu tiên. Sự thâm hụt
quá lớn trong điều kiện thị trường tài chính chưa phát triển thường dẫn đến việc
Ngân hàng trung ương phát hành nội tệ quá mức gây ra lạm phát cho nền kinh tế.
Thâm hụt tài chính ảnh hưởng xấu đến quá trình tự do hoá tài chính.
Bước đi thứ hai là việc mở cửa thị trường vốn trong nước sao cho người gửi
nhận được lãi suất thực dương (đo là việc tự do hoá lãi suất). Việc vay và cho vay
không hạn chế giữa các doanh nghiệp và hộ gia đình chỉ có thể diễn ra thuận lợi khi
mức giá cả được ổn định và các thâm hụt tài chính được loại trừ.
Trường đại học kinh tế - ĐHQGHN

17


Song song với tự do hoá lãi suất là tự do hoá hoạt động của các ngân hàng và
việc phân bổ các nguồn tín dụng. sua khi các ngân hàng đã quen với cách thức hoạt
động độc lập theo cơ chế thị trường, bước tiêp theo là mở rộng sự tham gia của các
trung gian tài chính mới, cho phép các tổ chức tài chính nước ngoài hoạt động. Tuy
nhiên, quy chế này cũng phải đước nới lỏng dần dần, nếu như hệ thống tài chính
được nới lỏng hoàn toàn và bất ngờ thì các tổ chức mới tham gia sẽ mời chào lãi

suất cao hơn các lãi suất mà các tổ chức tài chính hiện có đang trả nhằm tranh
giành tiền gửi và do vậy buộc các ngân hàng đang hoạt động phải trả lãi suất thị
trường đối với tất cả các khoản tiền gửi (cũ lẫn mới) mặc dù lẽ ra lãi suất đó chỉ
đáng trả cho các khoản vay mới. Kết quả là các ngân hàng này phải chịu lỗ về vốn
đáng kể. Khi các khoản vay này quá lớn so với giá trị tài sản của ngân hàng thì điều
này có thể dẫn đến phá sản.
Bước cuối cùng trong mô hình trên khi thị trường vốn trong nước tự do hoá
hoàn toàn tức là việc vay và cho vay trong nước diễn ra tự do theo lãi suất cân bằng
và tỉ lệ lạm phát trong nước được kiềm chế đến mức việc phá giá đồng tiền theo tỉ
giá hối đoái hiện hành không còn cần thiết thì mới tiến hành tự do hoá tài khoản
vốn: cho phép các doanh nghiệp, hộ gia đình vay hoặc gửi tiền tự do trên các thị
trường vốn quốc tế, cho phép mua bán chứng khoán để huy động vốn tự do, và cuối
cùng là chuyển đổi ngoại tệ tự do trên tài khoản vốn.
2.2. Thực trạng tiến hành tự do hóa ở các nước trên thế giới
Từ tiến trình đó, ta cùng xem các nước trên thế giới đã tiến hành tự do hóa
như thế nào, và liệu có phải các nước đều tiến hành thuận lợi hay không?
Các nước phát triển
Đối với các nước phát triển thì quá trình tự do hóa tiến ra khá nhanh và dễ
dàng. Đa số các nền kinh tế phát triển nhất thế giới như Mỹ, Anh, Đức... đã đạt
được sự tự do hóa tài chính đáng kể ngay từ những năm đầu thập niên 1970, với
quá trình tự do hóa tài chính diễn ra tương đối nhanh và khá dễ dàng. Những nền
Trường đại học kinh tế - ĐHQGHN

18


kinh tế phát triển thực hiện tự do hóa tài chính muộn hơn là Australia, Pháp, Nhật
Bản và Niu Dilan. Australia và Niu Dilan tiến hành loại bỏ các biện pháp áp chế tài
chính rất nhanh chóng chỉ trong vài năm của thập niên 1980. Các biện pháp kiểm
soát tín dụng ngân hàng được bãi bỏ năm 1982, trong khi kiểm soát lãi suất được

