Tải bản đầy đủ (.pdf) (65 trang)

MỐI QUAN HỆ CẠNH TRANH GIỮA NHÀ NƯỚC VÀ CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA 2016 2017

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 65 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

CHUYÊN ĐỀ

MỐI QUAN HỆ CẠNH TRANH GIỮA NHÀ NƯỚC
VÀ CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA

Giảng viên: PGS. TS Kim Ngọc
Nhóm sinh viên thực hiện: nhóm 11
1.

Lâm Thị Phương Chi

2.

Nguyễn Khắc Trường Giang

3.

Nguyễn Tuấn Long

4.

Vũ Đức Long

5.

Nguyễn Đức Mỹ

6.



Đào Thanh Tú

Hà Nội, tháng 12/2015
1


MỤC LỤC
MỤC LỤC ....................................................................................................................... i
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ..................................................................................... iii
DANH MỤC BẢNG ..................................................................................................... iv
DANH MỤC HÌNH ........................................................................................................v
LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................................1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CHUNG VỀ MỐI QUAN HỆ CẠNH TRANH GIỮA
NHÀ NƯỚC VÀ CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA. ......................................................3
1.1. Những lý luận chung về Nhà nước .............................................................................. 3
1.1.1. Khái niệm và bản chất của Nhà nước ................................................................... 3
1.1.2. Đặc trưng cơ bản của Nhà nước .......................................................................... 4
1.1.3. Chức năng cơ bản của Nhà nước......................................................................... 5
1.2. Những lý luận chung về Công ty xuyên quốc gia ......................................................... 7
1.2.1. Khái niệm về Công ty xuyên quốc gia ................................................................... 7
1.2.2. Bản chất của công ty xuyên quốc gia .................................................................... 8
1.2.3. Chiến lược chủ yếu của Công ty xuyên quốc gia ................................................ 10
1.3. Mối quan hệ cạnh tranh giữa Nhà nước và Công ty xuyên quốc gia ......................... 12
1.3.1. Khái niệm về quan hệ cạnh tranh ........................................................................ 12
1.3.2. Ý nghĩa của cạnh tranh ....................................................................................... 15
1.3.3. Những nhân tố chi phối sự cạnh tranh giữa Nhà nước và công ty xuyên quốc gia
..................................................................................................................................... 17

CHƯƠNG 2. MỐI QUAN HỆ CẠNH TRANH GIỮA NHÀ NƯỚC VÀ CÔNG TY

XUYÊN QUỐC GIA .....................................................................................................19
2.1. Mối quan hệ cạnh tranh giữa Nhà nước và công ty xuyên quốc gia trên lĩnh vực tài
chính, tiền tệ..................................................................................................................... 19
2.1.1. Những mặt tích cực trên lĩnh vực tài chính, tiền tệ .............................................. 19
2.1.2. Mối quan hệ cạnh tranh trên lĩnh vực tài chính: Chuyển giá ................................ 19
2.2. Mối quan hệ cạnh tranh giữa Nhà nước và công ty xuyên quốc gia trên lĩnh vực
thương mại....................................................................................................................... 25
2.2.1. Mặt tích cực trên lĩnh vực thương mại ................................................................ 25
2.2.2. Cạnh tranh trên lĩnh vực thương mại: Bảo hộ mậu dịch ...................................... 26
2.3. Mối quan hệ cạnh tranh giữa Nhà nước và công ty xuyên quốc giaở lĩnh vực đầu tư.
......................................................................................................................................... 31
2.3.1 Đầu tư nước ngoài và những mặt tích cực. ......................................................... 31
2.3.2 Đầu tư và mối quan hệ cạnh tranh giữa các công ty xuyên quốc gia và Nhà nước.
..................................................................................................................................... 32
i


2.4 Mối quan hệ cạnh tranh giữa nhà nước và công ty xuyên quốc gia trên lĩnh vực khoa
học và công nghệ ............................................................................................................. 41
2.4.1 Chuyển giao công nghệ và những mặt tích cực ................................................... 42
2.4.2 Sự cạnh tranh trong lĩnh vực chuyển giao công nghệ .......................................... 43
2.4.3 Case study về Boeing và Trung Quốc: Khi nhà nước có lợi thế cạnh tranh ......... 45

CHƯƠNG 3. ĐÁNH GIÁ VỀ TÁC ĐỘNG CỦA MỐI QUAN HỆ CẠNH TRANH
GIỮA NHÀ NƯỚC VÀ CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA VÀ XU HƯỚNG VỀ MỐI
QUAN HỆ CẠNH TRANH TRONG TƯƠNG LAI ....................................................48
3.1 Tác động tích cực....................................................................................................... 48
3.1.1 Tác động đối với nước nhận đầu tư ..................................................................... 49
3.1.2. Tác động đến nước đi đầu tư.............................................................................. 51
3.2. Xu hướng về mối quan hệ cạnh tranh trong tương lai ............................................... 52


KẾT LUẬN ...................................................................................................................57
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................................58

ii


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

1
2

Chữ
viết tắt
CFA
DOC

3

FAO

4

FDI

Catfish Farmers Of America
Department of Commerce
Food and Agriculture
Organization of the United
Nations)

Foreign direct investment

5

G20

Group of Twenty

6

GATS

7

ITC

8

M&A

9

NAFTA

10

OECD

STT


Nguyên nghĩa Tiếng Anh

General Agreement on
Trade in Services
International Trade
Commission
Mergers and Acquisitions
North America Free Trade
Agreemen
Organization for Economic
Cooperation and
Development

11

TRIPs

Trade-Related aspects of
Intellectual Property rights

12

UAE

United Arab Emirates

13

UNCTAD


14

VASEP

15

WTO

United Nations Conference
on Trade and Development
Vietnam Association of
Seafood Exporters and
Producers
World Trade Organization

iii

Nguyên nghĩa Tiếng Việt
Hiệp hội các nhà nuôi cá Catfish Mỹ
Bộ Thương mại Mỹ
Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp
Liên Hiệp Quốc
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Nhóm những quốc gia có nền kinh tế
lớn
Hiệp định chung về thương mại và
dịch vụ
Ủy ban thương mại quốc tế
Sáp nhập và mua lại
Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ

Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế
Hiệp định về các khía cạnh của quyền
sở hữu trí tuệ liên quan đến thương
mại
Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống
nhất
Hội nghị Liên Hiệp Quốc về Thương
mại và Phát triển
Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy
sản Việt Nam
Tổ chức thương mại thế giới


DANH MỤC BẢNG

STT

Số hiệu

Tên bảng

Trang

1

Bảng 2.1

Tỉ lệ dịch chuyển chất xám ở một số nước trên thế
giới năm 2014.


40

iv


DANH MỤC HÌNH

STT

Số hiệu

Tên hình

Trang

1

Hình 2.1

Tình trạng khí thải CO ở một số khu vực trên thế giới từ
năm 1990 đến năm 2015 và dự báo đến năm 2030.

