Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Nâng cao văn hóa chính trị của cán bộ, công chức tỉnh Ninh Bình (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (881.25 KB, 96 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

MAI THỊ TUYẾT LÀNH

NÂNG CAO VĂN HÓA CHÍNH TRỊ
CỦA CÁN BỘ, CÔNG CHỨC TỈNH NINH BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

HÀ NỘI, 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

MAI THỊ TUYẾT LÀNH

NÂNG CAO VĂN HÓA CHÍNH TRỊ
CỦA CÁN BỘ, CÔNG CHỨC TỈNH NINH BÌNH

Chuyên ngành: CHÍNH TRỊ HỌC
Mã số: 60 31 02 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS,TS. Nguyễn Thu Nghĩa

HÀ NỘI, 2017




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi được thực
hiện dưới sự hướng dẫn của PGS,TS.Nguyễn Thu Nghĩa. Các số liệu và kết
quả nêu trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn
chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào.

Hà Nội, ngày 15 tháng 8 năm 2017
Tác giả luận văn

MAI THỊ TUYẾT LÀNH


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1 VĂN HÓA CHÍNH TRỊ VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG
CAO VĂN HÓA CHÍNH TRỊ CỦA CÁN BỘ, CÔNG CHỨC .................. 9
1.1. Văn hóa chính trị .................................................................................... 9
1.2. Sự cần thiết phải nâng cao văn hóa chính trị của cán bộ, công chức ... 21
Chương 2 NÂNG CAO VĂN HÓA CHÍNH TRỊ CỦA CÁN BỘ, CÔNG
CHỨC TỈNH NINH BÌNH: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ................ 28
2.1. Khái quát chung về tỉnh Ninh Bình và đội ngũ cán bộ, công chức của
Tỉnh .............................................................................................................. 28
2.2. Thực trạng văn hóa chính trị của cán bộ, công chức tỉnh Ninh Bình ... 38
2.3. Một số giải pháp cơ bản nâng cao văn hóa chính trị của cán bộ, công
chức tỉnh Ninh Bình ..................................................................................... 65
KẾT LUẬN .................................................................................................... 72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 74
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 80



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Văn hóa chính trị (VHCT) là một bộ phận cấu thành của văn hóa trong
xã hội có giai cấp, là kết quả của quá trình hoạt động của con người trong lĩnh
vực chính trị. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, văn hóa chính trị giữ
vai trò quan trọng đối với mỗi nền chính trị, nó vừa là mục tiêu, vừa là động
lực phát triển kinh tế xã hội.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng: “Cán bộ là cái gốc của
mọi công việc”, “muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay
kém”. Điều này đã khẳng định được vị trí, vai trò quan trọng của đội ngũ cán
bộ, công chức trong hệ thống chính trị. Thực tiễn cách mạng ở nước ta cũng
đã chứng minh điều đó. Với tư cách là những người hoạt động chính trị
chuyên nghiệp, năng lực, trình độ và cách ứng xử của đội ngũ cán bộ, công
chức trong mọi quan hệ chính trị có vai trò quyết định đến sự tồn vong, hưng
thịnh của một quốc gia, một chế độ. Họ là lực lượng chính trị cơ bản có khả
năng thiết kế, tổ chức và quản lý xã hội để đạt được mục tiêu chính trị đã đề
ra. Nhận thức rõ tầm quan trọng của đội ngũ cán bộ, công chức trong công
cuộc đổi mới, Đảng ta luôn quan tâm đến công tác cán bộ, coi đây là vấn đề
chiến lược, có tính quyết định của sự nghiệp cách mạng, do đó đã xây dựng
được đội ngũ cán bộ, công chức có năng lực, trình độ đáp ứng được yêu cầu
nhiệm vụ. Tuy nhiên, trong thời kỳ hội nhập quốc tế, đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, với sự phát triển của khoa học công nghệ và nền
kinh tế thị trường đã tạo ra những thời cơ song cũng không ít thách thức đối
với đội ngũ cán bộ, công chức. Đó là tình trạng suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức lối sống; năng lực, trình độ chuyên môn chưa đáp ứng được yêu
cầu nhiệm vụ ở một số cán bộ, công chức đã tác động đến tư tưởng, ý chí và

1



niềm tin của đội ngũ cán bộ, công chức cả nước nói chung và cán bộ, công
chức tỉnh Ninh Bình nói riêng.
Sau hơn 30 năm đổi mới, tình hình kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của
tỉnh Ninh Bình đã có nhiều khởi sắc, đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân trong tỉnh từng bước được nâng cao, tình hình chính trị ổn định, an ninh quốc phòng được giữ vững. Có được kết quả đó là do Tỉnh ủy, Hội đồng nhân
dân, Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Bình đã vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối lãnh đạo của Đảng vào thực tiễn
của địa phương; sự đoàn kết, thống nhất của cả hệ thống chính trị trong đó đội
ngũ cán bộ, công chức của Tỉnh giữ vai trò then chốt. Tuy nhiên, cũng có một
số cán bộ, công chức của Tỉnh chưa tích cực tìm hiểu, học tập, nâng cao nhận
thức chính trị, còn thiếu niềm tin vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội,
hoạt động chính trị còn thiếu tính sáng tạo, có không ít cán bộ, công chức tham
gia các hoạt động chính trị một cách miễn cưỡng nên kết quả công tác không
được như mong đợi. Do đó, việc xây dựng và củng cố đội ngũ này về phẩm
chất chính trị và năng lực, trình độ chuyên môn để đáp ứng được yêu cầu phát
triển kinh tế - xã hội của địa phương là nhiệm vụ vừa mang tính cấp bách, vừa
mang tính chiến lược. Với mong muốn đánh giá thực trạng văn hóa chính trị
và việc nâng cao văn hóa chính trị của cán bộ, công chức tỉnh Ninh Bình hiện
nay, đưa ra những giải pháp để có thể nâng cao hơn nữa văn hóa chính trị cho
đội ngũ này đáp ứng được các yêu cầu của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, tác giả chọn đề tài “Nâng cao văn hóa chính trị của cán bộ, công chức
tỉnh Ninh Bình” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam trong những năm gần đây, văn hóa chính trị là vấn đề được
nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, tìm hiểu và tiếp cận ở nhiều góc độ khác
nhau, tiêu biểu như:

2



“Văn hoá chính trị và việc bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở nước
ta hiện nay” do Phạm Ngọc Quang chủ biên, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
1995. Trong cuốn sách này, các tác giả đã đưa ra những nội dung khoa học về
phạm trù VHCT, vai trò của VHCT trong hoạt động chính trị, trong việc nâng
cao năng lực lãnh đạo của đội ngũ cán bộ cũng như đưa ra một số phương
hướng bồi dưỡng VHCT cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở nước ta.
Tác giả Nguyễn Hồng Phong trong“Văn hoá chính trị Việt Nam truyền
thống và hiện đại”, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 1998 đã đi sâu nghiên
cứu những giá trị truyền thống của VHCT Việt Nam, từ đó đưa ra những
phương hướng cho việc kế thừa các di sản VHCT truyền thống trong công
cuộc đổi mới ở nước ta.
Trong bài “Văn hóa và văn hóa chính trị từ cách nhìn tiếp cận của triết
học chính trị mácxít”, Tạp chí Triết học, số 5, 2005, tác giả Nguyễn Văn
Huyên cho rằng, xây dựng VHCT hiện nay là xây dựng một nền chính trị
khoa học - cách mạng - nhân văn với tất cả nhận thức, mục tiêu, các yếu tố,
toàn bộ cơ cấu, thiết chế, cơ chế vận hành của nó. VHCT của nền chính trị
Việt Nam là mục tiêu, nội dung chính trị, khoa học tổ chức, lãnh đạo, quản lý
và phương thức thực thi chính trị của Đảng, các cơ quan nhà nước; khoa học
và nghệ thuật hoạt động chính trị của tất cả các chủ thể chính trị.
Cuốn Nâng cao VHCT của cán bộ lãnh đạo quản lý ở nước ta hiện nay
của Lâm Quốc Tuấn, Nxb Văn hóa - Thông tin và Viện Văn hóa, Hà Nội,
2006 góp phần hệ thống hóa và phân tích những quan điểm, luận điểm cơ bản
về văn hóa chính trị, về tính tất yếu phải nâng cao văn hóa chính trị, cũng như
phương hướng, nội dung và những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao VHCT
của cán bộ lãnh đạo quản lý ở Việt Nam hiện nay.
Các tác giả Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Hoài Văn, Nguyễn Văn Vĩnh
trong “Bước đầu tìm hiểu những giá trị văn hóa chính trị truyền thống Việt

3



Nam”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2009 tập trung nghiên cứu bản chất,
nội dung của VHCT, tìm hiểu những nhân tố hình thành tư tưởng VHCT Việt
Nam trong lịch sử và những nét đặc sắc của nó; phân tích một số giá trị
VHCT truyền thống của Việt Nam như: Tư tưởng độc lập, tự chủ, tự cường,
tinh thần dân tộc, tính cố kết cộng đồng…
Cuốn Phát huy tính tích cực xã hội của đội ngũ cán bộ nước ta hiện
nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2010 của tác giả Nguyễn Văn Tài phân
tích khái niệm, nội dung và những động lực cơ bản phát huy tính tích cực xã
hội của đội ngũ cán bộ; khẳng định vai trò của đội ngũ cán bộ thông qua khảo
sát một số nét khái quát về những thành công và những mặt còn bất cập trong
thực tiễn; đề xuất một số vấn đề cơ bản nhằm phát huy tính tích cực nhân tố
con người của đội ngũ cán bộ trong tình hình hiện nay.
Bên cạnh các công trình này, có một số bài nghiên cứu liên quan đến văn
hoá chính trị và nâng cao văn hoá chính trị của cán bộ, công chức hiện nay. Có
thể kể đến bài: “Bản chất văn hoá chính trị" của tác giả Phạm Đình Đạt, Tạp
chí Khoa học chính trị số 1, 1998 bàn về các nhân tố bản chất của văn hoá
chính trị.
Lâm Quốc Tuấn “Văn hóa chính trị và sự phát triển con người - xã
hội”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 4, 2001 cho rằng VHCT phải là một hệ
thống giá trị xã hội phản ánh đầy đủ các dấu hiệu chân - thiện - mỹ, là tiêu chí
quan trọng để xác định sự phát triển và trình độ phát triển chung của ý thức xã
hội và ý thức công dân, qua đó thấy được chức năng của VHCT đối với việc
hình thành các chủ thể chính trị tích cực, khẳng định VHCT là một nguồn lực
to lớn trong sự phát triển xã hội.
Nguyễn Văn Vĩnh trong "Vai trò của văn hoá chính trị trong việc hình
thành phẩm chất và năng lực người lãnh đạo chính trị”, Thông tin chính trị

4



học, số 4- 2003, nghiên cứu các tiêu chí văn hoá chính trị của đội ngũ cán bộ
lãnh đạo ở nước ta.
Tác giả Hoàng Chí Bảo “Văn hoá chính trị với công tác vận động quần
chúng nhân dân trong tình hình hiện nay”, Tạp chí Dân vận số 1, 2005 nghiên
cứu VHCT trong mối quan hệ với chính trị học và vai trò của VHCT trong hoạt
động vận động quần chúng ở nước ta theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Lê Như Hoa, “Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá chính trị", Tạp chí
Văn hoá nghệ thuật số 9, 2005 nghiên cứu những chuẩn mực trong Tư tưởng
Hồ Chí Minh về văn hóa chính trị.
“Văn hóa chính trị Việt Nam trong thời kỳ đổi mới” của tác giả Phạm
Huy Kỳ trên Tạp chí Tuyên giáo online Tuyengiao.vn, ngày 12/6/2010 nói về
sự thẩm thấu của văn hóa vào chính trị, biểu hiện của văn hóa chính trị, sự tác
động của VHCT đến đời sống xã hội và việc xây dựng VHCT trong thời kỳ
đổi mới ở Việt Nam.
Trần Đình Thảo, Ngô Minh Thuận trong“Văn hóa chính trị trong việc
hình thành phẩm chất, năng lực của người cán bộ lãnh đạo chính trị”, tạp chí
Triết học, số 6, 2011 đã làm rõ khái niệm VHCT và các vai trò của VHCT
trong việc phát huy tính tự giác, chủ động, sáng tạo của các chủ thể chính trị
trong hoạt động chính trị. Một là, VHCT góp phần điều chỉnh hành vi và các
quan hệ chính trị - xã hội, nâng cao nhận thức chính trị cho cán bộ lãnh đạo
chính trị. Hai là, VHCT góp phần hình thành nhân cách của người cán bộ
lãnh đạo chính trị và hướng nhân cách đó vào những hoạt động tích cực nhằm
thực hiện những giá trị lý tưởng đã chọn. Ba là, VHCT góp phần thúc đẩy quá
trình xã hội hóa về chính trị, làm cho người cán bộ lãnh đạo chính trị tích cực
hoạt động chính trị. Bốn là, VHCT nâng cao tính nhạy bén, chủ động, sáng
tạo trong hoạt động chính trị của người cán bộ lãnh đạo chính trị và góp phần
khắc phục bệnh quan liêu của người cán bộ lãnh đạo chính trị.


