Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Tiểu luận Luật pháp và đạo đức báo chí: Lịch sử ra đời luật báo chí thế giới và Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.96 KB, 13 trang )

MỤC LỤC
PHÁP LUẬT BÁO CHÍ THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
CHƯƠNG 1: VỀ PHÁP LUẬT – BÁO CHÍ
CHƯƠNG 2: PHÁP LUẬT BÁO CHÍ THẾ GIỚI

I. Lịch sử ra đời và phát triển của pháp luật báo chí trên thế giới:
II. Một số quốc gia tiêu biểu:
1.

Vương quốc Anh (Diện tích: 245.000 km(2); dân số 61.300.000 người)

2.

Đại Hàn dân Quốc: (Diện tích 100.032 km(2), Dân số 50 triệu người)

CHƯƠNG 3: PHÁP LUẬT BÁO CHÍ VIỆT NAM
I. Lịch sử ra đời Luật Báo chí

II. Pháp luật báo chí Việt Nam:


Luật báo chí 1989:



Luật báo chí 1999:



Luật báo chí 2016:


CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO

CHƯƠNG 1: VỀ PHÁP LUẬT – BÁO CHÍ
I. Khái niệm pháp luật – Pháp luật báo chí:

Định nghĩa Pháp luật: Pháp luật là hệ thông những qui tắc xử sự mang tính bắt buộc chung
do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị
và là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội pháp triển phù hợp với lợi ích của giai cấp mình.


Báo chí: Báo chí là một trong những loại hình truyền thông đại chúng đặc biệt, do vậy, b ản
chất của hoạt động báo chí cũng bao gồm bản chất của hoạt động truyền thông nói chung. Đó là,
phương tiện và phương thức thông tin – giao tiếp xã hội, liên kết xã hội, can thiệp xã hội. (C ơ s ở lý
luận báo chí)



Luật báo chí: Luật báo chí là luật liên quan đến việc cấp phép cho sách và t ự do di ễn đạt
trong tất cả các sản phẩm của báo in, đặc biệt là báo chí. Quyền t ự do báo chí luôn luôn đ ược các
nhà văn chính trị coi là quan trọng nhất. Hãy cho tôi t ự do biết, tuyên bố và tranh luận t ự do theo
lương tâm, trên tất cả các tự do khác, Milton nói trong Areopagitica.

II. Sự cần thiết am hiểu về luật pháp của nhà báo:
Theo quy định của pháp luật thì nhà báo cũng là một công dân, vì thế, bản thân nhà báo cũng phải
thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo pháp luật. Tuy nhiên, theo s ự phân công lao đ ộng
xã hội, hoạt động báo chí là một nghề, vì vậy, với trách nhiệm nghề nghiệp, nhà báo ph ải tuyên
truyền, giải thích pháp luật để mọi người hiểu, từ đó, tổ chức và vận động họ sống và làm việc
theo pháp luật. Vậy, nhà báo là con người công dân với nghĩa vụ công dân; nhà báo cũng là con
người xã hội với trách nhiệm xã hội. Đối với nhà báo, sự am hiểu và vận dụng pháp luật trong hoạt
động nghề nghiệp là hết sức quan trọng và cần thiết. Bởi vì hoạt đ ộng báo chí là một ho ạt đ ộng có

tính đặc thù. Trong quá trình tác nghiệp, nhà báo phải tiếp xúc, va chạm v ới nhiều vấn đề, nhi ều
người, nhiều mối quan hệ phức tạp và tế nhị. Sự am hiểu pháp luật giúp nhà báo ứng xử có tình có
lý, tạo sức thuyết phục và độ tin cậy cao. Am hiểu pháp luật giúp nhà báo ho ạt đ ộng ch ủ đ ộng t ự
tin, biết người biết ta, vừa bảo vệ mình vừa bảo vệ người khác. Am hiểu luật pháp nói chung và
luật báo chí nói riêng giúp nhà báo thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa v ụ c ủa mình theo quy đ ịnh
của pháp luật; đồng thời hướng dẫn nhân dân hiểu được quyền lợi của họ và thực hiện theo pháp
luật.

CHƯƠNG 2: PHÁP LUẬT BÁO CHÍ THẾ GIỚI
I. Lịch sử ra đời và phát triển của pháp luật báo chí trên thế giới :
Lịch sử của các quy định về truyền thông được bắt đầu bằng việc áp dụng báo in để sản xuất sách
từ giữa thế kỷ 15 trở đi ở Tây Âu. Ban đầu, in ấn chỉ đơn giản là một sự thay thế hiệu quả hơn cho
việc sao chép các bản thảo bằng tay mà không dược quy định chính thức; mặc dù trong th ực t ế nó
diễn ra chủ yếu dưới sự giám sát của nhà chức trách hoặc nhà nước. Khi ngành thương mại và
công nghiệp in ấn được mở rộng, đặc biệt là sau năm 1500, giáo đường và nhà n ước ngày càng
quan tâm đến nội dung của những gì đã được in và xuất bản, đặc biệt để chống lại các vấn đề dị
giáo hoặc bất đồng quan điểm. Điều này dẫn tới việc cấp phép cho tất cả các nhà in t ừ Nhà n ước
hoặc yêu cầu sự chấp thuận trước của nhà chức trách các giáo đường đối với các tác phẩm đ ược
xuất bản. Việc xuất khẩu và nhập khẩu sách cũng bị kiểm soát hoặc cấm. Tác giả và các nhà in
cũng có thể bị trừng phạt nghiệm trọng đối với các ấn phẩm được coi là dị giáo ho ặc phải bội. Ở
các quốc gia quyền tự trị hơn, chẳng hạn như Đế chế Ottoman và Nga,việc in ấn đơn giản cũng đã
bị cấm trong hai trăm năm.