37

2

Hình 2.2

Sơ đồ chuyển giao công nghệ được đổi mới thông qua
quá trình


44

v


LỜI MỞ ĐẦU

Trong vài thập niên trở lại đây nền kinh tế thế giới phát triển mạnh mẽ dưới tác
động của toàn cầu hóa. Sự phát triển vượt bậc của sản xuất trong chủ nghĩa tư bản tất
yếu dẫn đến sự ra đời và phát triển chưa từng có của các công ty xuyên quốc gia. Đến
nay có gần khoảng 60000 công ty xuyên quốc gia đang kiểm soát 2/3 nền thương mại
thế giới, 4/5 nguồn vốn đầu tư trực tiếp ở nước ngoài và 9/10 kết quả nghiên cứu và
chuyển giao công nghệ thế giới. Các công ty xuyên quốc gia có thể mang lại những lợi
ích kinh tế khổng lồ cho cả các nước phát triển và các nước đang phát triển. Với sức
mạnh như vậy các công ty xuyên quốc gia không những có ưu thế trong phân phối tài
nguyên trên phạm vi thế giới giúp cho việc thúc đẩy phân công lao động quốc tế đi vào
chi tiết hoá mà còn thông qua việc toàn cầu hoá sản xuất và kinh doanh để đẩy nhanh
tiến trình toàn cầu hoá kinh tế.
Toàn cầu hoá là một xu thế tất yếu song tốc độ của toàn cầu hoá phụ thuộc rất
nhiều vào chính sách của các quốc gia. Chính phủ các nước có vai trò quan trọng trong
việc điều tiết tầm ảnh hưởng của toàn cầu hóa nói chung và sự thâm nhập của các công
ty xuyên quốc gia nói riêng. Các công ty xuyên quốc gia có thể tận dụng ưu thế khai
thác lợi nhuận bằng việc tăng qui mô kinh doanh giảm giá cho người tiêu dùng...
nhưng Chính phủ các nước sẽ không hài lòng trong việc nới lỏng các kiểm soát liên
quan. Trong bối cảnh hội nhập toàn cầu thì cạnh tranh là một trong những quy luật của
nền kinh tế thị trường. Song mối quan hệ cạnh tranh giữa các công ty xuyên quốc gia
và Nhà nước rất phức tạp. Một mặt quan điểm cho rằng Chính phủ can thiệp quá nhiều
trong quá trình tạo ra của cải và gây cản trở hơn là giúp thương mại. Quan điểm khác
lại miêu tả công ty xuyên quốc gia như những "động vật ăn thịt" mà Chính phủ cần

kiểm soát. Mối quan hệ giữa Nhà nước và các công ty xuyên quốc gia hiện nay đang là
điểm nóng xã hội quan tâm, đặc biệt là mối quan hệ cạnh tranh kinh tế giữa Nhà nước
và công ty xuyên quốc gia.
Chính vì thế, nhóm đã quyết định chọn đề tài về “ Mối quan hệ cạnh tranh giữa
Nhà nước và công ty toàn cầu” để nghiên cứu, có cái nhìn rõ hơn về thực trạng bản
1


chất của mối quan hệ cạnh tranh, nhìn nhận xu hướng phát triển của mối quan hệ cạnh
tranh từ phía cả hai bên trong trong lai.
Để tìm hiểu rõ về mối quan hệ cạnh tranh giữa Nhà nước và công ty xuyên quốc
gia, nhóm tiến hành nghiên cứu đề tài theo bố cục ba chương :
Chương 1: Cơ sở lý luận chung về mối quan hệ cạnh tranh giữa Nhà nước
và công ty xuyên quốc gia.
Ở chương này, các khái niệm liên quan đến công ty xuyên quốc gia và quan hệ
cạnh tranh sẽ được nêu ra. Chương 1 cũng sẽ đưa ra những nhân tố chi phối sự cạnh
tranh giữa Nhà nước và công ty xuyên quốc gia.
Chương 2: Mối quan hệ cạnh tranh giữa Nhà nước và công ty xuyên quốc
gia.
Ở chương này nhóm sẽ tập trung trình bày những biểu hiện của mối quan hệ
cạnh tranh giữa Nhà nước và công ty xuyên quốc gia, thể hiện trên các lĩnh vực như tài
chính tiền tệ, thương mai, đầu tư và khoa học kĩ thuật.
Chương 3: Đánh giá về tác động của mối quan hệ cạnh tranh giữa nhà nước
với công ty xuyên quốc gia và xu hướng về mối quan hệ cạnh tranh trong tương
lai
Từ những biểu hiện mối quan hệ cạnh tranh giữa Nhà nước và công ty xuyên
quốc gia, ở chương này nhóm sẽ trình bày những tác động của mối quan hệ cạnh tranh
xét ở tác động tích cực và tiêu cực. Bên cạnh đó đưa ra những dự báo cho mối quan hệ
cạnh tranh này trong tương lai.


2


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CHUNG VỀ MỐI QUAN HỆ
CẠNH TRANH GIỮA NHÀ NƯỚC VÀ CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA.
1.1. Những lý luận chung về Nhà nước
1.1.1. Khái niệm và bản chất của Nhà nước
a. Các khái niệm về Nhà nước
Từ nghiên cứu nguồn gốc Nhà nước, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin
đi đến kết luận Nhà nước là “sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp
không thể điều hòa được.” Nhà nước trước hết là “bộ máy trấn áp đặc biệt của giai cấp
này đối với giai cấp khác.” Tiền đề kinh tế cho sự ra đời Nhà nước là chế độ tư hữu tài
sản. Tiền đề xã hội cho sự ra đời Nhà nước là sự phân chia xã hội thành các giai cấp
(hoặc các tầng lớp xã hội) mà giữa các giai cấp, tầng lớp đó, những lợi ích cơ bản đối
kháng nhau đến mức không thể điều hoà được. Chính vì vậy, “Nhà nước” được hiểu là
“hình thức (phương thức) tổ chức xã hội có giai cấp, là tổ chức quyền lực chính trị
công cộng đặc biệt, có chức năng quản lý xã hội để phục vụ lợi ích trước hết cho giai
cấp thống trị và thực hiện những hoạt động nảy sinh từ bản chất của xã hội.”
Theo Từ điển lịch sử pháp luật Châu Âu: Nhà nước là một tổ chức thỏa mãn ba
điều kiện dân cư, lãnh thổ và quyền lực. Nhà nước trước hết phải có dân cư, bao gồm
những người có cùng chung một quốc tịch. Ngoài ra, Nhà nước nào cũng có một lãnh
thổ giới hạn, trong đó dân cư sinh sống và tổ chức quyền lực. Bên cạnh đó, Nhà nước
phải có chủ quyền, chủ quyền ấy thể hiện ở việc quản lý của Nhà nước đối với dân cư
theo lãnh thổ, thể hiện ở quyền tự quyết của Nhà nước đó trong các vấn đề đối nội và
đối ngoại. Nhà nước có thể được gọi tắt, thông qua những đại diện như các cơ quan
Nhà nước, nhân viên Nhà nước hoặc các tổ chức.
Theo Lý luận chung Nhà nước và pháp luật: Nhà nước là một tổ chức đặc biệt
của quyền lực chính trị, một bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện các
chức năng quản lý đặc biệt nhằm duy trì trật tự xã hội với mục đích bảo vệ địa vị của
giai cấp thống trị trong xã hội.

