Tải bản đầy đủ (.docx) (3 trang)

Qua bài thơ Bánh trôi nước, Tự tình II của Hồ Xuân Hương và bài Thương vợ của Trần Tế Xương, anh (chị) hiểu những gì về thân phận người phụ nữ Việt Nam thủa xưa? Văn 11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (55.59 KB, 3 trang )

Qua bài thơ Bánh trôi nước, Tự tình II của
Hồ Xuân Hương và bài Thương vợ của
Trần Tế Xương, anh (chị) hiểu những gì về
thân phận người phụ nữ Việt Nam thủa
xưa?- Văn 11
Qua bài thơ “Bánh trôi nước”, “Tự tình II” của Hồ Xuân Hương và
bài “Thương vợ” của Trần Tế Xương, anh (chị) hiểu những gì về
thân phận người phụ nữ Việt Nam thủa xưa?.
Người phụ nữ xưa luôn luôn bị phân biệt đói xử bất công. Có lẽ chính bởi vậy mà có rất nhiều các áng
văn thơ và cả trong văn học dân gian đều có những câu thơ than thân trách phận của người phụ nữ. Và
ta có thể kể tên một số các bài thơ điển hình khi nói về thân phận của người phụ nữ như “Bánh trôi
nước”. “Tự tình
II” của Hồ Xuân Hương và bài thơ đặc sắc đầy cảm động của Trần Tế Xương
“Thương vợ”.
Hồ Xuân Hương là một trong những nữ thi sĩ đã có rất nhiều sáng tác nhiều bài thơ nổi tiếng về đề tài
phụ nữ. Thơ bà là tiếng nói đòi quyền sống tự do và thể hiện khát khao hạnh phúc. Nhà thơ tài năng Trần
Tế Xương cũng có một số bài thơ nói về những vất vả gian truân mà người phụ nữ phải gánh chịu trong
xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ. Mượn hình ảnh chiếc bánh trôi nước quen thuộc trong dân gian,
Hổ Xuân Hương gửi gắm những suy ngẫm sâu sắc của mình về thân phận nhỏ bé và phụ thuộc của
người phụ nữ xưa
“Thân em vừa trắng lại vừa tròn,
Bảy nổi ba chìm với nước non.
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn,
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.
Một chiếc bánh trôi nước làm bằng bột nếp trắng tinh, mịn màng, tròn trịa và xinh xắn khiến người ta liên
tưởng tới vẻ đẹp hổn nhiên, đầy đặn của những cô gái đương xuân. Bánh trôi được luộc trong nồi nước
sôi, mấy lần chìm xuống nổi lên mới chín. Bột bánh trắng trong nổi rõ màu nâu đỏ của nhân làm bằng
đường thẻ. Với cặp mắt đa sầu và trái tim đa cảm, Hồ Xuân Hương đã nhận ra đằng sau những chi tiết
rất thực ấy là cả một nỗi niềm thương thân trách phận của người phụ nữ. Tạo hóa sinh ra họ là để duy trì
và phát triển sự sống của nhân loại, đồng thời làm đẹp cho đời. Vai trò của họ là vô cùng quan trọng,
nhưng quan niệm thiên vị đến mức lệch lạc trong xã hội phong kiến đã cố tình phủ nhận điều đó. Nào là:


Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô. Rồi thì còn là “Nữ nhân ngoại tộc”. Rồi cả những luật Tam tòng hà
khắc như đã cột chặt người phụ nữ vào thân phận bị phụ thuộc vĩnh viễn: Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng
phu, phu tử tòng tử. Dường như những quan niệm khắt khe, cổ hủ ấy như đã tước đoạt điều quý giá nhất
là được tự do sống đúng với con người mình và đáng sợ hơn cả là chính điều đó đã biến người phụ nữ
thành cái bóng mờ nhạt trong suốt cuộc đời. Họ tồn tại chứ không phải là sống theo đúng nghĩa tích cực
của từ đó. Thân phận người phụ nữ lúc này chẳng khác gì những chiếc bánh trôi nước, rắn, nát, méo,
tròn hoàn toàn do tay kẻ nặn. Ở bài thơ Tự tình II, Hồ Xuân Hương đã bộc bạch tâm trạng bức xúc cao
độ của bản thân, đồng thời cũng là tâm trạng chung của biết bao nhiêu người phụ nữ cùng cảnh ngộ
trong xã hội phong kiến “Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn, Trơ cái hồng nhan với nước non”.


Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con!
Nói đến người phụ nữ là nói đến cái đẹp, tình yêu thương và đức hi sinh. Họ đã hi sinh và cống hiến hết
cho cuộc đời mà không đòi hỏi quyền lợi vật chất nào ngoài sự trân trọng, cảm thông và chia sẻ. Nhưng
những cái đó hầu như không được gia đình và xã hội quan tâm vì cho rằng thiên chức của phụ nữ là
phục tùng vô điều kiện. Dường như đã hiểu rõ điều bất công đó nên Hồ Xuân Hương đã viết nên những
câu thơ thấm đẫm nỗi xót xa, chua chát như trên. Hồng nhan là cách gọi những phụ nữ đẹp, rộng hơn là
để chỉ chung giới nữ. Nhưng tại sao lại gọi là “cái hồng nhan’, phải hiểu “hồng nahn” có nghĩa là đã hạ nó
xuống ngang hàng với những vật vô tri vô giác khác. Nỗi hờn tủi, bẽ bàng chất chứa trong câu thơ: Trơ
cái hồng nhan với nước non in đậm dấu ấn phong cách diễn tả độc đáo của Xuân Hương.
Những điều tâm sự trĩu nặng nỗi buồn thân phận và duyên phận của nữ sĩ không biết ngỏ cùng ai nên
càng cuộn xoáy, day dứt trong lòng giữa đêm khuya thanh vắng. Nhưng dù bị phụ phàng hay quên lãng
thì nhân vật trữ tình trong bài thơ vẫn không tuyệt vọng, vẫn khao khát sống mạnh mẽ, vẫn ước ao đến
cháy lòng về một hạnh phúc tròn đầy, vẫn mong muốn được san sẻ và bù đắp những tình cảm chân
thành nhất giữa người với người.

Một trong những bài thơ nói về thân phận của người phụ nữ đặc sắc nữa thì không thể bỏ qua bài
“Thương vợ” của nhà thơ trào phúng nổi tiếng Trần Tế xương có thể coi là đây chính là chân dung tương
đối hoàn chỉnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến:
Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không.
Ngày xưa, Nho giáo buộc phụ nữ phải có bổn phận thờ chồng, nuôi con. Việc phải tôn thờ chồng đối với
bà Tú bao hàm cả việc nuôi chồng, thế là bất công vì đúng ra, người đàn ông phải giữ vai trò trụ cột trong
gia đình về mọi mặt. Bà Tú vợ của Tế Xương vốn con nhà gia giáo, khá giả. Lúc còn ở với cha mẹ, bà
không phải chịu cảnh vất vả nắng sương. Làm vợ ông Tú lận đận về đường khoa cử, lại không nghề
không nghiệp nên bà đành chấp nhận cảnh sống long đong, khổ sở. Bà Tứ phải quanh năm, ngày ngày
lo tảo tần buôn bán nơi mom sông, bến chợ để Nuôi đủ năm con với một chồng. Mà việc nuôi một ông
chồng đặc biệt tài hoa như ông Tú thì không phải chỉ lo miếng cơm, manh áo bình thường mà còn phải
chuẩn bị sẵn cho ông chồng một ít rượu ít trà, lại còn có ít tiền bỏ túi để có lúc ông vui bạn vui bè, chuẩn
bị cho ông một hai bộ cánh tươm tất để nhỡ đi đâu ông khỏi tủi… Như vậy là bà Tú phải lo rất nhiều việc
một lúc, phải làm rất nhiều mà không dám kể lể, thở than: Một duyên hai nợ âu đành phận, Năm nắng
mười mưa dám quản công. Bà âm thầm coi đó là định mệnh đã an bài cho số bà phải như vậy. Suy nghĩ
và tâm trạng của bà Tú cũng là suy nghĩ, tâm trạng chung của đa phần phụ nữ thời xưa. Nhà thơ Trần Tế
Xương không ngại ngàn khi từng tự nhận mình là ông chồng vô tích sự, để vợ phải lặn lội thân cò…
chẳng khác chi những thân cò thân vạc đáng thương trong ca dao – dân ca, tượng trưng cho thân phận
vất vả, cực nhọc của người phụ nữ. Có thể nói bêên cạnh nỗi khổ vật chất, bà Tú còn nỗi khổ tinh thần.
Bà hết lòng vì chồng, vì con nhưng chồng con nào có biết cho chăng?! Và cũng bởi vậy nên mới có tiếng
thở dài như một lời than não ruột: Cha mẹ thói đời ăn ở bạc, Có chồng hờ hững cũng như không! Có lẽ
ông Tú đã hoá thân vào vợ mình, để thấu hiểu và thông cảm với bà. Lấy chồng mà như chẳng được nhờ
vả, cậy dựa một chút gì xong nếu lấy phải ông chồng hờ hững thì quả là có cũng như không mà thôi.

Thật dễ nhận thấy ba bài thơ cùng một đề tài và cùng toát lên thân phận nhỏ bé, phụ thuộc rất đáng
thương của người phự nữ trong xã hội phong kiến xưa kia. Thi sĩ Hồ Xuân Hương và nhà thơ Trần Tế


Xương đã góp tiếng nói đáng kể vào tiếng nói chung bảo vệ quyền lợi chính đáng của một nửa nhân loại
– những người gánh vác trọng trách duy trì sự sống trên trái đất này.



×