Giữa thế kỷ 16 và 19 ở Tây Âu và Bắc Mỹ, lịch sử của việc quy định truyền thông là m ột trong
những nỗ lực chống lại những hạn chế đối với việc xuất bản dưới tên của tự do chính trị và nhân
quyền, và cũng thay mặt ngành in và ngành công nghiệp in ấn, quyền của tác giả. Sự t ự do xuất
bản đã được thực hiện bằng việc thay đổi dần dần ở Anh và cuộc cách mạng ở Pháp vào cuối thế
kỷ thứ XVIII và dần dần là ở các lãnh thổ của Áo và Hoàng đế Phổ trong thế kỷ XIX. Các quyền t ự
do tương tự không bao giờ thực sự đạt được ở Nga, ngay cả sau Cách mạng năm 1917, cũng nh ư ở

các thuộc địa của Anh và Nhật Bản cho đến cuối thế kỷ XX. Đối với hầu hết thế giới trong k ỷ
nguyên hiện đại, chế độ báo chí có tính đàn áp và trừng phạt vì lợi ích của nhà n ước đã trở thành
tiêu chuẩn.
Một chiều hướng mới cho quy định được bổ sung bằng cách phát minh ra các phương tiện truy ền
thông mới trong thế kỷ XIX, đặc biệt là điện báo điện thoại, sau đó là điện tho ại và không dây, dẫn
tới sự ra đời của phát thanh radio công cộng từ năm 1920 trở đi. Tất cả các ph ương tiện này đ ều
được điều chỉnh chặt chẽ theo luật quốc gia mà các hiệp định quốc tế liên quan đ ến yêu cầu kỹ
thuật đòi hỏi nhiều hơn hoặc ít hơn (ví dụ như phân bổ tần số vô tuyến điện). Họ cũng phục vụ
các lợi ích khác của nhà nước, bao gồm các vấn đề liên quan quân s ự và kinh tế. Th ường nh ững
quy định dưới hình thức kiểm soát của các cơ quan nhà nước hoặc độc quyền công cộng. Trong các
trường hợp khác, chẳng hạn như ở Hoa Kỳ, giám sát đã được thực hiện bởi một cơ quan chính phủ
lớn (Ủy ban Truyền thông Liên bang).
Phương tiện truyền thông phát thanh (radio và truyền hình) đ ược điều ch ỉnh chặt chẽ nh ất của
tất cả các phương tiện truyền thông gần như mọi nơi trong thế kỷ XX và họ chưa bao giờ đạt
được mức độ tự do mà các phương tiện truyền thông thích. Kể từ khoảng năm 1980, các hình th ức
phân phối mới bằng cáp và vệ tinh đã dẫn tới sự mở rộng lớn của sản phẩm truyền thông và các
chế độ quản lý thoải mái hơn, đặc biệt liên quan đến nội dung. Mặc dù đã có sự bãi bỏ quy định
của các phương tiện truyền thông, nhưng thường thì nhận xét rằng, để đáp ứng với s ự xuất hiện
của các phương tiện truyền thông mới và các điều kiện thay đổi, chúng ta thực s ự đang trong giai
đoạn điều chỉnh lại khi khung quy định được sửa đổi để phản ánh những ưu tiên về kinh tế và /
thay vì chỉ đơn giản là loại bỏ.

II. Một số quốc gia tiêu biểu:
1.

Vương quốc Anh (Diện tích: 245.000 km(2); dân số 61.300.000 người)

Báo chí Anh ra đời nhờ được chuẩn bị bởi toàn bộ quá trình phát triển trước đó về kinh tế, chính
trị - xã hội và văn hóa như nghề in xuất hiện từ thế kỷ XV; sự phát triển của thương mại; quá trình
hình thành dân tộc; sự phát triển và hoàn thiện ngôn ngữ Anh thống nhất vào thế kỷ XVI.


Từ thế kỷ XVI chính quyền đã bắt đầu kiểm soát chặt chẽ với công việc in ấn. Đã có m ột loạt văn
bản pháp luật quy định số lượng nhà in và người được phép hành nghề xuất bản.
Năm 1695, nhà nước bãi bỏ việc kiểm duyệt


Từ thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, nước Anh trở thành nước tư bản phát triển nhất, đồng thời với s ự
giàu có của đất nước, cũng diễn ra sự bần cùng hóa đối với đông đảo nhân dân lao động. Đầu thế
kỷ XIX Anh đã thông qua một đạo luật kìm hãm sự phát triển của báo chí công nhân.



Hội đồng báo chí Anh:
-

Ủy ban Hoàng gia về báo chí: 1947 – 1977

Ủy ban Báo chí Hoàng gia lần thứ nhất được thành lập vào năm 1947, với mục đích tuyên truy ền ý
kiến thông qua báo chí và tính chính xác thực tiễn lớn nhất trong việc trình bày tin t ức.

Năm 1949, Ủy ban Báo chí Hoàng gia lần đầu tiên đề nghị rằng nên thành lập 1 H ội đồng Báo chí
để điều chỉnh hành vi của các phương tiện truyền thông. Để đối phó với một s ự đe dọa về quy
định pháp định, Hội đồng Báo chí được thành lập vào năm 1953
-

Hội Đồng Báo chí là một tổ chức báo chí tự nguyện của Anh, với một khuôn kh ổ pháp lý
không ràng buộc. Thông qua các niên lịch sử, Hội đồng được tài trợ bởi chủ sở hữu báo, với
mục tiêu duy trì các tiêu chuẩn cao về đạo đức báo chí.