Theo Từ điển luật học: Nhà nước là tổ chức quyền lực chính trị của xã hội có giai
cấp, có lãnh thổ, dân cư, và chính quyền độc lập, có khả năng đặt ra và thực thi pháp
3


luật nhằm thiết lập trật tự xã hội nhất định trong phạm vi lãnh thổ của mình.
Mỗi một cách tiếp cận đều phản ánh nhận thức, lợi ích và sự phát triển đa dạng
của Nhà nước ở các giai đoạn lịch sử khác nhau nhưng có thể tóm lại một định nghĩa
đơn giản nhất về Nhà nước, đó là Nhà nước, hiểu theo nghĩa pháp luật, là một tổ chức
xã hội đặc biệt của quyền lực chính trị được giai cấp thống trị thành lập nhằm thực
hiện quyền lực chính trị của mình.
b. Bản chất
Vấn đề bản chất của Nhà nước thể hiện ở tính giai cấp, vai trò xã hội của Nhà
nước và những đặc trưng cơ bản của Nhà nước. Làm rõ bản chất của Nhà nước tức là
phải xác định: Nhà nước là của ai, do giai cấp nào tổ chức nên và lãnh đạo, phục vụ
trước hết lợi ích giai cấp nào.
- Tính giai cấp
Nhà nước, xét về mặt bản chất, trước hết là một bộ máy trấn áp đặc biệt của giai
cấp này đối với giai cấp khác, là bộ máy dùng để duy trì sự thống trị giai cấp (về mặt
kinh tế, chính trị, tư tưởng).
Nhà nước là sản phẩm của xã hội có giai cấp và là sự biểu hiện của sự không thể
điều hòa được của các mâu thuẩn giai cấp đối kháng. Nhà nước chỉ sinh ra và tồn tại
trong xã hội có giai cấp và bao giờ cũng thể hiện tính giai cấp sâu sắc.
Bản chất đó thể hiện ở chỗ Nhà nước là một bộ máy cưỡng chế đặc biệt nằm
trong tay giai cấp cầm quyền, là công cụ sắc bén để thể hiện và thực hiện ý chí của giai
cấp cầm quyền. Nó củng cố và bảo vệ trước hết lợi ích của giai cấp thống trị trong xã
hội có giai cấp cầm quyền.
- Tính xã hội
Tính xã hội và giá trị xã hội của Nhà nước thể hiện ở chỗ: Nhà nước giải quyết
các công việc mang tính xã hội mà cá nhân công dân không thể giải quyết được. Như

vậy, song song với việc bảo vệ quyền lợi của giai cấp cầm quyền, Nhà nước còn đồng
thời phải đảm đương các công việc công ích, vì lợi ích chung của toàn xã hội như đắp
đê, làm đường xá, bảo vệ trật tự công cộng
1.1.2. Đặc trưng cơ bản của Nhà nước
Mặc dù có sự khác nhau về bản chất và ở những khía cạnh cụ thể nhưng mọi Nhà
nước đều có những dấu hiệu chung ( đặc trưng chung). Với những đặc trưng chung đó,
4


Nhà nước được phân biệt với tổ chức của xã hội thị tộc- bộ lạc và với các tổ chức
chính trị - xã hội khác mà giai cấp thống trị thiết lập và sử dụng để quản lý xã hội.
Đồng thời, các đặc trưng đó cũng làm cho Nhà nước trở thành một tổ chức đặc biệt,
giữ vị trí trung tâm, trụ cột trong hệ thống chính trị, có thể tác động một cách toàn
diện, mạnh mẽ và có hiệu quả nhất đối với đời sống xã hội, thể hiện và thực hiện lợi
ích của giai cấp thống trị một cách tập trung nhất. Và bản chất của Nhà nước thể hiện
ở đặc trưng cơ bản của nó. Bất kỳ Nhà nước nào cũng gồm có 5 dấu hiệu đặc trưng cơ
bản sau:
Thứ nhất, Nhà nước quản lý dân cư trên một vùng lãnh thổ nhất định,có quyền
lực với mọi thành viên không phân biệt huyết thống.
Thứ hai, Nhà nước có một bộ máy quyền lực chuyên nghiệp bao gồm bộ máy
quản lý hành chính và các đội vũ trang đặc biệt ( quân đội, cảnh sát, nhà tù...), mang
tính cưỡng chế đối với mọi thành viên trong xã hội.
Thứ ba, Nhà nước hình thành hệ thống thuế khóa để duy trì và tăng cường bộ
máy cai trị.
Thứ tư, Nhà nước có chủ quyền quốc gia.
Thứ năm, Nhà nước ban hành pháp luật và thực hiện sự quản lý bắt buộc đối với
mọi công dân.
1.1.3. Chức năng cơ bản của Nhà nước
Trong lý luận về Nhà nước, chức năng Nhà nước được hiểu là những phương
hướng, phương diện hoặc những mặt hoạt động chủ yếu của Nhà nước nhằm thực hiện

các nhiệm vụ cơ bản của Nhà nước. Bản chất giai cấp của Nhà nước được thể hiện ở
các chức năng của nó. Tùy theo góc độ khác nhau, chức năng của Nhà nước được phân
chia khác nhau. Dưới góc độ tính chất của quyền lực chính trị, Nhà nước có chức năng
giai cấp và chức năng xã hội.
Chức năng giai cấp của Nhà nước (chức năng thống trị chính trị của giai cấp): là
chức năng Nhà nước làm công cụ chuyên chính của một giai cấp nhằm bảo vệ sự

5


thống trị giai cấp đó đối với toàn thể xã hội. Chức năng giai cấp của Nhà nước bắt
nguồn từ lý do ra đời của Nhà nước và tạo thành bản chất chủ yếu của nó.
Chức năng xã hội của Nhà nước là chức năng Nhà nước thực hiện sự quản lý
những hoạt động chung vì sự tồn tại của xã hội, thỏa mãn một số nhu cầu chung của
cộng đồng dân cư nằm dưới sự quản lý của Nhà nước.
Trong hai chức năng đó thì chức năng thống trị chính trị là cơ bản nhất có vai trò
chi phối chức năng xã hội phải phụ thuộc và phục vụ cho chức năng thống trị chính trị.
Giai cấp thống trị bao giờ cũng biết giới hạn kiện toàn cách thực hiện chức năng xã hội
trong khuôn khổ lợi ích của mình. Song, chức năng xã hội lại là cơ sở cho việc thực
hiện chức năng giai cấp. Bởi vì chức năng giai cấp chỉ có thể được thực hiện thông qua
chức năng xã hội.
Dưới góc độ phạm vi hoạt động của Nhà nước, Nhà nước có chức năng đối nội
và chức năng đối ngoại. Sự thống trị chính trị và sự thực hiện chức năng xã hội của
Nhà nước thể hiện trong lĩnh vực đối nội cũng như trong đối ngoại.
Chức năng đối nội của Nhà nước là những mặt hoạt động chủ yếu của Nhà nước
trong nội bộ đất nước, nhằm duy trì trật tự kinh tế, xã hội, chính trị và những trật tự
khác hiện có trong xã hội. Thông thường điều đó phải được pháp luật hóa và được
thực hiện nhờ sự cưỡng bức của bộ máy Nhà nước. Ngoài ra, Nhà nước còn sử dụng
nhiều phương tiện khác (bộ máy thông tin, tuyên truyền, các cơ quan văn hóa, giáo
dục...) để xác lập, củng cố tư tưởng, ý chí của giai cấp thống trị, làm cho chúng trở

thành chính thống trong xã hội.
Chức năng đối ngoại của Nhà nước là những phương hướng hoạt động cơ bản
của Nhà nước trong quan hệ quốc tế, nhằm bảo vệ biên giới lãnh thổ quốc gia và thực
hiện các mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội với các Nhà nước khác vì lợi ích của
giai cấp thống trị cũng như lợi ích quốc gia, khi lợi ích quốc gia không mâu thuẫn với
lợi ích của giai cấp thống trị. Ngày nay, trong xu thế hội nhập khu vực và quốc tế, việc
mở rộng chức năng đối ngoại của Nhà nước có tầm quan trọng đặc biệt.