5


“Bàn về sức sống của VHCT Việt Nam” của tác giả Nguyễn Văn Vĩnh
Tạp chí Tuyên giáo online Tuyengiao.vn ngày 02/4/2015, bàn về cơ sở hình
thành và phát triển của VHCT Việt Nam; bản chất, bản sắc của VHCT Việt
Nam từ truyền thống đến hiện đại.
Tác giả Lâm Quốc Tuấn trong bài“Một số giải pháp chủ yếu nâng cao
văn hóa chính trị của cán bộ lãnh đạo nước ta hiện nay”, Tạp chí Triết học,
số 8, 2016 đã luận giải một số phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm nâng
cao VHCT của cán bộ lãnh đạo chính trị ở nước ta hiện nay. Theo tác giả, có
6 vấn đề cần chú ý trong nâng cao VHCT của cán bộ lãnh đạo chính trị nước
ta. Đó là: 1. Nâng cao VHCT của cán bộ lãnh đạo gắn liền với việc nâng cao
nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; 2. Nâng cao
VHCT của cán bộ lãnh đạo gắn liền với việc nắm vững cương lĩnh, đường lối
chính trị của Đảng; 3. Nâng cao VHCT của cán bộ lãnh đạo gắn liền với việc
trang bị những kiến thức cơ bản về khoa học chính trị và khoa học lãnh đạo;
4. Nâng cao VHCT của cán bộ lãnh đạo gắn liền với việc rèn luyện đạo đức,
lối sống và phát huy tính tích cực chính trị của chủ thể chính trị này; 5. Nâng
cao VHCT của cán bộ lãnh đạo gắn liền với việc không ngừng nâng cao trình
độ văn hóa chính trị của quần chúng nhân dân lao động; 6. Nâng cao VHCT
của cán bộ lãnh đạo gắn liền với đổi mới công tác cán bộ của Đảng.
Nguyễn Thị Thu Hà trong bài Văn hóa chính trị với đạo đức người cán
bộ, công chức trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ ngh a ở
Việt Nam trên website Tạp chí Tổ chức Nhà nước ngày 15/4/2016 đã trình bày
mối quan hệ giữa đạo đức với văn hóa chính trị; tác động tích cực và tiêu cực
của cơ chế thị trường đến văn hóa chính trị và đưa ra các giải pháp góp phần
hạn chế những tiêu cực của cơ chế thị trường đến đạo đức và văn hóa chính trị
của cán bộ, công chức.


6


Các công trình nghiên cứu trên ở các mức độ khác nhau đã đưa ra các
vấn đề liên quan đến VHCT như: khái niệm VHCT, vai trò của VHCT, cơ sở
hình thành và phát triển VHCT ở Việt Nam cũng như những phương hướng
và giải pháp để nâng cao VHCT nói chung và VHCT của các cán bộ lãnh đạo
nói riêng. Đây là những tài liệu hết sức cần thiết để các tác giả tham khảo và
kế thừa trong quá trình thực hiện luận văn của mình. Tuy nhiên, với mục đích
và nhiệm vụ của mỗi công trình, có công trình khai thác VHCT ở khía cạnh lý
luận, có công trình khai thác VHCT ở khía cạnh thực tiễn, có công trình đề
cập đến việc nâng cao VHCT cho một đối tượng nhất định… nhưng cho đến
nay chưa có công trình nào nghiên cứu về vấn đề nâng cao VHCT của cán bộ,
công chức tỉnh Ninh Bình. Do đó, đề tài mà chúng tôi lựa chọn không trùng
lặp với các đề tài đi trước.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng văn
hóa chính trị và việc nâng cao văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ, công
chức tỉnh Ninh Bình, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa
văn hóa chính trị của đội ngũ này.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Luận văn trình bày khái quát một số vấn đề lý luận về văn hoá chính
trị, sự cần thiết phải nâng cao văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ, công chức.
- Phân tích thực trạng văn hóa chính trị và việc nâng cao văn hóa chính
trị của đội ngũ cán bộ, công chức tỉnh Ninh Bình hiện nay từ đó đưa ra những
đánh giá về thành tựu và hạn chế, nguyên nhân của những thành tựu và hạn
chế trong văn hóa chính trị và việc nâng cao văn hóa chính trị của cán bộ,
công chức tỉnh Ninh Bình.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nâng cao hơn nữa văn hóa chính trị
của đội ngũ cán bộ, công chức tỉnh Ninh Bình.


7


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung khảo sát văn hóa chính trị và
việc nâng cao văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ, công chức làm việc trong
các tổ chức Đảng, cơ quan nhà nước và tổ chức chính trị xã hội ở tỉnh Ninh Bình.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu làm rõ vấn đề nâng
cao văn hóa chính trị của cán bộ, công chức trên địa bàn tỉnh Ninh Bình từ
năm 2010 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, các chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước về văn hóa và văn hóa chính trị; về cán bộ, công chức và xây dựng
đội ngũ cán bộ, công chức.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử kết hợp các phương
pháp: thống kê, điều tra, so sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ý ngh a lý luận: Luận văn góp phần làm rõ khái niệm, cấu trúc, đặc
điểm, chức năng của văn hóa chính trị. Sự cần thiết phải nâng cao văn hóa
chính trị của cán bộ, công chức.
Ý ngh a thực tiễn: Trên cơ sở phân tích thực trạng về văn hóa chính trị
của cán bộ, công chức tỉnh Ninh Bình đề xuất một số giải pháp nhằm nâng
cao văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ, công chức của Tỉnh.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục,
luận văn gồm 02 chương, 5 tiết.