Hội đồng đã được cải cách như Hội đồng Báo chí năm 1962 với 20% thành viên giáo dân. H ội đ ồng

báo chí đã xuất bản một loạt sáKhinh thị Tòa án (1967); Bảo mật (1971); Ph ỉ báng (1973)
Tuy nhiên, Hội đồng Báo chí đã bị chỉ trích rất nhiều trong Báo cáo trẻ h ơn về Bảo m ật năm 1973
và trong báo cáo của Ủy ban Hoàng gia Thứ ba về Báo chí, năm 1977. Ủy ban th ứ ba kêu g ọi xây
dựng một Bộ luật Thực tiễn . Hội đồng Báo chí đã bác bỏ đề nghị này, và vào năm 1980, Liên đoàn
các nhà báo rút khỏi thành viên với lý do Hội đồng không thể cải cách h ướng dẫn
Hội đồng Báo chí đã mất đi sự tự tin của giới truyền thông và những năm 1980 cho ta ch ứng ki ến
những gì người ta đánh giá là một trong những sự lạm dụng tồi tệ nhất của báo chí và s ự xâm
nhập vào sự riêng tư của tờ báo lá cải. Để đáp ứng với các Bills của các thành viên t ư nhân về lu ật
bảo vệ quyền riêng tư, chính phủ đã thành lập một ủy ban do David Calcutt QC điều hành để điều
tra vào năm 1989. Đồng thời, dưới sự chủ trì của Louis Blom-Cooper, Hội đ ồng Báo chí đã chuy ển
ngân khoản cho Các tiêu chuẩn báo chí của Ban Tài chính và bắt đầu làm vi ệc để xây dựng m ột B ộ
Quy tắc Thực hành.
-

Báo cáo Calcutt năm 1990 đề nghị thành lập Ủy ban Khiếu nại Báo chí mới đ ể thay thế H ội
đồng Báo chí. Ủy ban mới sẽ được ban hành 18 tháng để chứng minh sự t ự điều ch ỉnh
không theo luật định có thể hoạt động có hiệu quả và nếu không làm nh ư vậy thì h ệ th ống
luật định sẽ được đưa ra.

Năm 1991, Hội đồng Báo chí đã được thay thế bởi Ủy ban Khiếu nại Báo chí.
Vào tháng 7 năm 2011, sau một loạt các phát hiện về "hack thông tin trên điện tho ại" và các hành
vi bất hợp pháp khác tại tờ báo lưu động lớn nhất nước này, News of the World, tất cả các đảng


chính trị đã đồng ý thiết lập một cuộc điều tra về "thực tiễn văn hoá và đạo đức của báo chí" .
Điều này được thực hiện bởi một thẩm phán cấp cao của Toà án cấp phúc thẩm ở Anh và Xứ
Wales, Sir Brian Leveson, người đã xuất bản báo cáo của ông vào tháng 11 năm 2012.
-

Ngày 18 tháng 3 năm 2013, các đảng chính trị chính thống nhất trí về các điều khoản của

"Hiến chương Hoàng gia về Tự Định Quy định Báo chí" để thực hiện các khuyến nghị trong
Báo cáo Leveson.

Ngày 25 tháng 4 năm 2013, Ủy ban Tiêu chuẩn Các Chuẩn mực Báo chí (PressBof) thay mặt cho
ngành công nghiệp đã công bố Bản Hiến chương của mình, đáng kể theo các điều khoản của bản
thỏa thuận giữa báo chí và các bộ trưởng bảo thủ vào tháng Hai năm 2013. Điều này đã đ ược đ ệ
trình lên Hội đồng Tư hữu vào ngày 30 tháng 4 năm 2013.
Sau đó đã có một quá trình dài tham vấn về Hiến ch ương PressBof mà cuối cùng đã bị m ột Ủy ban
Hội đồng Thuỷ quyền bác bỏ vì không phù hợp với Leveson
khuyến nghị. Vào ngày 11 tháng 10 năm 2013, bản dự thảo cuối cùng của Hiến ch ương được công
bố.
Ngày 30 tháng 10 năm 2013, PressBof đã không thành công áp d ụng lệnh cấm cu ối cùng đ ể h ạn
chế việc xem xét Hiến chương, và trong cùng ngày, Hội đồng Bảo an cuối cùng cũng đã ban hành
Điều lệ Hoàng gia về Tự Quy chế Báo chí.

2.

Đại Hàn dân Quốc: (Diện tích 100.032 km(2), Dân số 50 triệu người)

Báo chí hiện đại của Hàn Quốc bắt đầu sau sự kiện mở cửaHàn Quốc vào năm 1876.
Báo chí Hàn Quốc đã có một sự cải cách và dư vị của dân tộc chủ nghĩa ngay t ừ đầu nhưng phải đ ối
mặt với những nỗ lực kiểm soát chính trị hoặc kiểm duyệt hoàn toàn trong hầu hết thế k ỷ XX.
Khi được sát nhập vào năm 1910, tổng thống của Nhật Bản đã trực tiếp kiểm soát báo chí cùng v ới
các cơ quan công cộng khác. Tiếp theo Phong trào Tháng Ba năm 1919, các nhà ch ức trách Nh ật
Bản đã nới lỏng kiểm soát công khai các hoạt động văn hoá và cho phép một số báo chí Hàn Qu ốc
hoạt động trong khi duy trì một số hướng đi sau hậu trường đối với các ch ủ đề nhạy cảm chính
trị. Trong những năm 1920, các tờ báo địa phương của Hàn Quốc, như Tonga ilbo (East Asia Daily),
và các tạp chí trí tuệ như Kaebyok (Creation), đã tiến hành các cuộc đ ụng độ với kiểm duyệt của
Nhật Bản. Chính quyền Nhật cấm bán hàng trăm lần trong khoảng thời gian t ừ năm 1926 đến năm
1932. Việc huy động chiến tranh ở Nhật trong những năm tiếp theo đã chấm dứt bất kỳ hình th ức