6


Chức năng đối nội và đối ngoại có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ, tác động
lẫn nhau, trong đó chức năng đối nội giữ vai trò chủ đạo, có tính quyết định đối với
chức năng đối ngoại. Việc thực hiện chức năng đối ngoại phải xuất phát từ chức năng
đối nội và nhằm mục đích phục vụ chức năng đối nội. Cả hai chức năng đối nội và đối
ngoại của Nhà nước đều xuất phát từ lợi ích của giai cấp thống trị.
1.2. Những lý luận chung về Công ty xuyên quốc gia
1.2.1. Khái niệm về Công ty xuyên quốc gia
Trước xu hướng mạnh mẽ của toàn cầu hóa, nhiều quốc gia mở cửa thu hút đầu
tư từ các công ty xuyên quốc gia. Thế độc tôn trong chi phối quan hệ quốc tế bởi các
quốc gia đang dần bị phá vỡ bởi sự nổi lên của các chủ thể phi quốc gia, trong đó công
ty xuyên quốc gia là một trong những chủ thể phi quốc gia quan trọng nhất. Các hoạt
động của Công ty xuyên quốc gia không còn giới hạn ở một số lĩnh vực chuyên doanh
nữa mà đã chuyển sang đa doanh và có phạm vi ảnh hưởng toàn cầu. Bởi thế, đã xuất
hiện thuật ngữ công ty xuyên quốc gia. Một công ty trở thành doanh nghiệp toàn cầu
khi nó hội nhập tất cả các đơn vị cấu thành của nó và tập trung chiến lược marketing
trên quy mô toàn cầu.
Các doanh nghiệp toàn cầu là công ty hoạt động trên phạm vi toàn cầu, các chiến
lược kinh doanh và những tư duy hành động của nó đều hướng ra toàn Thế Giới
(World-Orientation) - Đây là một xu thế và là mục tiêu của các công ty lớn hiện nay

trong điều kiện quá trình quốc tế hóa kinh tế diễn ra ngày càng sâu sắc. Công ty xuyên
quốc gia tiếp thị sản phẩm của mình thông qua việc sử dụng phối hợp cùng một hình
ảnh hoặc thương hiệu trong tất cả các thị trường. Công ty xuyên quốc gia về bản chất
là công ty xuyên quốc gia hoạt động trên quy mô toàn cầu. Thuật ngữ này chỉ phản
ánh đặc điểm của công ty xuyên quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, còn về
bản chất và định nghĩa vẫn không có sự khác biệt đáng kể.
Khi nói về công ty toàn cầu chính là đang nói về công ty xuyên quốc gia hay
ngược lại. Trong phạm vi bài nghiên cứu, chúng tôi xin được thống nhất dùng thật ngữ
Công ty xuyên quốc gia xuyến suốt chuyên đề. Chúng đều có đặc điểm chung:
- Hoạt động vượt khỏi biên giới quốc gia.
7


- Có nhiều chi nhánh ở nước ngoài (Theo trường phái Havard: số chi nhánh ở
nước ngoài của MNCs tối thiểu là 6 và doanh thu từ các chi nhánh nước ngoài phải
chiếm ít nhất 1/3 tổng doanh thu của công ty).
Sự khác biệt chủ yếu chỉ là tên gọi và vấn đề sở hữu vốn và các quá trình công
nghệ.
1.2.2. Bản chất của công ty xuyên quốc gia
Quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, tư bản đã dẫn đến những biến đổi quan
trọng về lượng và chất trong các mặt quan hệ sản xuất mà khâu quan trọng nhất là
quan hệ sở hữu. Do đó khi nghiên cứu về bản chất của các công ty xuyên quốc gia cần
nghiên cứu trên hai mặt, đó là về hình thức sở hữu và tổ chức quản lý tại các công ty
này.
 Hình thức sở hữu
Kể từ khi cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật bùng nổ mạnh mẽ đã tạo ra những
sự thay đổi các quan hệ pháp lý của các chủ sở hữu trong các công ty xuyên quốc gia.
Ngày nay, hình thức sở hữu tại các công ty xuyên quốc gia tồn tại chủ yếu dưới hai
nhìn thức sở hữu sau:
Thứ nhất là hình thức sở hữu độc quyền siêu quốc gia, đây là hình thức sở hữu

hỗn hợp đã được quốc tế hoá. Hình thức sở hữu này mang tính khách quan tạo nên bởi
quá trình tích tụ, tập trung hoá và xã hội hoá sản xuất trên quy mô quốc tế của chủ
nghĩa tư bản, dưới sự tác động mạnh mẽ và sâu sắc của cuộc cách mạng khoa học –
công nghệ và của các quy luật cạnh tranh, quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư
bản. Theo hình thức sở hữu này các công ty xuyên quốc gia tồn tại dưới hình thức các
tổ hợp đa ngành khác nhau và các xí nghiệp chi nhánh của nó là các xí nghiệp liên
doanh với số lượng cá thể đồng sở hữu từ hai đến bốn nước hoặc nhiều hơn nhưng với
tỷ lệ vốn góp khác nhau. Điều này đã phản ánh tính chất đa dạng, phức tạp và tính chất
hỗn hợp của loại hình sở hữu tại các công ty xuyên quốc gia.
Thứ hai là hình thức sở hữu hỗn hợp, hình thức sở hữu này được tạo ra do sự
thay đổi về căn bản địa vị và vai trò của những người công nhân, trí thức làm việc trực
8


tiếp trong các ngành nghề khác nhau, đặc biệt là các ngành nghề có hàm lượng khoa
học và công nghệ cao và nó có tác động lớn tới chất lượng của lao động và sản xuất.
Loại hình sở hữu này diễn ra theo hướng phát triển số người có cổ phần trong các công
ty xuyên quốc gia nhưng với tỷ trọng sở hữu cổ phần trong tổng số vốn kinh doanh
không lớn.
Như vậy, sự biến đổi của hình thức sở hữu trong Công ty xuyên quốc gia là thay
đổi rất căn bản đặc trưng cho quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong chủ nghĩa tư bản
hiện đại. Có thể thấy rằng, công ty không còn là sở hữu của một người, hay một quốc
gia nữa, mà là sở hữu hỗn hợp quốc tế, có “quốc tịch” của một nước nhất định.


