Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Đề tài: Các kiểm toán viên bên ngoài có thực sự độc lập không

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.64 KB, 27 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.....................................................................................................2
CHƯƠNG I: NHŨNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP. .3
1.1. Định nghĩa và chức năng của kiểm toán......................................................3
1.1.1. Khái niệm..................................................................................................3
1.1.2. Quá trình hình thành phát triển kiểm toán độc lập trên thế giới...............3
1.1.3. Bản chất và chức năng của kiểm toán.
1.2. Kiểm toán độc lập........................................................................................7
CHƯƠNG II: QUAN ĐIỂM VỀ SỰ ĐỘC LẬP CỦA CÁC KIỂM
TOÁN VIÊN....................................................................................................11
2.1. Khái niệm và vai trò của chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp đối với kiểm
toán viên.............................................................................................................11
2.2. Các nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp.........................................................11
CHƯƠNG III: MINH CHỨNG VỀ KIỂM TOÁN VIÊN BÊN NGOÀI
KHÔNG ĐỘC LẬP.........................................................................................17
3.1. Vài nét về Enron:........................................................................................17
3.2. Dấu hiệu và diễn biến của vụ bê bối...........................................................18
3.3. Hậu quả.......................................................................................................19
3.4. Nguyên nhân...............................................................................................20
3.5. Vai trò của Athur Andersen trong câu chuyện Enron.................................23
3.6. Bài học........................................................................................................24
KẾT LUẬN......................................................................................................26
TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................27

1


LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay, Việt Nam đang từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, với một nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, các thành phần kinh tế được mở rộng và


đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước. Trong
điều kiện kinh tế như vậy thông tin tài chính của doanh nghiệp không chỉ báo
cáo cho các cơ quan quản lý nhà nước để kiểm tra và xét duyệt.
Để đáp ứng yêu cầu đó của nền kinh tế theo cơ chế thị trường, hoạt động
kiểm toán độc lập ra đời, trở thành bộ phận cần thiết và quan trọng không thể
thiếu trong đời sống các hoạt động kinh tế. Kiểm toán ra đời và đặc biệt là sự
ra đời của kiểm toán độc lập có ý nghĩa rất quan trọng đối với các doanh
nghiệp, các Nhà đầu tư trong mọi thành phần kinh tế của nền kinh tế quốc dân
và đặc biệt là sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Để tìm hiểu kỹ hơn về
kiểm toán độc lập em xin chọn đề tài:" Các kiểm toán viên bên ngoài có thực
sự độc lập không?" để nghiên cứu, phân tích những vấn đề lý luận về kiểm
toán độc lập.

2


CHƯƠNG I
NHŨNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP
1.1. Định nghĩa và chức năng của kiểm toán
1.1.1. Khái niệm
Trên thế giớ thuật ngữ kiểm toán đã có từ lâu, theo tiếng Latinh là
Auditus. Có rất nhiều khái niềm về kiêm toán. Theo định nghĩa của Liên đoàn
quốc tế các nhà kế toán thì “ kiểm toán là việc các nhà kiểm toán viên đôc lập
kiểm tra và trình bày ý kiền của mình về các bản báo cáo tài chính”. Trong
giáo trình kiểm toán của các tác giả Alvin A.Rens và James K.Loebbecker đã
định nghĩa: “ Kiểm toán là quá trình các chuyên gia độc lập và có thẩm quyền
thu nhập và đánh giá các bằng chứng về các thông tin có thể định lượng được
của một đơn vị cụ thể nhằm mục đích xác nhận và báo cáo về mức độ phù hợp
giữa các thông tin này với các chuẩn mực đã được thiết lập”...
Theo qui chế về kiểm toán độc lập trong nền kinh tế quốc dân ban hành