tự trị nào đối với báo chí Hàn Quốc; tất cả các ấn phẩm tiếng Hàn đều bị cấm vào năm 1941.
Vào năm 1961, Hội đồng tối cao về tái thiết của quốc gia Park Chung Hee đã đóng cửa t ất cả t ờ báo
nhưng 15 trong số 64 tờ báo hàng ngày của Seoul từ chối đăng ký một tỷ lệ tương đương các dịch
vụ tin tức của quốc gia, tuần báo và ấn phẩm hàng tháng trong khi sử dụng các đài phát thanh và
các cơ quan tin tức để quảng bá dòng chính thức của nó.


Chính quyền Park cũng sử dụng Luật Ủy ban Đạo đức Báo chí năm 1964, và sau năm 1972, các s ắc
lệnh khẩn cấp đã phạt những lời chỉ trích của chính phủ để giữ cho các phương tiện truyền thông
luôn sẵn sàng. Năm 1974, chính phủ đã ra lệnh cho một số nhà báo đã sa th ải và s ử d ụng KCIA đ ể
buộc Tonga ilbo ngừng báo cáo về sự phản đối phổ biến đối với chính quyền Park bằng cách hăm
dọa các nhà quảng cáo giấy.
Trong suốt năm Park và Chun, chính phủ đã thực hiện kiểm soát và giám sát đáng kể các ph ương
tiện truyền thông thông qua Đạo luật An ninh Quốc gia toàn diện. Vào cuối năm 1980, chính ph ủ
Chun đã thiết lập sự kiểm soát chặt chẽ hơn các phương tiện truyền thông hơn là đã tồn tại ở Hàn
Quốc kể từ Chiến tranh Triều Tiên.
Đạo luật Báo chí Cơ bản tháng 12 năm 1980 là nền tảng hợp pháp của hệ thống kiểm soát truy ền
thông của Chun và cung cấp kiểm duyệt và kiểm soát các tờ báo, t ạp chí đ ịnh kỳ, và ph ương ti ện
truyền thông phát sóng. Nó cũng thiết lập trình độ chuyên môn cho các nhà báo. Ki ểm duy ệt báo
chí đã được phối hợp với các quan chức tình báo, đại diện của các cơ quan chính phủ và nhân viên
tổng thống do Văn phòng Chính sách Thông tin Công cộng thuộc Bộ Văn hoá và Thông tin s ử d ụng
"hướng dẫn báo cáo" hàng ngày (podo chich'im) gửi cho các biên tập viên.
Vào giữa những năm 1980, việc kiểm duyệt các phương tiện truyền thông in và phát thanh đã tr ở
thành một trong những thực tiễn được công nhận rộng rãi nhất và công khai nhất của chính ph ủ
Chun.
Tự do hóa chính trị vào cuối những năm 1980 đã làm nới lỏng các hạn chế về báo chí và m ột th ế
hệ nhà báo mới sẵn sàng điều tra các chủ đề nhạy cảm, như vụ Kwangju năm 1980. Tuyên bố 8
điểm của Roh ngày 29 tháng 6 năm 1987 đã quy định về "một báo chí t ự do, bao gồm vi ệc cho
phép các tờ báo phóng các phóng viên tại các thành phố của tỉnh và thu hồi các nhân viên an ninh
từ các văn phòng báo chí".

Sau nhiều thập kỷ kiểm soát nhà nước và kiểm duyệt nặng nề, báo chí Hàn Quốc (trong báo in,
trên truyền hình và trực tuyến) đang trải qua giai đoạn tự do tương đối. Tuy nhiên, Luật báo chí c ơ
bản đã được bãi bỏ vào năm 1987, và kể từ năm 1990, thị trường truyền hình đã m ở r ộng đáng kể.
Trong khi đó vào năm 1980 chỉ có 28 tờ báo quốc gia, hiện nay có 122 người. Năm 2002, phát sóng
vệ tinh đưa ra kênh truyền hình đa kênh tới các ngôi nhà trên khắp Hàn Qu ốc. Theo h ầu h ết các
nhà quan sát bên ngoài, diễn ngôn chính trị không bị hạn chế ở Hàn Quốc; tuy nhiên, m ối quan tâm
liên tục đáng chú ý. Luật An ninh Quốc gia cho phép chính phủ hạn chế sự biểu hiện của các ý
tưởng được coi là ủng hộ Bắc Triều Tiên hoặc cộng sản; những diễn giải rộng rãi về đạo luật này
tạo ra một sự ôn hòa về bất đồng chính kiến.
Hàn Quốc có một trong những môi trường truyền thông tự do nhất ở châu Á, xếp hạng tr ước Nhật
Bản, Hồng Kông và Singapore trong Chỉ số Tự do Báo chí.
Tuy nhiên, kể từ lễ nhậm chức của Tổng thống Lee Myung-bak năm 2008, Hàn Quốc đã trải qua
một sự suy giảm đáng chú ý trong tự do ngôn luận cho cả nhà báo và công chúng.
Có một phương tiện truyền thông hoạt động độc lập thể hiện nhiều quan điểm, nói chung không
có giới hạn. Theo Luật An ninh Quốc gia, chính phủ có thể giới hạn sự biểu hiện của những ý