Tổ chức quản lý

Việc tổ chức quản lý sản xuất và các hoạt động kinh tế đã dịch chuyển từ kiểu đại
trà, được tiêu chuẩn hoá theo hàng loạt lớn sang kiểu sản xuất loại nhỏ và linh hoạt theo
đơn đặt hàng. Đồng thời có sự dịch chuyển từ các tổ chức có quy mô lớn được liên kết

theo chiều dọc sang phi liên kết kiểu mạng lưới theo chiều ngang giữa các đơn vị kinh tế
trong nước và nước ngoài. Điều đó đã làm xuất hiện liên kết Công ty xuyên quốc gia
kiểu mới, kiểu các vệ tinh xoay quanh một công ty gốc tạo nên một mạng lưới phủ lên
thị trường các nước. Đây là sự chuyển hóa về mặt tổ chức quản lý của mọi hoạt động
kinh tế để tăng cường tính linh hoạt và khả năng thích ứng với thị trường đang được đa
dạng hóa và biến đổi từng ngày, từng giờ. Phương thức tổ chức quản lý sản xuất tại các
công ty xuyên quốc gia ngày nay luôn biến đổi theo các xu thế sau:
Thứ nhất là phi hàng loạt hoá và đa dạng hoá sản các phẩm: việc tổ chức quản
lý sản xuất các sản phẩm được tiến hành theo loạt nhỏ hay đơn chiếc theo đúng yêu
cầu và thị hiếu đa dạng của khách hàng.
Thứ hai là phi chuyên môn hoá: việc sản xuất sản phẩm được tổ chức quản lý
theo phương thức cấu tạo tổ hợp các khối cấu kiện, phụ kiện chứ không từ hàng trăm,
hàng ngàn cấu kiện được sản xuất chuyên môn hó như trước
Thứ ba là phi tập trung hoá: quá trình sản xuất được phân bố và được tổ chức
quản lý trên diện rộng trong các chi nhánh và đơn vị sản xuất nhỏ và vừa, với các
9


nguồn nhân lực, vật lực và tài lực phân tán trên quy mô quốc gia và quốc tế. Với mục
tiêu của các công ty ngày nay không chỉ là chế tạo ra các sản phẩm với giá thành thấp
trong phạm vi một nước, mà với giá thành thấp trên phạm vi toàn cầu, Công ty xuyên
quốc gia đã tiến hành tổ chức và quản lý việc phân công lao động, sản xuất vượt qua
biên giới các quốc gia. Nhờ các thành tựu của tin học và viễn thông, Công ty xuyên
quốc gia tiến hành phân bố sản xuất theo hướng phân tán: tiến hành nghiên cứu, thiêt
kế sản phẩm ở một nước, sản xuất các yếu tố cấu thành ở nước thứ hai, lắp ráp ở nước
thứ ba, tiêu thụ sản phẩm ở nước thứ tư và lợi nhuận đầu tư vào nước thứ năm…Nhờ
vậy mà Công ty xuyên quốc gia giảm được chi phí vận chuyển, tránh được các hàng
rào bảo hộ chuyển giao năng lực thiết kế và phát triển sản phẩm cho các nước khác.
Thứ tư là tổ chức quản lý từ xa: dưới tác động của sự phát triển ngành khoa học
viễn thông, tổ chức quản lý từ xa ngày càng được ứng dụng rộng rãi, đặc biệt là tại các

công ty xuyên quốc gia. Áp dụng hình thức quản lý này sẽ tiết kiệm được thời gian,
chi phí cho các nhà quản lý.
Thứ năm là quốc tế hoá và toàn cầu hoá hoạt động tổ chức quản lý: Trong nền
kinh tế mới mang tính chất toàn cầu, tất cả các yếu tố như vốn tư bản, các thị trường,
lao động, thông tin và công nghệ đều được tổ chức quản lý xuyên qua các đường biên
giới quốc gia. Việc tổ chức và quản lý các hoạt động sản xuất, kinh doanh, thương mại
và dịch vụ không những đã được quốc tế hoá mà còn đang được toàn cầu hoá trong
quá trình thâm nhập qua lại giữa các hoạt động kinh tế và nền kinh tế của các quốc gia
trên quy mô thế giới. Trong đó Công ty xuyên quốc gia có vai trò và lợi thế to lớn, do
chúng có nhiều ưu thế về nguồn lực, tri thức, thông tin cần thiết đối với việc tổ chức
quản lý sản xuất và tiêu thụ các hàng hóa và dịch vụ trên quy mô quốc tế.
1.2.3. Chiến lược chủ yếu của Công ty xuyên quốc gia
a. Chiến lược quốc tế hóa/ toàn cầu hóa
- Chiến lược toàn cầu hóa (Global strategy) là chiến lược doanh nghiệp
coi thị trường toàn cầu như một thị trường thống nhất nên doanh nghiệp lựa chọn sử
dụng công nghệ, dây truyền sản xuất như nhau, cung cấp những sản phẩm, dịch vụ
được tiêu chuẩn hóa, đồng nhất và giống nhau trên toàn thế giới. Như vậy, đây là chiến

10


lược có thể thích hợp với các doanh nghiệp đang phải đối mặt với áp lực mạnh mẽ để
giảm chi phí nhưng ít áp lực trong việc đáp ứng nhu cầu địa phương.
b. Chiến lược đa dạng hóa hoạt động thâm nhập thị trường của các công ty
xuyên quốc gia
- Xuất khẩu: là phương pháp đơn giản nhất cho doanh nghiệp nội địa để mở rộng
thị trường. Doanh nghiệp chỉ việc sản xuất hàng hóa và chuyển giao cho doanh nghiệp
nước ngoài, doanh nghiệp sẽ thực hiện việc bán hàng ở thị trường nước ngoài.Khi đó,
sản phẩm của họ sẽ được thị trường ngoại tiêu thụ.
- Sản xuất theo hợp đồng (Contract manufacturing): là phương thức mà trong đó

một công ty sẽ dàn xếp, ký kết hợp đồng với một công ty khác ở địa phương để công
ty này sản xuất sản phẩm theo đúng quy cách, thiết kế của mình. Các công ty xuyên
quốc gia thuộc một số lĩnh vực như điện tử, quần áo, giày dép, thuốc và đồ chơi
thường hay áp dụng hình thức này nhằm thâm nhập thị trường mới
- Cấp phép và nhượng quyền (Licensing and Franchising): Cấp phép là một thoả
thuận trong đó người sở hữu các tài sản trí tuệ trao cho một doanh nghiệp khác quyền
sử dụng tài sản đó trong một khoảng thời gian nhất định nhằm đổi lấy tiền bản quyền
hay các khoản phí bù khác. Nhượng quyền thương mại là việc một bên nhận phân phối
(marketing) sản phẩm, hoặc dịch vụ dưới nhãn hiệu hàng hóa, các đối tượng khác của
các quyền sở hữu trí tuệ, và hệ thống kinh doanh đồng bộ do bên giao phát triển và sở
hữu; để được phép làm việc này, bên nhận phải trả những phí và chấp nhận một số hạn
chế do bên giao quy định.
- Đầu tư trực tiếp (FDI): là một hoạt động kinh doanh quốc tế dựa trên cơ sở của
quá trình dịch chuyển tư bản giữa các quốc gia, chủ yếu do các pháp nhân hoặc thể
nhân thực hiện theo những hình thức nhất định trong đó chủ đầu tư tham gia trực tiếp
vào quá trình điều hành, quản lý và sử dụng vốn đầu tư.
c. Chiến lược đa thị trường nội địa (chiến lược địa phương hóa)
Là chiến lược hướng đến việc tối đa hóa đáp ứng nhu cầu địa phương. Đặc điểm
của công ty thực hiện chiến lược đa thị trường nội địa là họ tùy biến sản phẩm và chiến
lược marketing để phù hợp với yêu cầu địa phương. Xảy ra đồng thời với xu hướng
toàn cầu hóa, chiến lược đa thị trường nội địa có một xu hướng trái ngược lại khuyến

11


khích các công ty thích ứng các hoạt động trãi rộng khắp trên thế giới với những đặc
điểm và điều kiện cụ thể
d.