kèm theo Nghị định số 07/CP của Chính phủ ngày 29/1/94 có nêu: “Kiểm toán
độc lập là việc kiểm tra và xác nhận của kiểm toán viên và doanh nghiệp kiểm
toán về tính trung thực và hợp lý của các tài liệu, số liệu kế toán và báo cáo tài
chính của các doanh nghiệp, tổ chức (gọi chung là đơn vị được kiểm toán) khi
có yêu cầu của các đơn vị này.”
1.1.2. Quá trình hình thành phát triển kiểm toán độc lập trên thế giới
Hoạt động kiểm toán độc lập trên thế giới đã xuất hiện trên 100 năm. Kiểm
toán đã hình thành và phát triển từ thế kỷ XV, ở châu Âu và ngày càng phát triển
mạnh mẽ. tuy nhiên hình thức tổ chức của các tổ chức kiểm toán ở các nước
không hoàn toàn giống nhau,nó xuất hiện và phát triển theo nhu cầu tự thân của
doanh nghiệp và nhà đầu tư, sau đó được Nhà nước thừa nhận do hiệu quả và tính
chất xã hội của nó. Ngày nay, hoạt động kiểm toán độc lập đã được quốc tế hóa,
thể hiện ở chỗ có tổ chức Liên đoàn Kế toán quốc tế (IFAC), có chuẩn mực kiểm
toán quốc tế, có chứng chỉ hành nghề kiểm toán được hầu hết các nước thừa
nhận; có nhiều tập đoàn kiểm toán toàn cầu (Big 4) mà mỗi tập đoàn có hàng
trăm nghìn nhân viên, có hàng trăm văn phòng trên khắp thế giới.
Tất cả các nước phát triển như Anh, Mỹ, Canada, cộng đồng châu Âu
đều có luật hoặc các điều khoản luật về kiểm toán độc lập hoặc luật kế toán
viên công chứng.
Tại Anh, Mỹ, việc quy định về báo cáo tài chính và kiểm toán được quy
định cụ thể trong 1 chương của Luật Công ty. Tại Liên bang Nga có Luật Kiểm
toán được Hội đồng Liên bang phê duyệt từ năm 2001. Ở Nhật, Trung Quốc,
3


Hàn Quốc, Singapore đều có Luật Kế toán viên công chứng được ban hành từ
nhiều năm qua trong đó đều có các qui định chung về các qui tắc hoạt động của
các kế toán viên công chứng.
Luật Kiểm toán viên công chứng của Trung Quốc được ban hành nhằm
qui định vai trò của kế toán viên công chứng (CPA)" các kiểm toán viên độc

lập - trong nền kinh tế và xã hội, tăng cường quản lý hoạt động của kiểm toán
độc lập, qua đó bảo vệ lợi ích của cộng đồng cũng như quyền lợi hợp pháp của
các nhà đầu tư, thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế.
Còn Luật Kiểm toán viên Công chứng của Hàn Quốc được ban hành
nhằm xây dựng vững chắc một hệ thống cho các kế toán viên công chứng
nhằm góp phần vào việc bảo vệ quyền và lợi ích của người dân, quản lý tốt các
doanh nghiệp, và phát triển nền kinh tế quốc gia.
1.1.3. Bản chất và chức năng của kiểm toán.
1.1.3.1. Kiểm tra, kiểm soát - một chức năng của quản lý
Nói một cách chung nhất, quản lý là một quá trình định hướng và tổ
chức thực hiện các định hướng đã định trên cơ sơ những nguồn lực xác định
nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Quá trình này bao gồm nhiều chức năng và có thể
chia thành nhiều giai đoạn, ở giai đoạn định hướng cần có những dự báo về
nguồn lực và mục tiêu cần và có thể đạt tới, kiểm tra lại các thông tin về
nguồn lực và mục tiêu, xây dựng các trương trình, kế hoạch. . . Sau đó có thể
đưa ra các quyết định cụ thể để tổ chức thực hiện. Trong giai đoạn tổ chức
thực hiện, cần kết hợp các nguồn lực theo các phương án tối ưu, đồng thời
thường xuyên kiểm tra diễn biến và kết quả của các quá trình để điều hoà các
mối quan hệ, điều chỉnh các định mức và mục tiêu trên quan điểm tối ưu hoá
kết quả hoạt động. Nhưng kiểm tra không phải là một giai đoạn của quản lý
mà nó được thực hiện ở tất cả các giai đoạn của quá trình này, bởi vậy cần
phải quan niệm kiểm tra là một chức năng của quản lý. Tuy nhiên chức năng
này được thể hiện rất khác nhau tuỳ thuộc vào cơ chế kinh tế và cấp quản lý,
vào loại hình hoạt động cụ thể, vào truyền thống văn hoá và những điều kiện
kinh tế xã hội trong từng thời kỳ lịch sử cụ thể.
Về phân cấp quản lý, có nhiều mô hình khác nhau nhưng thường là phân
thành quản lý vĩ mô của Nhà nước và quản lý vi mô của các đơn vị cơ sở.
Nhà nước thực hiện chức năng kiểm tra của mình hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp.
Nhà nước trực tiếp kiểm tra mục tiêu chương trình, kế hoạch, kiểm tra các
nguồn lực, kiểm tra quá trình và kết quả thực hiện các mục tiêu của các đơn vị,