tưởng ca ngợi hoặc kích động các hoạt động của những cá nhân hay nhóm chống lại. Luật cấm
người dân đọc sách xuất bản ở Triều Tiên.
Ngày 21 tháng 3, báo cáo viên đặc biệt của LHQ về việc thúc đẩy và bảo vệ quyền t ự do ngôn luận
và phát biểu đã đưa ra một báo cáo về chuyến thăm tháng 5 năm 2010 của mình t ới Hàn Qu ốc.
Trong khi hoan nghênh những tiến bộ đã đạt được, báo cáo cũng bày tỏ lo ngại về những hạn chế
ngày càng tăng về tự do ngôn luận và được trích dẫn cụ thể liên quan đến các luật rộng rãi làm cho
tội phỉ báng là một tội ác (mà người báo cáo được gọi là "... vốn có kh ắc nghiệt và có một ảnh
hưởng lạnh lùng không cân xứng ...") và cung cấp khả năng kiểm soát việc phổ biến thông tin bầu
cử hoặc ứng cử viên và cấm sách.

CHƯƠNG 3: PHÁP LUẬT BÁO CHÍ VIỆT NAM
I. Lịch sử ra đời Luật Báo chí
1.


Bối cảnh xã hội, kinh tế, chính trị:


Sau cách mạnh Tháng 8, chính quyền cách mạng non trẻ Việt Nam phải đ ương đầu với
nhiều khó khăn, thử thách (Thiên tai, địch họa, giặc đói, giặc dốt,…) thù trong giặc ngoài
Tổng tuyển cứ quốc hội đầu tiên 9/11/1946, hiến pháp dân chủ được thông qua, m ở đầu cho một
chế dộ của dân, vì dân, do dân.
Ngày 28/2/1946 Tưởng và Pháp ký hòa ước Hoa- Pháp, Pháp đ ược cơ hội xâm lấn ra mi ền Bắc. L ời
kêu gọi toàn quốc kháng chiến ra đời 19/2/1946. Cuộc kháng chiến chống Pháp kiên c ường 1949 –
1954.

Sau hiệp định Giơnevơ năm 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương, hình thái chính trị ở
Việt Nam có sự thay đổi. Đất nước tạm thời chia cắt: Từ vĩ tuyến 17 trở ra, nhân dân miền Bắc hào
hứng bắt tay vào hàn gắn vết thương chiến tranh , khôi phục và phát triển kinh t ế, đồng thời chi
viện cuộc đấu tranh của đồng bào mình ở miền Nam đấu tranh ch ống đế quốc Mỹ can thiệp và
chế độ bù nhìn tay sai của Mỹ.



Về tình hình hoạt động báo chí:

Mặc dù hoàn cảnh đất nước khó khăn song chưa bao giờ báo chí được sống trong môi tr ường dân
chủ như thời kỳ này. Từ giữa năm 1946 báo chí lại bắt đầu tăng về số lượng và quan tâm tới vấn
đề chính trị trọng đại của đất nước.
Trước tình hình hoạt động ồn ào, ngang nhiên chống phá cách mạng của một số tờ báo thu ộc các
đảng phái đối lập, chính phủ Việt Nam phải ban hành sắc lệnh số 27 (28/2/1946) nhằm truy tố


các tội bắt cóc, tống tiền, ám sát. Đồng thời để bình ổn xã hội , chính phủ cũng nh ượng bộ để các

đảng phái đối lập được tham gia chính phủ liên hiệp, thỏa thuận: đoàn kết ch ống kẻ thù chung,
không được công kích nhau trên mặt báo.

Sắc lệnh 41 (29/3/1946) qui định chế độ báo chí, thành lập Hội đồng kiểm duyệt báo chí nh ằm
bảo đảm quyền tự do dân chủ của báo chí (Hội đồng kiểm duyệt bao gồm thành viên c ủa 5 đ ại
diện: Nội vụ, Ngoại giao, Quốc phòng, Quốc hội và báo giới). Bầu không khí tin t ưởng, phấn kh ởi
của báo giới đã trở lại, nhiều cá nhân tổ chức nộp đơn xin ra báo. Để đoàn kết lực lượng ký giả,
chính phủ cho phép thành lập Đoàn báo chí Việt Nam. Đây là lực lượng có đóng góp quan trọng cho
chính quyền cách mạng.

2.

Luật về chế độ báo chí (1957)

Tháng 7/1954, cuộc kháng chiến thắng lợi, bọn Việt gian tay sai của thực dân Pháp cùng báo chí
của chúng phải cuốn gói vào Nam theo bọn quan thầy. Miền Bắc nước ta hoàn toàn được gi ải
phóng, bước vào thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội. Nhân dân ra đ ược hưởng quyền t ự do báo
chí.
Ngày 14/12/1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh kí sắc lệnh số 282/SL về chế độ báo chí. Sắc l ệnh này đã
được Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa biểu quyết thông qua trong kỳ họp thứ 6 ngày
20/5/1957.
Nghị định “Quy định chế độ về quyền lợi những người làm công tác báo chí chuyên nghi ệp” đ ược
công bố ngày 9/7/1957. Bao gồm 15 điều vầ các vấn đề hoạt đ ộng báo chí.