Sáp nhập và mua lại


Sáp nhập và mua lại (Mergers and Acquisitions hay M&A) xuất hiện từ cuối thế
kỉ thứ 19 và được cho là bắt nguồn từ Mỹ trong sự phát triển của hoạt động tài chính
ngân hang và các hoạt động đầu tư tài chính. Kể từ đó tới nay, Sáp nhập và mua lại đã
trở thành chiến lược quan trọng trong sự phát triển của các công ty xuyên quốc gia.
Trên thế giới, mua lại (Acquisitions) được coi là một vụ thu mua khi một công ty mua
lại một công ty khác (gọi là công ty mục tiêu). Mặt khác, sáp nhập (mergers) là việc
hợp nhất hai công ty thành một công ty lớn.
1.3. Mối quan hệ cạnh tranh giữa Nhà nước và Công ty xuyên quốc gia
1.3.1. Khái niệm về quan hệ cạnh tranh
Cạnh tranh là hành động ganh đua, đấu tranh chống lại các cá nhân hay các
nhóm, các loài vì mục đích giành được sự tồn tại, sống còn, giành được lợi nhuận, địa
vị, sự kiêu hãnh, các phần thưởng hay những thứ khác. Thuật ngữ cạnh tranh được sử
dụng cho nhiều lĩnh vực khác nhau như lĩnh vực kinh tế, thương mại, luật, chính
trị, sinh thái, thể thao. Cạnh tranh có thể là giữa hai hay nhiều lực lượng, hệ thống, cá
nhân, nhóm, loài, tùy theo nội dung mà thuật ngữ này được sử dụng. Cạnh tranh có thể
dẫn đến các kết quả khác nhau. Một vài kết quả, ví dụ như trong cạnh tranh về tài
nguyên, nguồn sống hay lãnh thổ, có thể thúc đẩy sự phát triển về mặt sinh học, tiến
hoá, vì chúng có cơ hội, được cung cấp lợi thế cho sự sống sót, tồn tại.
Cạnh tranh cũng có thể tồn tại ở các quy mô khác nhau; một vài dạng cạnh tranh
có thể xảy ra giữa hai thành viên trong loài, trong khi những sự cạnh tranh khác có thể
gồm cả loài. Mức độ cạnh tranh cũng khác nhau. Ở một số mức độ, sự cạnh tranh,
ganh đua có thể có mức độ rất bình thường, nhiều khi chỉ để đạt được sự kiêu hãnh,
thắng lợi nhỏ nào đó. Song, một số sự cạnh tranh khác có thể ở mức độ rất cao, cực kỳ
quyết liệt, ví dụ một vài cuộc chiến tranh có thể nổ ra do sự cạnh tranh quyết liệt giữa
hai đất nước, hai quốc gia hay hai dân tộc
Trong kinh tế chính trị học thì cạnh tranh là sự ganh đua về kinh tế giữa những
chủ thể trong nền sản xuất hàng hóa nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong
12



sản xuất, tiêu thụ hoặc tiêu dùng hàng hóa để từ đó thu được nhiều lợi ích nhất cho
mình. Cạnh tranh có thể xảy ra giữa những người sản xuất với người tiêu dùng (người
sản xuất muốn bán đắt, người tiêu dùng muốn mua rẻ); giữa người tiêu dùng với nhau
để mua được hàng rẻ hơn; giữa những người sản xuất để có những điều kiện tốt hơn
trong sản xuất và tiêu thụ.
Có nhiều biện pháp cạnh tranh: cạnh tranh giá cả (giảm giá,…) hoặc cạnh tranh
phi giá cả (quảng cáo,…) Hay cạnh tranh của một doanh nghiệp, một ngành, một quốc
gia là mức độ mà ở đó, dưới các điều kiện về thị trường tự do và công bằng có thể sản
xuất ra các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ đáp ứng được đòi hỏi của thị trường, đồng
thời tạo ra việc làm và nâng cao được thu nhập thực tế.
Cạnh tranh có vai trò rất quan trọng và là một trong những động lực mạnh mẽ
thúc đẩy sản xuất phát triển. Nó buộc người sản xuất phải năng động, nhạy bén, tích
cực nâng cao tay nghề, cải tiến kỹ thuật, áp dụng khoa học công nghệ, hoàn thiện tổ
chức quản lý để nâng cao năng suất lao động, hiệu quả kinh tế. Ở đâu thiếu cạnh tranh
hoặc có biểu hiện độc quyền thì thường trì trệ và kém phát triển.
Bên cạnh mặt tích cực, cạnh tranh cũng có những tác động tiêu cực thể hiện ở
cạnh tranh không lành mạnh như những hành động vi phạm đạo đức hay vi phạm pháp
luật (buôn lậu, trốn thuế, tung tin phá hoại,…) hoặc những hành vi cạnh tranh làm
phân hóa giàu nghèo, tổn hại môi trường sinh thái.
Sự khác biệt giữa cạnh tranh không lành mạnh và cạnh tranh lành mạnh trong
kinh doanh là một bên có mục đích bằng mọi cách tiêu diệt đối thủ để tạo vị thế độc
quyền cho mình, một bên là dùng cách phục vụ khách hàng tốt nhất để khách hàng lựa
chọ mình chứ không lựa chọn đối thủ của mình.
Quan điểm về cạnh tranh không lành mạnh
Kể từ buổi bình minh của kỷ nguyên công nghiệp, các công ty thường xuyên phải
cạnh tranh khốc liệt trong tình huống đối đầu để duy trì sự phát triển và tăng lợi nhuận.
Do đó đã có lúc nhà kinh doanh ngộ nhận cạnh tranh thuộc phạm trù tư bản nên quan
điểm về cạnh tranh trước kia được hầu hết các nhà kinh doanh đều nhầm tưởng “cạnh
13



tranh” với nghĩa đơn thuần và thường bị ám ảnh bởi câu châm ngôn: “Thương trường
là chiến trường” – đây là ngôn ngữ truyền thống của những nhà kinh doanh. Trong
cạnh tranh cần tỏ ra khôn ngoan hơn đối thủ để loại trừ đối thủ cạnh tranh, giành giật
quyết liệt thị phần, khuyến trương thương hiệu sản phẩm, khống chế nhà cung cấp và
khóa chặt khách hàng. Theo quan điểm đó, sẽ luôn có người thắng và kẻ thua trong
kinh doanh. Cách nhìn về một kết cục thắng – thua được Gore Vidal viết như sau: “Chỉ
thành công thôi chưa đủ. Phải làm cho kẻ khác thất bại nữa”.
Cạnh tranh không lành mạnh là bất cứ hành động nào trong hoạt động kinh tế trái
với đạo đức nhằm làm hại các đối thủ kinh doanh hoặc khách hàng. Và cũng gần như
sẽ không có người thắng nếu việc kinh doanh được tiến hành giống như một cuộc
chiến. Cạnh tranh khốc liệt mang tính tiêu diệt chỉ dẫn đến một đại dương đỏ đầy máu
của những địch thủ tranh đấu trong một bể lợi nhuận đang cạn dần. Hậu quả thường
thấy sau các cuộc cạnh tranh khốc liệt là sự sụt giảm mức lợi nhuận ở khắp mọi nơi.
Mục đích của nhà kinh doanh là luôn luôn mang lại những điều có lợi cho doanh
nghiệp mình. Đôi khi đó là sự trả giá của người khác. Đây là tình huống “cùng thua”
(lose – lose).
Quan điểm về cạnh tranh lành mạnh
Tuy nhiên, các biện pháp thông thường (tìm cách đánh bại đối thủ cạnh tranh
thông qua việc tạo dựng một vị thế phòng thủ trật tự trong ngành) và lối tư duy chiến
lược kiểu truyền thống (chỉ tập trung vào các khía cạnh làm thế nào để khai thác được
ưu điểm và tính độc đáo của mình, hoặc tìm kiếm những lợi thế so sánh với các đối
thủ) đã khiến cho cuộc cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt và khó khăn hơn bao giờ
hết. Trong bối cảnh thương trường ở đây là một thương trường toàn cầu hóa trong một
thế giới đang đi trên một tiến trình không thể đảo ngược của hội nhập. Thế giới hội
nhập là một thế giới cạnh tranh. Các bức tường bị hạ xuống, các loại rào chắn bị dở bỏ.
Trên một sân chơi “đang được làm phẳng” – nói theo thuật ngữ của Thomas Friedman,
các nguồn lực của thế giới đang tranh nhau để được sử dụng theo cách tốt nhất, cách
tốt nhất nghĩa là phải trả chi phí thấp hơn nhưng có sản phẩm tốt hơn. Đó chính là ý