kiểm tra tính trung thực của các thông tin và tính pháp lý của việc thực hiện
các nghiệp vụ. Mặt khác Nhà nước có thể sử dụng kết quả kiểm tra của các
4


chuyên gia hoặc các tổ chức kiểm tra độc lập để thực hiện điều tiết vĩ mô qua
các chính sách của mình hoặc tham gia đầu tư hay với cương vị là khách hàng
của đơn vị. Đối với các đơn vị cơ sơ để đảm bảo hiệu quả hoạt động thì cơ
sở đều phải tự kiểm tra mọi hoạt động của mình trong tất cả các khâu: Rà soát
các tiềm lực, xem xét lại các dự báo, các mục tiêu và định mức, đối chiếu và
truy tìm các thông số về sự kết hợp soát xét lại các thông tin thực hiện để điều
chỉnh kịp thời trên quan điểm bảo đảm hiệu năng của mọi nguồn lực và hiệu
quả kinh tế cuối cùng cuả các hoạt động.
Như vậy :
- Kiểm tra gắn liền với quản lý, đồng thời gắn liền với mọi hoạt động ở đâu
có quản lý thì ở đó có kiểm tra
- Quản lý gắn với cơ chế kinh tế, với điều kiện xã hội cụ thể . . . Khi các điều
kiện tiền đề thay đổi thì hoạt động kiểm tra cũng thay đổi theo
- Kiểm tra nảy sinh và phát triển từ chính nhu cầu quản lý. Khi nhu cầu kiểm
tra chưa nhiều, chưa phức tạp, kiểm tra được thực hiện đồng thời với các
chức năng quản lý khác trên cùng một bộ máy thống nhất và khi nhu cầu thay
đổi tới mức độ cao, kiểm tra cũng cần được tách ra thành một hoạt động độc
lập và được thực hiện bằng một hệ thống chuyên môn độc lập
1.1.3.2. Bản chất của kiểm toán.
Kiểm toán đó là một lĩnh vực còn mới mẻ do vây việc nêu ra kiểm toán
là gì còn là một vấn đề phải bàn luận. Đã có nhiều quan điểm về kiểm toán
chẳng hạn có 3 quan điểm sau:
Quan điểm 1: Quan điểm về kiểm toán của Vương Quốc Anh.
“ Kiểm toán đó là một sự kiểm tra độc lập và là sự bày tỏ ý kiến về những bản
khai tài chính của một xí nghiệp do một kiểm toán viên được bổ nhiệm để

thực hiện những công việc đó theo đúng với bất cứ nghĩa vụ pháp định có liên
quan ”
Với nội dung trên, định nghĩa đã nêu khá đầy đủ các mặt đặc trưng cơ bản
của kiểm toán. Tuy nhiên, quan niệm này chỉ phù hợp với kiểm toán tài chính
có đối tượng là bản khai tài chính, do kiểm toán viên độc lập hoặc được bổ
nhiệm tiến hành trên cơ sở các chuẩn mực chung.
Quan điểm 2: kiểm toán được đồng nghĩa với kiểm tra kế toán, một chức
năng của bản thân kế toán, một thuộc tính cố hữu của kế toán, nội dung của
hoạt động này là rà soát các thông tin kế toán từ chứng từ kế toán, định
khoản và ghi sổ kế toán, tính giá các đối tượng kế toán và tổng hợp cân đối kế
toán.