II. Pháp luật báo chí Việt Nam



Luật báo chí 1989:


Từ khi thực hiện đường lối đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cơ chế thị trường đã tạo điều
kiện cho báo chí bung ra phát triển một cách mạnh mẽ cả về số lượng lẫn chất lượng. Để có th ể
thích nghi với cơ chế mới, các nhu cầu mới và đa dạng của công chúng, trong hoạt đ ộng báo chí nói
chung, kể cả công chúng và người làm báo đều không chấp thuận phương thức thông tin m ột
chiều, thiếu thuyết phục, song về mặt pháp lý cần phải có một hành lang luật pháp để tránh s ự
“vượt rào” ngoài ý muốn. Hoạt động của báo chí những năm cuối thập kỷ 80, thế kỷ XX có thể nói
là phức tạp mà biểu hiện rõ nhất là tính mục đích bị xâm hại, chẳng hạn như đưa tin giật gân, đ ưa


tin thiếu chọn lọc… Bởi vậy, từ trong thực tế hoạt động báo chí của đất nước, yêu cầu về một bộ
luật báo chí mới nhằm phát huy tính sáng tạo và tiềm năng to lớn c ủa báo chí trong vi ệc đóng góp
xây dựng xã hội được hình thành.

Trước yêu cầu của thực tiễn trong sự nghiệp đổi mới đất nước và sự cần thiết phải đổi mới chính
bản thân báo chí và hoạt động báo chí nói chung, Luật Báo chí năm 1957 do Nhà n ước ban hành đã
không còn phù hợp, do vậy, căn cứ điều 4, điều 57 và điều 83 của Hiến pháp nước C ộng hoà xã h ội
chủ nghĩa Việt Nam, ngày 28-12-1989, Quốc hội nước ta đã thông qua Luật Báo chí m ới và ngày 0201-1990, Nhà nước ban hành Luật Báo chí nước Cộng hoà xã hội ch ủ nghĩa Việt Nam thay th ế Lu ật
Báo chí năm 1957.

Luật Báo chí ban hành năm 1989 có 7 chương, 31 điều so với Luật Báo chí năm 1957 có nh ững
điểm mới cơ bản là:
- Xác định rõ báo chí là cơ quan ngôn luận của tổ ch ức Đảng, cơ quan Nhà n ước, tổ ch ức chính tr ị –
xã hội, không có báo chí tư nhân (điều 1), thể hiện rõ và đầy đ ủ hơn quyền t ự do dân ch ủ của nhân
dân qua báo chí (điều 2) cũng như vai trò trách nhiệm của báo chí (điều 6) đ ối với xã h ội, đ ối với
công dân.
- Nêu rõ và đầy đủ hơn quyền thông tin và được thông tin của nhân dân (điều 4), quyền và nghĩa
vụ cung cấp thông tin (điều 7), quyền và nghĩa vụ trả lời cải chính (điều 5, 8, 9).
- Quy định đầy đủ và chi tiết hơn về quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan báo chí và nhà báo, c ủa
cơ quan chủ quản báo chí (điều 12), của Nhà nước đối với báo chí (điều 17).
- Quy định trách nhiệm của các cơ sở và tổ chức phát hành (điều 12, 21).

- Quy định về quảng cáo trên báo chí (điều 25).
- Quy định về khen thưởng và kỷ luật (điều 25).

Có thể nói Luật Báo chí năm 1989 đã phản ánh những thay đổi sâu sắc trong đ ời sống kinh tế – xã
hội của nước ta trong những năm đầu đổi mới. Về mặt nhận thức, đây là hành lang pháp lý c ơ bản
để cho các cơ quan báo chí và những người làm báo hoạt động. Về đối t ượng điều ch ỉnh, Luật đã
xác định rõ cơ quan nhà nước có thẩm quyền với cơ quan báo chí và bản thân người làm báo, đ ồng
thời điều chỉnh được mối quan hệ giữa cơ quan báo chí và nhà báo, giữa cơ quan báo chí, nhà báo
và công dân. Về phương pháp điều chỉnh, Luật đảm bảo cho báo chí được tự do thể hiện ý chí của
mình, đồng thời đảm bảo cho báo chí hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật.



Luật báo chí 1999:


Với sự phát triển không ngừng và hiệu quả của đất nước, trong giai đoạn cách mạng mới, tr ước
tình hình kinh tế, chính trị thế giới diễn biến phức tạp và sự phát triển như vũ bão của cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ, để giành thế chủ động trong cuộc đấu tranh không khoan nhượng
về thông tin, Nhà nước ta đã ban hành Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Báo chí (12-061999).
Căn cứ vàoHiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992;
Luật này sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí đã được Quốc hội nước C ộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 28 tháng 12 năm 1989.

So với Luật Báo chí năm 1989, Luật sửa đổi bổ sung đã xác đ ịnh rõ vai trò qu ản lý của Nhà n ước v ề
báo chí, phù hợp với hệ thống pháp luật chung của Nhà nước góp phần tích cực vào việc tăng
cường vai trò quản lý của Nhà nước, đồng thời tạo điều kiện tốt để báo chí ho ạt động đi vào chi ều
sâu đồng thời mở rộng sự giao lưu với báo chí thế giới.




Luật báo chí 2016:

Báo chí Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ cả về số lượng ấn phẩm, loại hình báo chí và chất l ượng
thông tin, qua đó phục vụ có hiệu quả sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc t ế.

Cho đến 2014, cả nước có 838 cơ quan báo chí với 1.111 ấn phẩm báo chí in, có 67 đài PTTH trung
ương và địa phương; có 92 cơ quan báo chí điện tử, 207 giấy phép trang thông tin điện tử tổng hợp
của các cơ quan báo chí.