dỡ bỏ hoàn toàn năm 1987. Niu Dilan tiến hành tự do hóa lãi suất và phân bổ tín
dụng ngân hàng chỉ trong vòng hai năm 1984- 1985. Pháp và Nhật tiến hành tự do
hóa còn chậm hơn nữa. Chính phủ Nhật đã bắt đầu nới lỏng kiểm soát lãi suất từ
năm 1979, nhưng cho đến giữa thập niên 1990 thì lãi suất mới được tự do hóa hoàn
toàn, kiểm soát tín dụng cũng bị áp đặt cho đến năm 1991 mới được bãi bỏ. Pháp
bắt đầu bỏ tín dụng chỉ định một cách từ từ trong thập niên 1980, chuyển đổi thành
hình thức những khoản cho vay có lãi suất ưu đãi, rồi dần dần mới bãi bỏ hình thức
cho vay kiểu này.
Tiến trình tự do hóa tài chính ở các nước Đông Á
Các nước Đông Á, diễn ra có phần chắc chắn và chậm rãi. Các nền kinh tế
trong khu vực Đông Á mở cửa lĩnh vực tài chính một cách thận trọng, từng bước
một trong giai đoạn đầu thập niên 1980. Quá trình này kéo dài cho đến tận những
năm đầu thập niên 1990. Tuy nhiên, một điểm đáng lưu ý là, mặc dù cũng trải qua
khủng hoảng tài chính vào cuối thập niên 1990, xu hướng tự do hóa ở khu vực này
lại không bị đẩy lùi. Các quốc gia trong khu vực này chỉ tiến hành một số điều
chỉnh nhỏ mang tính áp chế trong khoảng thời gian ngắn rồi sau đó, quá trình tự do
hóa lại tiếp diễn cho đến tận thời điểm hiện tại.
Ví dụ như Hàn Quốc: quá trình tự do hóa thành công khá ngoạn mục. Hàn
Quốc tiến hành tự do hóa từ những năm 80. Tuy nhiên nó cũng gặp phải những khó
khăn như luồng tài chính ngắn hạn chảy vào nhiều năm 1966 dẫn đến một sự bất ổn
định và gây lạm phát.Chương trình cải cách của Hàn Quốc bao gồm cải cách
thương mại và cơ chế tỷ giá với thay đổi lớn trong hệ thống ngân sách. Cơ chế lãi
suất được điều chỉnh tăng tới lãi suất thực dương. Kết quả là giá cả trong nước ổn
định, nền kinh tế có được sự khởi đầu trên con đường phát triển bền vững.
Trường đại học kinh tế - ĐHQGHN

19


Tuy nhiên, không phải quá trình tự do hóa của nước nào trên thế giới cũng

suôn sẻ. Trên thực tế có nhiều nước đã quá vội vã trên con đường tự do hóa tài
chính dẫn đến những cuộc khủng hoảng nghiêm trọng:
Cuộc khủng hoảng ở Chile và Argentina: Đây là 2 nước tiến hành tự do
hóa tài chính sớm nhất, từ những năm 70 với tốc độ tự do hóa tài chính nhanh hơn
cả, mặc dù đây cũng là khu vực có hiện tượng đảo ngược chính sách tự do hóa
trong một số giai đoạn (quay lại chính sách kiềm chế). Chile tiến hành tự do hóa
theo một chiến lược "cấp tốc". Trong khi đó, Argentina cũng bãi bỏ tín dụng chỉ
định và kiểm soát lãi suất, rồi sau đó tự do hóa tài khoản vốn vào cuối thập niên
1970. Tuy nhiên, cả Chile và Argentina lại phải tái áp dụng lại các kiểm soát nói
trên trong cuộc khủng hoảng tài chính đầu thập niên 1980. Thời điểm này Chính
phủ Chile cũng tiến hành quốc hữu hóa một số ngân hàng trong hệ thống tài chính.
Chile tiến hành lại việc dỡ bỏ các biện pháp áp chế vào năm 1984 và tư nhân hóa
các ngân hàng mà Chính phủ quốc hữu hóa vào giữa thập niên 1980. Lần này, các
chính sách thay đổi diễn ra lớn hơn nhiều so với thời điểm đầu thập niên 1970.
Argentina không tác động gì vào khu vực tài chính cho đến cuối thập niên 1980,
khi Chính phủ nước này giảm mạnh sự can thiệp vào hoạt động tín dụng và hoạt
động dự trữ bắt buộc của các ngân hàng (giảm từ gần 90% năm 1987 xuống chỉ còn
15% năm 1996).
Nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng tài chính: cả Chile lẫn Argentina
đều tiến hành tự do hóa lãi suất, tư nhân hóa các ngân hàng quốc doanh, thúc đẩy
cạnh tranh ngành ngân hàng trong một giai đoạn nền kinh tế không thật sự ổn định
về mặt vĩ mô. Đồng thời cơ chế giám sát cũng không được quan tâm đúng mức.
Hơn thế nữa, các quốc gia này còn tiến hành tự do hóa tài khoản vốn chỉ một thời
gian ngắn sau khi các cải cách khu vực tài chính nói trên được thực hiện. Kết quả là
dòng vốn nước ngoài đổ vào hai nước này rất mạnh, nợ nước ngoài tăng lên nhanh
chóng. Cho đến đầu thập niên 1980 thì cả hai quốc gia này đã phải đối mặt với
khủng hoảng vĩ mô khá trầm trọng.
Trường đại học kinh tế - ĐHQGHN