5


Quan điểm này mang tính truyền thống trong điều kiện kiểm toán chưa phát
triển và trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Trong cơ chế này Nhà nước vừa
là chủ sở hữu, vừa lãnh đạo trực tiếp nền kinh tế. Do đó, chức năng kiểm
tra của Nhà nước được thực hiện trực tiếp với mọi thực thể kinh tế xã hội
thông qua nhiều khâu kể cả kiểm tra kế hoạch, kiểm tra tài chính thường
xuyên qua giám sát viên của Nhà nước đặt tại xí nghiệp, đó là kế toán trưởng,
đến việc quyết toán và thanh tra các nghiệp vụ cụ thể. Tuy nhiên quan điểm
này mâu thuẫn với việc công nhận kiểm toán là một hoạt động độc lập có
phương pháp riêng và được thực hiện bởi một bộ máy riêng biệt.
Quan điểm 3 : Quan điểm hiện đại.
Ta thấy trong quá trình phát triển kiểm toán không chỉ giới hạn ở kiểm toán
bảng khai tài chính hay tài liệu kế toán mà còn thâm nhập vào nhiều lĩnh vực
khác như hiệu quả của hoạt động kinh tế, hiệu năng quản lý, hiệu lực của hệ
thống pháp lý trong từng loại hoạt động. . .
Vì vậy, theo quan điểm hiện

đại thì phạm vi của kiểm toán rất rộng gồm những lĩnh vực chủ yếu sau :
Lĩnh vực 1: Kiểm toán thông tin hướng vào việc đánh giá tính trung thực
và hợp pháp của các tài liệu là cơ sở pháp lý cho việc giải quyết các mối quan
hệ về kinh tế, tạo niềm tin cho những người quan tâm đến tài liệu đó.
Lĩnh vực 2: Kiểm toán quy tắc hướng vào việc đánh giá tình hình thực hiện
các thể lệ, chế độ, luật pháp ở đơn vị được kiểm toán trong quá trình hoạt
động.
Lĩnh vực 3: Kiểm toán hiệu quả có đối tượng trực tiếp là sự kết hợp giữa
các yếu tố, các nguồn lực trong từng loại nghiệp vụ kinh doanh : mua, bán,
sản xuất hay dịch vụ. . . Giúp ích trực tiếp cho việc hoạch định chính sách và
phương hướng, giải pháp cho việc hoàn thiện hay cải tổ hoạt động kinh doanh
của đơn vị được kiểm toán.
Như vậy quan điểm hiện đại đã khắc phục được các yếu điểm của 2 quan
điểm trên đó là không chỉ giới hạn ở các bản khai Tài chính, các Tài liệu kế
toán mà còn đi sâu vào các lĩnh vực khác
1.1.3.3. Chức năng của kiểm toán.
Kiểm toán có 2 chức năng cơ bản đó là chức năng xác minh và chức
năng bày tỏ ý kiến, đây là 2 chức năng quan trọng để đưa ra những ý kiến
thuyết phục, tạo niềm tin cho những người quan tâm vào những kết luận của
kiểm toán cho dù là kiểm toán hướng vào lĩnh vực nào trong 4 lĩnh vực chủ
yếu trên.

6


Chức năng xác minh nhằm khẳng định mức độ trung thực của tài liệu và
tính pháp lý của việc thực hiện các nghiệp vụ hay việc lập các bản khai tài
chính. . . xem có tuân thủ theo chế độ tài chính hiện hành hay không .
Theo thông lệ Quốc tế thì chức năng xác minh được cụ thể hoá thành
các mục tiêu và tuỳ thuộc vào đối tượng hay loại hình kiểm toán mà mục tiêu