Tuy nhiên, thực tiễn 15 năm qua, bên cạnh mặt tích cực là cơ bản và chủ yếu, Luật Báo chí năm
1999 cũng bộc lộ một số mặt chưa hoàn chỉnh, không điều chỉnh kịp thời những vấn đề m ới n ảy
sinh, không còn phù hợp với thực tiễn đời sống báo chí trong giai đo ạn hi ện nay, khi đ ất n ước đang
đẩy nhanh công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng, các loại hình báo chí phát triển nhanh
chóng.

Bên cạnh đó, sự phát triển và hội tụ về công nghệ giữa viễn thông, truyền thông và internet di ễn
ra mạnh mẽ, nhiều quy định của Luật Báo chí hiện hành đã không còn phù hợp. Thực tiễn hoạt
động báo chí nhiều vấn đề đã vượt ra ngoài các quy định của pháp luật như: cơ quan báo chí th ực
hiện nhiều loại hình, vấn đề liên kết trong hoạt động báo chí, vấn đề tài chính c ơ quan báo chí, vai
trò cơ quan chủ quản, tên gọi và trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan báo chí….


Vì vậy, để tạo điều kiện cho sự phát triển lành mạnh của báo chí và nâng cao hiệu quả công tác
quản lý nhà nước về báo chí, Bộ Chính trị đã có các Thông báo số 162-TB/TW, s ố 41-TB/TW và
Thông báo số 68-TB/TW về một số biện pháp tăng cường lãnh đạo và quản lý báo chí; Th ủ t ướng
Chính phủ ban hành Chỉ thị số 37/2006/CT-TTg ngày 29/11/2006 về việc th ực hiện kết lu ận c ủa
Bộ Chính trị về một số biện pháp tăng cường lãnh đạo và quản lý báo chí, trong đó giao cho Bộ
Thông tin và Truyền thông ‘tiến hành tổng kết việc thi hành Luật Báo chí hiện hành để có ki ến
nghị, đề xuất sửa đổi, bổ sung phù hợp”.


Tháng 4/2016, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Luật Báo chí (sửa đ ổi, bổ sung) v ới s ố phiếu tán
thành cao.
Luật Báo chí 2016 gồm 6 chương với 61 điều (tăng 25 điều), trong đó có 32 điều xây dựng m ới, 29
điều sửa đổi, bổ sung các quy định của Luật Báo chí hiện hành.

Kết cấu các chương của luật Báo chí 2016 đã bỏ chương quản lý nhà nước về báo chí, thay đổi kết
cấu chương 3 (Nhiệm vụ quyền hạn của báo chí), chương 4 (Tổ chức báo chí và nhà báo) của Luật
Báo chí 1999 thành chương 3 (Tổ chức báo chí) và chương 4 (Hoạt động báo chí) trong Luật Báo
chí mới.
Về nội dung mới:

Thứ nhất, quy định về quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân: luật
Báo chí lần này đã kết cấu Chương II với 04 điều quy định cụ thể về quyền tự do báo chí, quy ền t ự
do ngôn luận trên báo chí của công dân, trong đó quy định công dân có quyền: Sáng tạo tác ph ẩm
báo chí, cung cấp thông tin cho báo chí, phản hồi thông tin trên báo chí, ti ếp cận thông tin báo chí,
liên kết với cơ quan báo chí thực hiện sản phẩm báo chí, in và phát hành báo in; góp ý kiến, phê
bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với các tổ chức của Đảng, cơ quan Nhà n ước, t ổ
chức chính trị - xã hội; tổ chức chính trị - xã hội, nghề nghiệp; tổ chức xã hội; tổ chức xã hội - nghề
nghiệp và thành viên của các cơ quan, tổ chức đó.

Thứ hai, về đối tượng thành lập cơ quan báo chí, ngoài các đối tượng thành lập cơ quan báo chí
theo luật hiện hành, luật Báo chí mới đã bổ sung một số đối tượng đ ược thành lập tạp chí khoa
học, như: Cơ sở giáo dục đại học theo quy định của luật Giáo dục đại học; t ổ ch ức nghiên c ứu khoa
học, tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ được tổ chức d ưới hình thức vi ện hàn
lâm, viện theo quy định của luật Khoa học và Công nghệ; bệnh viện từ cấp tỉnh, thành phố tr ực
thuộc Trung ương hoặc tương đương trở lên.


Quy định trên cho phép các cơ sở giáo dục và tổ chức khoa học và công ngh ệ thu ộc lo ại hình t ư

thục, có đầu tư của nước ngoài được phép ra tạp chí khoa học.

Thứ ba, luật Báo chí mới đã bổ sung quy định về liên kết trong hoạt động báo chí, trong đó quy
định cụ thể lĩnh vực, nội dung các cơ quan báo chí được phép liên kết với cơ quan báo chí khác,
pháp nhân, cá nhân có đăng ký kinh doanh phù hợp với lĩnh vực liên kết; thời lượng tối đa đ ược
phép liên kết trong kênh phát thanh, kênh truyền hình phục vụ nhiệm vụ chính trị, thông tin tuyên
truyền thiết yếu theo quy định và kênh thời sự - chính trị tổng hợp; thời lượng t ối đa mà cơ quan
báo nói, báo hình có hoạt động liên kết sản xuất toàn bộ kênh phát thanh, kênh truyền hình. C ơ
quan báo chí chủ động thực hiện, chịu trách nhiệm mà không phải xin phép c ơ quan quản lý nhà
nước về báo chí, nhằm cải cách thủ tục hành chính, bảo đảm tính t ự chủ, t ự chịu trách nhi ệm c ủa
cơ quan báo chí.