20



Các ý kiến đánh giá về sự thất bại của tự do hóa tài chính ở Chile và
Argentina trong thập kỷ 1980 đều cho rằng, hai quốc gia này đã mắc sai lầm khi lựa
chọn trình tự tự do hóa tài chính. McKinnon nhấn mạnh, trước khi tiến hành tự do
hóa tài chính trong nước thì cần phải ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, thực hiện
cải cách khu vực kinh tế thực, và thiết lập một hệ thống giám sát hiệu quả. Khi
những nền tảng cơ bản này đã được thiết lập, các nhà hoạch định chính sách mới
nên bắt đầu tự do hóa lãi suất và dỡ bỏ kiểm soát tín dụng. Sau đó, cạnh tranh trong
ngành tài chính cần được khuyến khích nhằm tạo ra tính hiệu quả, ngăn chặn độc
quyền và đầu cơ. Tự do hóa tài khoản vốn nên được thực hiện vào cuối của quá
trình cải cách, nhằm ngăn chặn tình trạng dòng vốn chảy vào quá nhanh và bất ngờ,
tạo ra tình trạng đầu tư tràn lan đầy rủi ro vào những lĩnh vực thiếu hiệu quả. Trên
thực tế, cải cách môi trường kinh tế vĩ mô lại không phải là ưu tiên của nhiều quốc
gia trước khi tiến hành tự do hóa khu vực tài chính. Chile, Niu Dilan, Peru và Thổ
Nhĩ Kỳ bắt đầu dỡ bỏ áp chế tài chính trong điều kiện kinh tế vĩ mô không ổn định.
Argentina, Brazil, Ai Cập, Mehicô và Venezuela thậm chí còn tiến hành giảm điều
tiết khu vực tài chính khi lạm phát trong nền kinh tế còn đang ở mức cao. Một yếu
tố quan trọng nữa trong ổn định vĩ mô phải kể đến là mức thâm hụt ngân sách,
những nước có mức thâm hụt ngân sách trước cải cách cao (trên 5% GDP) sẽ gặp
nhiều khó khăn hơn những quốc gia duy trì mức cân bằng ngân sách hợp lý.
Đối với Thái Lan: Đây là nước được xem là châm ngòi cho cuộc khủng
hoảng tài chính tiền tệ tại châu Á vào năm 1997-1998. Cuộc khủng hoảng là một
điều tất yếu và nguyên nhân chính của nó là do các nước trong khu vực đã qua vội
vã trong việc tự do hóa tài chính. Thái Lan đã áp dụng cơ chế tỷ giá cố định khi nền
kinh tế chưa thực sự ổn định, khu vực tài chính ngân hàng còn bộc lộ nhiều yếu
kém cộng với những cải các khác chưa thực hiện theo tiến trình tự do hóa. Một
trong những sai lầm lớn nhất là việc Thái Lan đã mở cửa tài khoản vốn quá sớm
làm cho một dòng nợ, nhất là nợ ngắn hạn khổng lồ đổ vào kết hợp với chính sách
Trường đại học kinh tế - ĐHQGHN


21


×