có thể khác nhau :
VD có 6 mục tiêu về kiểm toán bản khai tài chính :
- Xác minh tính hiệu lực
- Xác minh tính trọn vẹn
- Xác minh việc phân loại và trình bày
- Xác minh về nguyên tắc tính giá
- Xác minh về quyền và nghĩa vụ
- Xác minh về tính chính xác, máy móc.
Và 7 mục tiêu về kiểm toán nội bộ :
- Xác minh tính hiệu lực
- Xác minh tính trọn vẹn
- Xác minh về việc phân loại
- Xác minh về việc tính giá
- Xác minh về tính cho phép hay được phép
- Xác minh về việc ghi sổ và cộng sổ kịp thời so với thời gian quy định
- Xác minh về việc đảm bảo các nghiệp vụ đều hợp lý.
Chức năng bày tỏ ý kiến được thể hiện dưới 2 góc độ.
Góc độ tư vấn đưa ra các lời khuyên trong thư quản lý về vấn đề thực
hiện các quy tắc kế toán về hoạch định các chính sách, thực thi các chế độ,
pháp luật, về hiệu quả kinh tế và hiệu năng quản lý bày tỏ ý kiến được thể
hiện qua việc phán xử như một quan toà hoặc kết hợp với xử lý tại chỗ như
công việc của thanh tra.
Như vậy có thể nói : “ Kiểm toán là xác minh và bày tỏ ý kiến về thực
trạng hoạt động được kiểm toán bằng hệ thống các phương pháp kỹ thuật của
kiểm toán chứng từ và ngoài chứng từ do các kiểm toán viên có nghiệp vụ
tương xứng trên cơ sở hệ thống pháp lý có hiệu lực :
1.2. Kiểm toán độc lập
Kiểm toán độc lập là một loại hình kiểm toán được phân theo chủ thể
kiểm toán (ngoài ra còn có kiểm toán nhà nước và kiểm toán nội bộ).Kiểm
toán độc lập là một tổ chức kinh doanh dịch vụ kiểm toán và tư vấn theo yêu

cầu của khách hàng .Kiểm toán độc lập là hoạt động đặc trưng của nền kinh tế
thị trường.Đây là loại hình dịch vụ được pháp luật thừa nhận và bo hộ,được
7


qun lý chặt chẽ bởi các hiệp hội chuyên ngành về kế toán.Quan hệ giữa chủ thể
và khách thể kiểm toán là quan hệ mua bán dịch vụ,đn vị kinh tế được kiểm
toán phi tr phí dịch vụ cho kiểm toán viên theo hoạt động kiểm toán - đây là
điểm khác biệt giữa kiểm toán độc lập với kiểm toán nhà nước và kiểm toán
nội bộ.
Các kiểm toán viên độc lập là đội ngũ hành nghề chuyên nghiệp có kĩ
năng nghề nghiệp và đạo đức và phi tri qua kì thi quốc gia để đạt chứng chỉ
kiểm toán viên độc lập theo qui định.Khách thể của kiểm toán độc lập bao
gồm: các doanh nghiệp và xí nghiệp tư,các doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư
nước ngoài,các hợp tác xã và doanh nghiệp cổ phần,các chưng trình dự án có
vốn đầu tư ngoài ngân sách nhà nước.Ngoài ra có một khách thể tự nguyện với
số lượng ngày càng tăng ở nước ta:đó là các doanh nghiệp nhà nước.Kiểm toán
độc lập hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực kiểm toán báo cáo tài chính.Ngoài ra
theo yêu cầu của khách hàng,kiểm toán độc lập còn có thể kiểm toán hoạt
động,kiểm toán tuân thủ hoặc tiến hành các dịch vụ tư vấn tài chính kế toán
như tư vấn về thuế,tư vấn về đầu tư,lập báo cáo tài chính,cung cấp các phần
mềm kế toán...
Cũng như kiểm toán nói chung kiểm toán độc lập có hai chức năng.Chức năng
xác minh tính trung thực hợp lý,hợp pháp của các nghiệp vụ hoặc việc lập các
bng khai tài chính.Sn phẩm của chức năng này là "báo cáo kiểm toán".Chức
năng thứ hai là bày tỏ ý kiến,được hiểu rộng với ý nghĩa c về khối lượng và
chất lượng th"ng tin.Chức năng này thể hiện cũng khác nhau giữa các khách
thể kiểm toán,các c sở pháp lý,kinh tế khác nhau.Sn phẩm của chức năng này
là "thư qun lý".Với bn chất và chức năng này kiểm toán độc lập phi thực hiện
mọi hoạt động kiểm tra,kiểm soát những vấn đề liên quan đến thực trạng tài