8



Chương 1
VĂN HÓA CHÍNH TRỊ VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO
VĂN HÓA CHÍNH TRỊ CỦA CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
1.1. Văn hóa chính trị
1.1.1. Khái niệm văn hóa chính trị
Văn hóa chính trị với tư cách là một bộ phận của văn hóa xuất hiện
trong lịch sử cùng với sự xuất hiện của giai cấp. Ý niệm về văn hóa chính trị
đã xuất hiện manh nha từ thời cổ đại và trở thành đối tượng nghiên cứu của
nhiều nhà tư tưởng lớn thời cổ đại như: Platôn, Arixtốt, Khổng Tử, Mạnh Tử,
Hàn Phi Tử… và tiếp tục được phát triển bởi các nhà tư tưởng chính trị tư sản
cận đại nổi tiếng như Môngtexkiơ, Vonte, Rutxô. Trong các tác phẩm của
mình, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lênin đã đề cập đến một số nội
dung cơ bản về VHCT nhưng chưa đưa ra một khái niệm đầy đủ. Tuy nhiên
khái niệm văn hóa chính trị lại xuất hiện khá muộn trong khoa học chính trị.
Người đầu tiên đưa ra khái niệm VHCT là nhà chính trị học người hoa
kỳ G.Almond vào năm 1956 trong bài “Các hệ thống chính trị so sánh”
(Comparative Poilitical Systems) đăng trên tạp chí Chính trị học- (Journal of
Politics), số 8, 1956. Ông đã tập trung nghiên cứu, phân tích hành vi chính trị,
động cơ hành động của các chủ thể từ đó đưa ra định nghĩa VHCT là tập hợp
các lập trường và các xu hướng cá nhân của những người tham gia trong một
hệ thống nào đó, là lĩnh vực chủ quan làm cơ sở hành động chính trị và làm
cho hoạt động chính trị có ý nghĩa. Khái niệm của G.Almond đã mở ra hướng
đi mới cho việc nghiên cứu văn hóa chính trị, giúp thoát khỏi tình trạng bế tắc
trong việc giải thích các xu hướng liên quan tới chính trị của con người.
Sau đó, năm 1963 G.Almond và Sidney Verba trong cuốn “Văn hóa
công dân”- (The Civic Culture) đã trình bày cách tiếp cận khoa học về VHCT
bằng việc đưa ra một khuôn khổ lý thuyết chung. Theo G.Almond “VHCT là


9


những định hướng, thái độ chính trị đặc biệt với hệ thống chính trị cũng như
đối với vai trò của bản thân mình trong hệ thống ấy”. S.Verba cho rằng:
“VHCT là hệ thống những niềm tin về kiểu mẫu các thiết chế và sự tương tác
chính trị”. Trong ý nghĩa đó, hai ông xem VHCT như một hệ thống chính trị
được nội tâm hóa trong nhận thức, tình cảm và sự đánh giá của quần chúng.
H. Paul nhà chính trị học người Mỹ đã đưa ra khái niệm VHCT đến nay
vẫn được nhiều người đồng tình: “VHCT là tập hợp các lập trường và các xu
hướng cá nhân của những người tham gia trong một hệ thống nào đó, là l nh
vực chủ quan làm cơ sở cho hành động chính trị và làm cho hoạt động chính
trị có ý ngh a. Những định hướng cá nhân gồm một số thành tố cụ thể:
Định hướng nhận thức: Là hiểu biết đúng, sai về các khách thể và các
tư tưởng chính trị. Những hiểu biết này có thể là hiểu biết trực quan về chính
trị cũng có thể là tư duy chính trị đã được khoa học hóa.
Định hướng tình cảm: Đó là cảm giác về mối liên hệ, sự lôi cuốn, về
mâu thuẫn… với các khách thể chính trị nào đó.
Định hướng đánh giá: Là ý kiến, nhận xét về các khách thể trên cơ sở
căn cứ vào những hệ thống giá trị và tiêu chuẩn để đánh giá”[51]
Nhà khoa học chính trị thuộc Đại học Tổng hợp Pausau - Patzelt quan
niệm rằng: “VHCT là những giá trị và tri thức, những quan điểm và thái độ
của nhân dân, là những dạng thức của hành vi và sự tham dự chính trị; là
những quy tắc công khai hoặc được mặc nhiên thừa nhận của quá trình chính
trị; là những cơ sở thường nhật của hệ thống chính trị và là tập hợp của tất cả
những gì thuộc về văn hóa và tập tục của xã hội hiện tồn”[53, tr.21].
Theo Từ điển Xã hội học Oxford: “VHCT (Political Culture) chỉ những
chuẩn mực, giá trị và biểu trưng giúp hợp pháp hóa hệ thống quyền lực chính
trị của một xã hội (ví dụ trong xã hội Mỹ, đó là Hiến pháp, nền dân chủ, bình
đẳng, quốc kỳ). Khi một nền VHCT sụp đổ hoặc bị hồ nghi, thì sẽ dẫn tới