nghĩa tích cực của một môi trường cạnh tranh tự do trên một sân chơi ngang bằng.
14


Căn cứ theo những gì người ta hay nói về kinh doanh ngày nay, doanh nghiệp sẽ
không tiếp tục nghĩ theo kiểu truyền thống như vậy. Doanh nghiệp cần phải lắng nghe
khách hàng, hợp tác với các nhà cung cấp, lập ra các nhóm mua hàng và xây dựng
những quan hệ đối tác chiến lược (thậm chí là với đối thủ cạnh tranh). Và tất cả những
điều đó không hề giống như trong một cuộc chiến. Bernard Baruch – một nhà tài phiệt
ngân hàng hàng đầu của thế kỷ XX đã phản đối Gore Vidal bằng những lời như sau:
“Không cần phải thổi tắt ngọn nến của người khác để mình tỏa sáng”.
Mặc dù không nổi danh bằng Gore Vidal song Bernard Baruch đã kiếm được
nhiều tiền hơn rất nhiều. Đây chính là cạnh tranh lành mạnh. Kinh doanh như một
cuộc chơi nhưng không giống như chơi thể thao, chơi bài hay chơi cờ, khi mà phải
luôn có kẻ thua – người thắng (lose – win); trong kinh doanh, thành công của doanh
nghiệp không nhất thiết đòi hỏi phải có những kẻ thua cuộc.
Thực tế là hầu hết các doanh nghiệp chỉ thành công khi những người khác thành
công. Đây là sự thành công cho cả đôi bên nhiều hơn là cạnh tranh làm hại lẫn nhau.
Tình huống này được gọi là “cùng thắng” (win – win).
Cạnh tranh không phải là “chiến tranh” và cũng không phải là “hòa bình”. Cạnh
tranh không còn là những động thái của tình huống (contextual act), không phải chỉ là
những hành động mang tính thời điểm mà là cả tiến trình (process) tiếp diễn không
ngừng, khi đó các doanh nghiệp đều phải đua nhau để phục vụ tốt nhất khách thì điều
đó có nghĩa là không có giá trị gia tăng nào có thể giữ nguyên và tồn tại vĩnh viễn mà
có sự biến đổi mới lạ.
Cạnh tranh là sức mạnh mà hầu hết các nền kinh tế thị trường tự do dựa vào để
đảm bảo rằng các chủ thể cạnh tranh thoả mãn được các nhu cầu và mong muốn của
người tiêu dùng. Khi có cạnh tranh, không một Nhà nước nào cần phải quy định các
doanh nghiệp sản xuất mặt hàng gì với số lượng, chất lượng và giá cả thế nào. Cạnh
tranh trực tiếp quy định những vấn đề đó với các chủ thể

1.3.2. Ý nghĩa của cạnh tranh
Cạnh tranh có vai trò quan trọng trong nền sản xuất hàng hóa nói riêng, và trong
lĩnh vực kinh tế nói chung, là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, góp phần vào sự
15


phát triển kinh tế. Cạnh tranh được coi như là “linh hồn” của nền kinh tế, vai trò của
cạnh tranh đối với nền kinh tế thể hiện ở những mặt sau:


Cạnh tranh là môi trường, là động lực thúc đẩy sự phát triển của mọi thành

phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường, góp phần xoá bỏ những độc quyền, bất hợp
lý, bất bình đẳng trong kinh doanh. Sự cạnh tranh buộc người sản xuất phải năng động,
nhạy bén, nắm bắt tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng, tích cực nâng cao tay nghề,
thường xuyên cải tiến kỹ thuật, áp dụng những tiến bộ, các nghiên cứu thành công mới
nhất vào trong sản xuất, hoàn thiện cách thức tổ chức trong sản xuất, trong quản lý sản
xuất để nâng cao năng xuất, chất lượng và hiệu quả kinh tế. Ở đâu thiếu cạnh tranh
hoặc có biểu hiện độc quyền thì thường trì trệ và kém phát triển.


Cạnh tranh bảo đảm thúc đẩy sự phát triển của khoa học kỹ thuật, sự phân công

lao động xã hội ngày càng xâu sắc.


Cạnh tranh thúc đẩy sự đa dạng hoá sản phẩm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao

của xã hội, kích thích nhu cầu phát triển, làm nảy sinh những nhu cầu mới, góp phần
nâng cao chất lượng đời sống xã hội và phát triển nền kinh tế. Cạnh tranh còn là tiền

đề của hệ thống kinh tế thị trường vì càng nhiều doanh nghiệp cạnh tranh với nhau thì
sản phẩm hay dịch vụ cung cấp cho khách hàng sẽ càng có chất lượng tốt hơn. Nói
cách khác, cạnh tranh sẽ đem đến cho khách hàng giá trị tối ưu nhất đối với những
đồng tiền mồ hôi công sức của họ.


Cạnh tranh làm nền kinh tế quốc dân vững mạnh, tạo khả năng cho doanh

nghiệp vươn ra thị trường nước ngoài.


Cạnh tranh giúp cho nền kinh tế có nhìn nhận đúng hơn về kinh tế thị trường,

rút ra được những bài học thực tiễn bổ sung vào lý luận kinh tế thị trường của nước ta.


Cạnh tranh mang lại nhiều lợi ích, đặc biệt cho người tiêu dùng. Người sản xuất

phải tìm mọi cách để làm ra sản phẩm có chất lượng hơn, đẹp hơn, có chi phí sản xuất
rẻ hơn, có tỷ lệ tri thức khoa học, công nghệ trong đó cao hơn... để đáp ứng với thị
hiếu của người tiêu dùng..