Thứ tư, về quyền tác nghiệp của báo chí, ngoài những quy định của luật Báo chí hi ện hành, lu ật
Báo chí lần này đã quy định cụ thể về trách nhiệm cung cấp thông tin cho báo chí c ủa c ơ quan, t ổ
chức, người có trách nhiệm; những thông tin cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền có quy ền t ừ
chối cung cấp thông tin cho báo chí.

Để bảo vệ nguồn tin báo chí và quyền tác nghiệp của nhà báo, so với luật hiện hành, luật Báo chí
mới đã quy định giới hạn việc cơ quan báo chí, nhà báo chỉ phải tiết lộ người cung cấp thông tin
khi có yêu cầu bằng văn bản của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, Chánh án Toà án nhân dân
cấp tỉnh và tương đương trở lên cần thiết cho việc điều tra, xét xử tội phạm rất nghiêm tr ọng, đặc
biệt nghiêm trọng. Đồng thời, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, Chánh án Tòa án nhân dân cấp
tỉnh và tương đương trở lên có trách nhiệm tổ chức bảo vệ người cung cấp thông tin sau khi tên
của họ được tiết lộ.

Thứ năm, cùng với việc quy định rõ quyền hạn, nghĩa vụ đối với nhà báo trong luật, để nêu cao vai
trò của nhà báo, trách nhiệm công dân của người làm báo, luật Báo chí m ới này còn b ổ sung, lu ật
hoá những quy định bắt buộc về đạo đức nghề nghiệp của người làm báo; trong đó quy định H ội
nhà báo Việt Nam có nhiệm vụ ban hành và tổ ch ức thực hiện quy định về đạo đ ức nghề nghiệp
của người làm báo; nhà báo có nghĩa vụ tuân thủ quy định về đạo đ ức nghề nghiệp c ủa người làm

báo và sẽ bị thu hồi thẻ nhà báo khi vi phạm về đạo đức nghề nghiệp gây hậu quả nghiêm tr ọng.

Thứ sáu, về hoạt động kinh doanh dịch vụ của cơ quan báo chí: Luật Báo chí m ới quy đ ịnh mở h ơn
luật hiện hành về hoạt động kinh doanh, dịch vụ của cơ quan báo chí, thể hiện tại đi ểm c khoản 2
điều 21 quy định: nguồn thu của cơ quan báo chí gồm thu t ừ hoạt đ ộng kinh doanh, d ịch v ụ c ủa c ơ
quan báo chí, các đơn vị trực thuộc cơ quan báo chí.


Thứ bảy, về những hành vi bị cấm trong hoạt động báo chí: Điều 9 luật Báo chí mới đã quy định
các hành vi bị cấm trong hoạt động báo chí, trong đó đã quy định cụ thể hơn, rõ ràng h ơn m ột s ố
hành vi so với Luật Báo chí hiện hành, có bổ sung một số hành vi như: Thông tin quy k ết t ội danh
khi chưa có bản án của tòa án, thông tin ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường về thể chất và
tinh thần của trẻ em, thông tin về những chuyện thần bí gây hoang mang trong xã hội, ảnh h ưởng
xấu đến trật tự, an toàn xã hội và sức khỏe của cộng đồng....

Những hành vi cấm đăng, phát thông tin quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 9 đã có s ự t ương thích
với các quy định tại Bộ Luật hình sự năm 2015, các hành vi bị cấm khác đã tương thích với bộ lu ật
Dân sự và các luật khác, đảm bảo tính khả thi trong thực tế.

Thứ tám, về cải chính và xử lý vi phạm: Nhằm đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ
chức, cá nhân bị báo chí thông tin sai sự thật, luật Báo chí m ới đã bổ sung m ột s ố quy đ ịnh m ới v ề
cải chính như: Báo chí điện tử, ngoài việc đăng, phát lời cải chính, xin lỗi còn phải gỡ bỏ ngay
thông tin sai sự thật đã đăng, phát. Các cơ quan báo chí, trang thông tin đi ện t ử t ổng h ợp đã đăng,
phát thông tin của cơ quan báo chí khác có nội dung phải cải chính, xin lỗi cũng phải th ực hi ện
đăng lại cải chính, lỗi của cơ quan báo chí vi phạm. Đồng thời quy định cụ thể vị trí cải chính đối
với từng loại hình báo chí.

Luật Báo chí lần này đã bổ sung quy định mới về xử lý vi phạm như: Cơ quan báo chí bị thu h ồi
giấy phép hoạt động báo chí, giấy phép xuất bản thêm ấn phẩm báo chí, phụ trương, sản xu ất
thêm kênh phát thanh, kênh truyền hình, chuyên trang của báo điện t ử và cơ quan, t ổ chức bị thu

hồi giấy phép xuất bản đặc san, bản tin khi đăng, phát thông tin vi phạm quy định tại điều 9 gây
ảnh hưởng rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng.

Thứ chín, luật Báo chí mới đã pháp điển hóa quy định tại các nghị đ ịnh của Chính ph ủ để đ ưa vào
luật, đồng thời bổ sung một số quy định mới để điều chỉnh hoạt động báo chí, cụ thể là các quy
định về: Chính sách của Nhà nước về phát triển báo chí; thay đổi cơ quan ch ủ quản của cơ quan
báo chí; hoạt động hợp tác của báo chí Việt Nam với nước ngoài; hoạt đ ộng báo chí c ủa báo chí
nước ngoài, cơ quan đại diện nước ngoài, tổ chức nước ngoài tại Việt Nam; bảo vệ nội dung các
chương trình phát thanh, chương trình truyền hình, báo điện tử; phản hồi thông tin... .



×