10


cuộc khủng hoảng về tính hợp pháp, như trường hợp Trung Âu và Liên Xô cũ
trong những năm 1989-1991. Văn hóa chính trị giống như văn hóa nói chung,
cấu thành từ các mảng tri thức thu nhận được mà con người trong một xã hội
cụ thể nào cho là đúng. Các vụ scandal, tiết lộ bí mật, thất bại và thảm họa
chính trị có thể làm xói mòn niềm tin của công dân rất nhanh trong cả hệ
thống nói chung. Vì lý do này mà việc duy trì VHCT là một mối bận tâm
chính của các chính trị gia và quan chức nhà nước các cấp” [10, tr.647-648].
Ở Việt Nam, VHCT đang là vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu quan
tâm. Trong các công trình nghiên cứu cũng có nhiều quan điểm, cách tiếp cận
khác nhau về VHCT, cũng như có rất nhiều khái niệm VHCT được đưa ra.
Theo nhóm tác giả Đặng Xuân Kỳ, Vũ Khiêu, Hoàng Chí Bảo: “VHCT
không phải là bản thân chính trị mà là chính trị có văn hóa, chính trị tác động
vào con người và xã hội như một sức mạnh văn hóa, sức mạnh không phải chỉ
dựa vào quyền lực mà phải dựa vào sự cảm hóa con người, thức tỉnh lương
tri, lay động tâm tư, tình cảm của con người, thuyết phục, chinh phục, thu
phục con người”[30, tr.248].
Các tác giả Bùi Đình Phong và Phạm Ngọc Anh định nghĩa: “VHCT là
cái đẹp, cái giá trị của chính trị, tức là chính trị thấm sâu vào tâm lý quốc dân,
vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng
tập thể và cộng đồng như một sức mạnh văn hóa, sức mạnh hợp nhất lý và
tình, thuyết phục bằng cảm hóa” [31, tr.63].
Nhóm tác giả cuốn Bước đầu tìm hiểu những giá trị văn hóa chính trị
truyền thống Việt Nam cho rằng: “VHCT là một phương diện của văn hóa, ở
đó kết tinh toàn bộ các giá trị, phẩm chất, trình độ, năng lực chính trị, được
hình thành trên một nền chính trị nhất định, với phương thức hoạt động nhất
định, thực hiện lợi ích giai cấp, dân tộc, cộng đồng phù hợp với xu hướng

phát triển và tiến bộ của xã hội loài người” [28, tr.24]

11


Trong cuốn “Chính trị học những vấn đề cơ bản” của tập thể tác giả
Võ Khánh Vinh, Đỗ Minh Hợp, Lê Kim Bình, Vũ Mạnh Toàn; các tác giả cho
rằng “Văn hóa chính trị là hiện tượng chính trị phổ biến, xuyên suốt mọi giai
đoạn của tiến trình chính trị. Phát triển theo các quy luật của riêng mình, văn
hóa chính trị có khả năng ảnh hướng lớn đến các hình thức tổ chức quyền lực
chính trị, đến việc xây dựng các thiết chế quyền lực, đến tính chất của quan hệ
giữa các quốc gia” [58, tr.341].
Tác giả Lâm Quốc Tuấn trong bài “Văn hóa chính trị và sự phát triển
con người - xã hội” định nghĩa: “VHCT là một phương diện của văn hóa
trong xã hội có giai cấp nói lên tri thức năng lực sáng tạo trong hoạt động
chính trị dựa trên nhận thức sâu sắc các quan hệ chính trị hiện thực để thực
hiện lợi ích cơ bản của giai cấp hay của xã hội phù hợp với sự phát triển lịch
sử, được phản ánh trong các hình thức, các kiểu tổ chức hoạt động chính trị
trong các thiết chế chính trị, trong các giá trị vật chất cũng như tinh thần do
chính trị sáng tạo ra”[54, tr.9].
Từ những khái niệm của các nhà nghiên cứu đi trước về văn hóa chính
trị, chúng tôi hiểu, “Văn hóa chính trị là phương diện văn hóa trong hoạt
động chính trị bao gồm toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do chủ thể
chính trị sáng tạo ra trong quá trình hoạt động và vận hành của một nền
chính trị được biểu hiện thông qua nhận thức, hành vi của chủ thể mang tính
tích cực, tiến bộ, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử nhằm đạt được mục
đích chính trị”.
1.1.2. Cấu trúc của văn hóa chính trị
1.1.2.1. Văn hóa chính trị tồn tại dưới nhiều góc độ. Nếu xem xét dưới
mối quan hệ giữa ý thức và hoạt động thì VHCT bao gồm ý thức chính trị và

thực tiễn chính trị

12


* Ý thức chính trị là sự phản ánh thực tiễn văn hóa chính trị bao gồm: Tri
thức chính trị, niềm tin chính trị, tình cảm chính trị, lý tưởng chính trị, chuẩn
mực chính trị, hệ tư tưởng chính trị.
- Tri thức chính trị là yếu tố quan trọng cấu thành VHCT, tri thức chính
trị là toàn bộ những hiểu biết về chính trị một cách có hệ thống, là khả năng
nhận thức, hiểu biết bản chất của sự vật, hiện tượng khách quan trong đời
sống chính trị. Tri thức chính trị luôn gắn liền với nhận thức của chủ thể chính
trị. Con người khi tham gia đời sống chính trị và hoạt động chính trị phải có
sự hiểu biết nhất định. V.I.Lênin cho rằng: “Người không biết chữ là người
đứng ngoài chính trị”[33, tr.218]. Trên cơ sở những tri thức và sự hiểu biết về
chính trị, chủ thể chính trị mới có thể giác ngộ về lập trường, quan điểm, giai
cấp đúng đắn, qua đó xác định mục tiêu, thái độ và động cơ chính trị, phát
huy tính tự giác, quyết tâm, sáng tạo cả trong hoạt động thực tiễn cũng như ở
hành vi chính trị.
Tri thức chính trị bao gồm tri thức lý luận và tri thức kinh nghiệm có
mối quan hệ hữu cơ, biện chứng yêu cầu trong hoạt động chính trị các chủ thể
chính trị không được coi nhẹ hoặc tuyệt đối hóa mặt nào. Tuyệt đối hóa tri
thưc lý luận, coi nhẹ kinh nghiệm thực tiễn sẽ dẫn đến lý luận suông và chủ
nghĩa giáo điều. Ngược lại tuyệt đối hóa kinh nghiệm, coi nhẹ lý luận sẽ dẫn
đến chủ nghĩa kinh nghiệm, cảm tính.
- Niềm tin chính trị là sự biểu hiện trạng thái tâm lý, thừa nhận và tin
tưởng vào tính đúng đắn của một lý tưởng chính trị, một thể chế chính trị, một
hệ tư tưởng chính trị, hệ thống chính trị: Đảng phái, nhà nước, lực lượng lãnh
đạo, cầm quyền. Niềm tin chính trị bao gồn niềm tin cảm tính và niềm tin lý tính.
Niềm tin chính trị được củng cố vững chắc trong môi trường chính trị