16


Ngoài mặt tích cực, cạnh tranh cũng làm xuất hiện những hiện tượng tiêu cực
như làm hàng giả, buôn lậu trốn thuế… gây nên sự bất ổn trên thị trường, làm thiệt hại
đến lợi ích của Nhà nước và của người tiêu dùng. Cạnh tranh còn đem lại những hệ
quả không mong muốn về mặt xã hội. Nó làm thay đổi cấu trúc xã hội trên phương
diện sở hữu của cải, phân hóa mạnh mẽ giàu nghèo, có những tác động tiêu cực khi

cạnh tranh không lành mạnh, dùng các thủ đoạn vi phạm pháp luật hay bất chấp pháp
luật. Cạnh tranh cũng có những tác động tiêu cực thể hiện ở cạnh tranh không lành
mạnh như những hành động vi phạm đạo đức hay vi phạm pháp luật (buôn lậu, trốn
thuế, tung tin phá hoại...) hoặc những hành vi cạnh tranh làm phân hóa giàu nghèo, tổn
hại môi trường sinh thái. Vì lý do trên cạnh tranh kinh tế bao giờ cũng phải được điều
chỉnh bởi các định chế xã hội, sự can thiệp của Nhà nước.
Trong xã hội, mỗi con người, xét về tổng thể, vừa là người sản xuất đồng thời
cũng là người tiêu dùng, do vậy cạnh tranh thường mang lại nhiều lợi ích hơn cho mọi
người và cho cộng đồng, xã hội. Phát huy những yếu tố tích cực, hạn chế những mặt
tiêu cực của cạnh tranh không chỉ là nhiệm vụ của Nhà nước, doanh nghiệp mà là
nhiệm vụ chung của toàn bộ cá nhân.
1.3.3. Những nhân tố chi phối sự cạnh tranh giữa Nhà nước và công ty xuyên quốc
gia
Yếu tố cơ bản chi phối các hoạt động của các công ty xuyên quốc gia là hiệu quả
kinh tế, hay việc chạy theo lợi nhuận nhờ khai thác các nguồn lực trên phạm vi toàn
cầu bằng cách không ngừng mở rộng, khai thác thị trường hướng tới tối đa hóa lợi
nhuận. Trong quá trình phát triển của mình các công ty xuyên quốc gia đã có tác động
tích cực tới thúc đẩy kinh tế nước chủ nhà tuy nhiên cũng để lại những tác động tiêu
cực như: ô nhiễm môi trường, trốn thuế hay gia tăng bất bình đẳng trong xã hội. Động
cơ chính để thu hút vốn đầu tư từ các công ty xuyên quốc gia là:
- Tiếp cận được với nguồn tài nguyên thiên nhiên. Các nhà đầu tư từ Mỹ và
Nhật Bản đã từ lâu đầu tư rất nhiều vào Đông Á để khai thác các nguồn lực như dầu
lửa ở Indonexia và khí ga ở Bruney. Những dự án này ít có giá trị và để lại hậu quả lớn
đối với môi trường.

17


- Tận dụng lợi thế về giá các nhân tố sản xuất đặc biệt là giá lao động rẻ, các
công ty xuyên quốc gia có xu hướng bóc lột công nhân ở các nước đang phát triển

bằng cách trả cho họ mức lương thấp, cung cấp cho họ rất ít lợi ích trong khi điều kiện
làm việc không an toàn.
- Hiện tượng chuyển giá nhằm tối đa hóa lợi nhuận hay độc quyền gây lũng đoạn
thị trường, giảm sức cạnh tranh trong nền kinh tế.Các công ty xuyên quốc gia với sức
mạnh về nguồn lực có thể thao túng một số ngành sản xuất quan trọng, thiết yếu, hay
rút chuyển vốn đột ngột làm mất cân đối kinh tế vĩ mô.
- Việc các công ty xuyên quốc gia có thể gây sức ép trong những quyết định của
chính phủ, hoạt động tình báo, gây rối loạn an ninh chính trị, thông qua nhiều thủ đoạn
khác nhau.
- Hoạt động đầu tư đe dọa tới môi trường sinh thái, một số quốc gia muốn thu hút
đầu tư đã hạ thấp các tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường
Khi những tác động tiêu cực mà Công ty xuyên quốc gia gây ra đem lại những
hậu quả lớn hơn những gì mà họ mang lại. Nhà nước chính là cơ quan đại diện cho lợi
ích của quốc gia dân tộc, sẽ đứng lên và ban hành những chủ trương, chính sách quản
lý để giảm các tác động tiêu cực của các công ty xuyên quốc gia tới phát triển kinh tế.
Do đó cùng với nhân tố về lợi nhuận của công ty xuyên quốc gia, nhân tố lợi ích của
quốc gia là hai nhân tố chính chi phối mối quan hệ cạnh tranh giữa Nhà nước và công
ty xuyên quốc gia.

18


CHƯƠNG 2. MỐI QUAN HỆ CẠNH TRANH GIỮA NHÀ NƯỚC
VÀ CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA
2.1. Mối quan hệ cạnh tranh giữa Nhà nước và công ty xuyên quốc gia trên lĩnh
vực tài chính, tiền tệ
2.1.1. Những mặt tích cực trên lĩnh vực tài chính, tiền tệ
Khi công ty xuyên quốc gia thâm nhập vào một thị trường, nó thâm nhập cùng
nguồn vốn của mình vào quốc gia đó. Những quốc gia đang phát triển (trong đó có
Việt Nam) có nguồn vốn tích lũy rất hạn chế, vì vậy nguồn vốn từ các công ty xuyên

quốc gia là nguồn động lực lớn thúc đẩy nền kinh tế có thể phát triển.
Mức thu nhập thực tế ít ỏi là nguyên nhân chính dẫn đến tiết kiệm ít ỏi. Mức thu
nhập ít ỏi phản ánh năng suất lao động thấp, nguyên nhân chính là do tình trạng thiếu
tư bản gây ra. Thiếu tư bản lại do khả năng tiết kiệm ít ỏi mang lại. Đây là một vòng
luẩn quẩn của các quốc gia đang phát triển. Để phá vỡ vòng luẩn quẩn này, nguồn vốn
đầu tư từ nước ngoài được xem là giải pháp tối ưu nhất. Ngoài nguồn đầu tư, những
quốc gia chủ nhà có thể tăng ngân khố dựa vào thuế từ các công ty xuyên quốc gia một phần thu nhập không hề nhỏ.
Mặt khác, khi thâm nhập vào một quốc gia, các công ty xuyên quốc gia sẽ mở
rộng được thị trường tiêu thụ hàng hóa của mình. Không những vậy, nguồn tài nguyên
cùng những chính sách ưu đãi cũng là lí do thâm nhập vào các quốc gia của công ty
xuyên quốc gia. Tất cả để giảm chi phí và tối đa hóa lợi nhuận cho công ty
2.1.2. Mối quan hệ cạnh tranh trên lĩnh vực tài chính: Chuyển giá
Mục tiêu hàng đầu của các công ty xuyên quốc gia là lợi ích về kinh tế. Khi việc
cắt giảm chi phí hay mở rộng thị trường là điều không thể thì phương án được cân
nhắc đó là cắt giảm chi phí thuế. Chuyển giá được xem là một lời giải cho bài toán lợi
ích mà ở đó nhà đầu tư không cần thêm vốn hay mở rộng sản xuất. Đơn giản vì
phương cách này giúp họ giảm tổng nghĩa vụ thuế. Từ đó lợi nhuận sau thuế sẽ gia
tăng.
Ở đây đặt ra một mâu thuẫn giữa lợi ích của Nhà nước và lợi ích của công ty
xuyên quốc gia. Lợi ích của Nhà nước ở đây là thuế để đóng góp vào ngân quỹ quốc
gia, còn công ty xuyên quốc gia thì làm mọi cách để cắt giảm thuế đóng góp này.
19


×