lành mạnh, tôi luyện trong hoàn cảnh khó khăn, trải qua thử thách, được kiểm

13


nghiệm thường xuyên trong thực tiễn và thể hiện thông qua hoạt động chính
trị hàng ngày.
- Lý tưởng chính trị. Một lý tưởng chính trị cao đẹp sẽ là động lực kích
thích hoạt động chính trị, là xung lực nội tại để hoàn thiện tư chất của chủ thể
chính trị vươn tới những giá trị chân - thiện - mỹ trong hoạt động chính trị
đồng thời duy trì niềm tin, tình cảm chính trị. Một lý tưởng chính trị luôn gắn
liền với một lý thuyết chính trị nào đó. Nếu lý thuyết chính trị ấy khoa học và
chân lý thì tư tưởng chính trị đó sẽ định hướng niềm tin chính trị đúng đắn.
Nếu mù quáng về lý tưởng chính trị sẽ làm cho niềm tin chính trị bị lệch
hướng. Mặt khác cũng cần phải tránh sự tôn sùng lý tưởng chính trị một cách
thái quá để tránh bị chi phối bởi những định kiến chính trị, tránh nhìn nhận
vấn đề một cách phiến diện, không đa chiều. Để có một lý tưởng chính trị
đúng đắn cần phải luôn hòa đồng với cộng đồng, không nên đồng hóa các cá
nhân khác theo lý tưởng mà mình theo đuổi, phải xem xét và nhận thức các lý
thuyết chính trị một cách toàn diện, kết hợp với trí tuệ và đạo đức của chủ thể
để có được lý tưởng chính trị cao đẹp.
- Chuẩn mực chính trị là hệ thống các quy tắc, yêu cầu, đòi hỏi của xã
hội đối với mỗi cá nhân hay nhóm xã hội, trong đó ít nhiều xác định sự chính
xác về tính chất, mức độ, phạm vi, giới hạn của cái được phép, cái không
được phép hay cái bắt buộc phải thực hiện trong hành vi chính trị của mỗi cá
nhân nhằm củng cố, đảm bảo sự ổn định, giữ gìn trật tự, kỷ cương, an ninh
chính trị. Đó là những yêu cầu được đặt ra từ phía xã hội đối với mỗi cá nhân
khi tham gia vào đời sống chính trị. Nó không phải là một khái niệm tĩnh hay
phổ quát mà thay đổi theo thời gian, biến chuyển theo sự thay đổi của các chế
độ chính trị.

Trong quá trình vận động, biến đổi có các quy tắc, yêu cầu của chuẩn
mực chính trị đã được hình thành và phát huy vai trò của mình trong việc điều

14


chỉnh các quan hệ và hành vi của con người trong đời sống chính trị cùng với
sự biến đổi của thời gian thì những chuẩn mực đó dần trở nên lỗi thời, lạc
hậu, khi đó chúng sẽ tự mất đi, bị loại bỏ và được thay thế bằng những chuẩn
mực chính trị khác phù hợp hơn, tiến bộ hơn.
- Hệ tư tưởng chính trị là hệ thống quan điểm, học thuyết, lý luận xác
định chế độ chính trị, cách thức tổ chức nhà nước, mục tiêu chính trị, quan hệ
giữa các giai cấp, các tầng lớp trong hệ thống chính trị, phương thức tổ chức
và thực thi quyền lực nhà nước.
Trong xã hội bao gồm nhiều giai cấp, tầng lớp khác nhau với lợi ích và
động cơ hoạt động khác nhau do đó tồn tại nhiều hệ tư tưởng chính trị khác
nhau. Tuy nhiên hệ tư tưởng của giai cấp thống trị sẽ trở thành hệ tư tưởng
thống trị xã hội, tri phối trình độ, xu hướng phát triển văn hóa chính trị của xã
hội. Hệ tư tưởng được giai cấp cầm quyền thể chế hóa thành hệ thống pháp
luật, đường lối, chủ trương, chính sách để điều chỉnh việc thực hiện hoạt động
thực tiễn nhằm thực thi những mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể trong từng giai đoạn
lịch sử nhất định.
Với tư cách là nhân tố phản ánh khái quát lợi ích của giai cấp cũng như
con đường để thực hiện lợi ích cơ bản của giai cấp, liên minh giai cấp hoặc
của nhân dân lao động nói chung, “hệ tư tưởng là yếu tố cốt lõi nhất, là định
hướng cơ bản cho đời sống tinh thần xã hội”[12].
* Thực tiễn chính trị
Là toàn bộ hoạt động của con người được điều chỉnh bằng ý thức chính
trị, là sự biểu hiện của ý thức chính trị thành hoạt động thực tiễn. Quá trình
này bao gồm mục đích, phương tiện thực hiện và bản thân các hoạt động, các

hành vi chính trị. Chúng ta cần lưu ý mối quan hệ giữa mục đích và phương
tiện. Mục đích thực hiện có văn hóa nhưng phương tiện thực hiện không văn
hóa thì kết quả hành động cũng là không có văn hóa. Nếu mục đích là có văn

15


hóa thì phương tiện cũng phải có văn hóa và đồng thời phương tiện cũng phải
có hiệu quả bởi nếu không thì không thể thực hiện được mục đích, hơn nữa
không thể lấy mục đích để biện minh cho phương tiện bởi nếu như cái không
văn hóa thường xuyên được sử dụng và biện minh như vậy thì từ chỗ là
phương tiện cái vô văn hóa sẽ trở thành mục đích, mục đích ban đầu không
còn là mục đích nữa mà nó là cái biện hộ cho cái vô văn hóa. Điều này
thường xảy ra trong lĩnh vực chính trị. Một bộ phận thường nhân danh những
giá trị tốt đẹp nhưng thực tế lại sử dụng phương tiện rất tàn bạo.
Thực tiễn chính trị có thể được xem xét ở một số khía cạnh sau: Văn
hóa vận hành các thiết chế chính trị, văn hóa của quá trình bầu cử, văn hóa
thực hiện các quyết sách chính trị, văn hóa điều chỉnh các xung đột chính trị,
hành vi tham gia chính trị của các chủ thể.
1.1.2.2. Xét dưới mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, văn hoá
chính trị bao gồm VHCT xã hội, VHCT tổ chức, VHCT cá nhân.
* Văn hóa chính trị xã hội: Phản ánh thực tiễn chính trị của một xã hội
nhất định và là phương thức điều chỉnh hành vi chính trị của các cá nhân
trong xã hội đó. Trong đó những nguyên tắc, chuẩn mực, những quan niệm, lý
tưởng chính trị… được hình thành như một hệ thống giá trị chung mà mọi
người cần noi theo.
*Văn hóa chính trị tổ chức: Là văn hóa chính trị của những cá nhân có
chung mục tiêu, lý tưởng, sứ mệnh tự nguyện hợp thành. Đó là sự thống nhất,
đoàn kết giữa các cá nhân, hoạt động vì mục tiêu và lý tưởng chính trị chung
của tổ chức. Để đảm bảo tính chính đáng của mình, VHCT của tổ chức phải

được đảm bảo về mặt pháp lý biểu hiện cụ thể thông qua: hệ thống quy trình
làm việc, nội quy, quy chế của tổ chức.
* Văn hóa chính trị cá nhân: Là biểu hiện VHCT xã hội trong mỗi cá
nhân cụ thể. Đó chính là sự lĩnh hội, nội tâm hóa VHCT xã hội, biến chúng

16


thành VHCT cá nhân, phản ánh trình độ nội tâm hóa, tiếp nhận VHCT xã hội
bao gồm các yếu tố cơ bản: tri thức, tình cảm và hoạt động thực tiễn.
Ở cấp độ tri thức: Là sự hiểu biết về các nguyên tắc, chuẩn mực chính
trị, là sự tự ý thức về quyền lợi và nghĩa vụ chính trị của cá nhân. Cấp độ này
quy định tính tự giác, chủ động, năng lực thực hiện VHCT của các nhân trong
các quan hệ chính trị.
Ở cấp độ tình cảm: Đó là cảm xúc, thái độ của cá nhân đối với chính
trị. Cấp độ này bị quy định bởi hoạt động thực tiễn, mức độ tham gia vào các
quan hệ chính trị, xã hội của con người và cả tính tích cực của cá nhân trong
việc tiếp nhận, giáo dục và tự giác giáo dục văn hoá chính trị.
Ở cấp độ hoạt động thực tiễn: Biểu hiện ở khả năng ứng xử trước các
tình huống chính trị, khả năng chuyển hóa các yêu cầu, các nguyên tắc, chuẩn
mực văn hoá chính trị xã hội thành văn hoá chính trị cá nhân. Khả năng này
phụ thuộc vào trình độ phát triển và sự phong phú những nhu cầu, tình cảm,
tri thức, năng lực hoạt động thực tiễn chính trị của cá nhân.
Như vậy chúng ta có thể thấy rằng có nhiều cách tiếp cận cấu trúc văn hoá
chính trị khác nhau. Tùy thuộc vào cách tiếp cận khái niệm văn hóa chính trị
mà chúng ta đưa ra cấu trúc văn hoá chính trị phù hợp.
1.1.3. Đặc điểm v chức năng của văn hoá chính trị
1.1.3.1. Đặc điểm của văn hoá chính trị
* Tính giai cấp: Văn hoá chính trị hình thành trong thực tiễn đấu tranh
giai cấp, do đó nó luôn bị chi phối bởi thế giới quan, hệ tư tưởng, những quan

điểm chính trị của giai cấp nhất định và nó phục vụ cho lợi ích của giai cấp
ấy. Do vậy, bất cứ hành vi nào của chủ thể chính trị cũng là hành vi hướng tới
việc hiện thực hóa lợi ích giai cấp và bảo vệ lợi ích giai cấp mình.
* Tính thời đại: Tồn tại trong những giai đoạn lịch sử khác nhau quy
định những nội dung khác nhau trong VHCT. Vì với tư cách là yếu tố thuộc

17


thượng tầng kiến trúc, VHCT là sự phản ánh của tồn tại xã hội. Theo nghĩa
đó, mỗi thời đại khác nhau VHCT có nội dung, tính chất, biểu hiện khác nhau
phù hợp với thời đại đó. Xét cụ thể ở một quốc gia, dân tộc cũng vậy, ở mỗi
thời kỳ lịch sử khác nhau có những chuẩn mực, lý tưởng, hệ tư tưởng chính trị
khác nhau.
* Tính dân tộc: Khi nghiên cứu về văn hoá chính trị, có nhiều bằng
chứng cho thấy sự khác nhau giữa văn hoá chính trị của dân tộc, cộng đồng
người này với dân tộc, cộng đồng người khác. Nguyên nhân do sự khác biệt
về điều kiện sinh hoạt, vị trí địa lý, môi trường sống, khí hậu… mặt khác do
trình độ nhận thức và văn hóa của các dân tộc có sự khác nhau mặc dù những
yếu tố này ban đầu phụ thuộc vào điều kiện sinh hoạt vật chất song sau đó với
tư cách là các yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng, văn hoá chính trị có tính
độc lập nhất định và tác động tới đời sống chính trị của mỗi cộng đồng, dân
tộc làm cho văn hoá chính trị của các cộng đồng dân tộc có những điểm riêng
khác nhau.
* Tính kế thừa: Văn hoá chính trị tồn tại và phát triển luôn có sự tiếp
nối từ truyền thống. VHCT phát triển dựa trên những giá trị văn hóa truyền
thống của dân tộc và nhân loại, là sự kết hợp các yếu tố văn hoá chính trị
truyền thống với hiện đại làm cho văn hoá chính trị ngày càng trở nên phong
phú và đa dạng. Trong quá trình vận động các giá trị truyền thống không bị
phủ định sạch trơn mà nó luôn hòa mình vào hơi thở của thời đại. Sự kế thừa

những giá trị truyền thống thể hiện tính liên tục của văn hóa chính trị.
* Tính đa dạng, phong phú: Hệ tư tưởng là nhân tố cốt lõi của văn hoá
chính trị, mặt khác trong mỗi hình thái kinh tế chính trị nhất định có kết cấu
giai cấp khác nhau do đó hệ tư tưởng của các giai cấp là không đồng nhất.
Trong mỗi nền chính trị, do có sự đối lập về lợi ích nên các giai cấp thường có
hệ tư tưởng đối lập chi phối văn hóa của các giai cấp tương ứng tạo nên sự đa

18


dạng của văn hoá chính trị. Hơn nữa, sự xuất hiện và phát triển văn hoá chính
trị nằm trong mối liên hệ mật thiết với các yếu tố lịch sử, nó là một tiểu hệ
thống trong lĩnh vực văn hóa nói chung, do đó có mối liên hệ chặt chẽ với các
thành tố khác của nền văn hóa nói chung như kinh tế, đạo đức, pháp quyền,
thẩm mỹ, tôn giáo…
1.1.3.2. Chức năng của văn hoá chính trị
* Chức năng nhận thức
Với tư cách thuộc về ý thức xã hội, văn hóa chính trị phản ánh tồn tại
xã hội. Nhận thức văn hoá chính trị có kết quả là các nguyên tắc, chuẩn
mực…của VHCT. Đây chính là những thứ một mặt để điều chỉnh hành vi của
con người, mặt khác nhờ đó mỗi cá nhân biết được cái nào là đúng, cái nào là
sai, cái nào cần phải tuân thủ. Chúng là cơ sở ban đầu để mỗi người có hành
trang tham gia vào thực tiễn chính trị.
* Chức năng giáo dục
Văn hoá chính trị xã hội do con người tạo ra, hình thành nên nhưng khi
xuất hiện nó tồn tại như cái khách quan, có sẵn mà mỗi cá nhân khi sinh ra đã
bắt gặp. Mỗi cá nhân, trong quá trình sống của mình, muốn tồn tại và phát
triển, cần phải tự hoàn thiện mình nhằm đáp ứng yêu cầu xã hội. Văn hoá
chính trị xã hội tồn tại như một môi trường để tạo nên văn hoá chính trị cá
nhân. Chính tại đây, văn hoá chính trị thể hiện chức năng giáo dục của mình.

Môi trường chính trị tạo nên văn hóa chính trị cá nhân theo hai con
đường: nhận thức chính trị và hoạt động thực tiễn.
Nhận thức chính trị là quá trình chuyển VHCT xã hội thành VHCT cá
nhân. Điều này được thực hiện qua hình thức: giáo dục và tự giáo dục. Giáo
dục có thể thông qua môi trường gia đình, nhà trường và xã hội. Nội dung
giáo dục chính là các nguyên tắc, chuẩn mực… chính trị, với những biện pháp
và cách thức khác nhau phù hợp với các đối tượng cụ thể. Tính tự giáo dục

19


của cá nhân bị quy định bởi tính tích cực của con người trong các hoạt động.
Bởi nếu xã hội có những biện pháp, nội dung hay cách thức giáo dục văn hoá
chính trị cá nhân hay đến thế nào đi chăng nữa mà cá nhân không tự giác,
không tích cực thì giáo dục chính trị của xã hội sẽ không đem lại hiệu quả.
Thực tiễn chính trị là quá trình hiện thực hóa nội dung giáo dục văn hoá
chính trị xã hội trong các cá nhân. Theo đó, kết quả giáo dục văn hoá chính trị
là hình thành nên những tri thức cho cá nhân. Nhờ có tri thức văn hoá chính
trị mà cá nhân có niềm tin, lý tưởng về chính trị xã hội (có niềm tin vào chính
trị xã hội thì mới có thể thực hành được), từ đó cá nhân thể hiện văn hóa
chính họ trong xã hội. Nghĩa là quá trình chuyển văn hoá chính trị xã hội
thành văn hoá chính trị cá nhân không chỉ là sự tiếp nhận mà cá nhân cần thể
hiện hoạt động thực tiễn của mình. Ở đây cũng thể hiện tính tích cực về mặt
chính trị của con người.
* Chức năng điều chỉnh hành vi:
Đây là chức năng cơ bản của văn hoá chính trị xã hội, nhằm điều chỉnh
hành vi mỗi cá nhân đáp ứng yêu cầu và lợi ích chung của xã hội thông qua
các quy tắc, chuẩn mực, lý tưởng chính trị. Nói cách khác, sự điều chỉnh này
được thực hiện thông qua toàn bộ các yếu tố của văn hoá chính trị xã hội. Nó
có thể khuyến khích cá nhân tham gia tích cực vì lợi ích chung của cộng

đồng; hoặc cũng có thể ngăn cấm các hành vi làm tổn hại đến lợi ích của cộng
đồng, của quốc gia, dân tộc.
Hiệu quả của chức năng điều chỉnh hành vi của văn hoá chính trị phụ
thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội cũng như sự phát triển ý thức chính trị cá
nhân. Nói cách khác phụ thuộc vào nhân tố khách quan và chủ quan
Nhân tố khách quan chính là các quan hệ kinh tế và các quan hệ xã hội.
Trong một xã hội không có sự thống nhất nhau về cơ bản những lợi ích thì sẽ
không có sự thống nhất nhau về những quan niệm, chuẩn mực, nguyên tắc

20


chính trị. Vì vậy không có một sự điều chỉnh quan hệ chính trị mang tính
thống nhất trên phạm vi toàn xã hội. Do đó, việc tạo ra sự thống nhất cơ bản
những lợi ích trong xã hội sẽ là điều kiện cho việc nâng cao hiệu quả của điều
chỉnh văn hoá chính trị xã hội.
Nhân tố chủ quan chính là cá nhân với cái cốt lõi chính là tri thức, tình
cảm chính trị. Tri thức, tình cảm, lý tưởng chính trị cá nhân càng phong phú,
sâu sắc và đúng đắn bao nhiêu thì sẽ là điều kiện thuận lợi cho việc tiếp nhận
những nguyên tắc, chuẩn mực chính trị xã hội; trên cơ sở đó, kích thích tính
tích cực của con người trong việc thực hiện các trách nhiệm chính trị của
mình. Những điều này lại bị quy định bởi quá trình giáo dục và hoạt động
thực tiễn của chính mỗi cá nhân.
1.2. Sự cần thiết phải nâng cao văn hóa chính trị của cán bộ, công chức
1.2.1. Khái niệm cán bộ, công chức
* Khái niệm cán bộ
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Cán bộ là người làm việc trong cơ quan,
đoàn thể, đảm nhiệm một công tác lãnh đạo hoặc công tác quản lý nghiệp vụ
chuyên môn nhất định”.
Khoản 1, Điều 4, Luật Cán bộ công chức năm 2008: “Cán bộ là công

dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh
theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, ở tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh); ở quận, huyện, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện) trong biên chế và
hưởng lương từ ngân sách nhà nước”.
* Khái niệm công chức

21


×