sn,các nghiệp vụ tài chính và sự phn ánh của nó trên sổ sách kế toán cùng hiệu
qu đạt được.Nói cách khác doanh nghiệp chính là các khách thể chủ yếu của
kiểm toán độc lập và kiểm toán độc lập cung cấp dịch vụ kiểm tra tình hình
hoạt động của các doanh nghiệp theo nhu cầu tự nguyện của các doanh nghiệp
đó.
Ngày nay trên thế giới quy mô và chất lượng của các tổ chức kiểm toán
độc lập ngày càng lớn mạnh, điều đó được thể hiện qua các tổ chức kiểm toán
độc lập điển hình sau.
Công ty kiểm toán Deloitte Touche Tohmastu (DTTI)
Đây là một công ty trong 6 công ty kiểm toán lớn nhất Thế giới, hiện có
khoảng 600 văn phòng trên thế giới, cung cấp các dịch vụ kế toán, kiểm toán
và tư vấn Tài chính, thuế, cổ phần hoá, đầu tư, quản lý doanh nghiệp.
8


Từ năm 1992, DTTI đã vào Việt nam từ văn phòng DTT quốc tế khu
vực Châu á - Thái Bình Dương. DTTI đã giúp Bộ tài chính và công ty kiểm
toán VACO tổ chức các khoá đào tạo kế toán, kiểm toán quốc tế tại Việt nam,
trợ giúp cho các chuyên gia của Việt nam tiếp cận với thị trường thế giới và
các nguyên tắc chuẩn mực kiểm toán quốc tế, cung cấp các thông tin chuyên
nghành cho Bộ tài chính nhằm truyền bá các kiến thức quốc tế vào Việt nam.
Cùng với công ty VACO triển khai các dịch vụ tư vấn và kiểm toán ở Việt nam
Đến tháng 12/1993 DTT được phép đặt văn phòng đại diện tại Việt nam
và tháng 04/1995 DTT đã được phép thành lập công ty liên doanh với công ty
kiểm toán Việt nam (VACO) tại Việt nam đây là một kết quả, một lỗ lực quan
trọng nhằm hiểu rõ các phong tục tập quán, các chính sách pháp luật và nhiều
các lĩnh vực khác để các cuộc kiểm toán đạt được kết quả cao.
Công ty Price Waterhouse (PW)
Đây cũng là 1 trong 6 công ty kiểm toán quốc tế lớn nhất thế giới, hiện
công ty có khoảng trên 450 văn phòng nhằm cung cấp các dịch vụ kế toán,

kiểm toán và tư vấn trên khắp thế giới.
PW vào Việt nam từ chi nhánh Hồng Kông năm 1992 đã giúp Bộ tài
chính và công ty VACO tổ chức hội thảo về thuế, kế toán, kiểm toán, trợ giúp
các chuyên gia Việt nam tiếp cận thị trường thế giới trong lĩnh vực chuyên
ngành, tổ chức các khoá đào tạo tại Việt nam cùng với công ty VACO, PW đã
cung cấp các dịch vụ nghề nghiệp cho các khách hàng ở Việt nam.
Hiện nay PW đã có chi nhánh ở Hà nội và TPHCM với tên gọi : Công ty
trách nhiệm hữu hạn Price Waterhouse Việt nam.
Công ty Arthur Andersen (AA).
Cũng là 1 công ty trong 6 công ty kiểm toán lớn nhất thế giới với
khoảng 300 văn phòng trên thế giới. AA cung cấp các dịch vụ kế toán, kiểm
toán, tư vấn như mọi công ty kiểm toán quốc tế lớn khác.
AA vào Việt nam từ tháng 05/1991 thông qua chi nhánh Philippin và
Thái lan, công ty giúp Việt nam đào tạo các khoá về đào tạo kiểm toán và kế
toán. Kết hợp với thực hiện một số dịch vụ chuyên ngành ở Việt nam. Tháng
08/1995 AA được phép thành lập chi nhánh ở Việt nam có tên Công ty trách
nhiệm hữu hạn Arthur Andersen Việt nam.
Liên đoàn kế toán quốc tế (IFAC).
IFAC được thành lập từ năm 1977 có khoảng 100 tổ chức thành viên
với mục tiêu là phát triển và tăng cường sự phối hợp nghiệp vụ kế toán và
kiểm toán độc lập trên phạm vi toàn thế giới với những nguyên tắc và chuẩn
mực phổ biến, tiến dần thành thông lệ của hầu hết các nước trên thế giới, đáp
9


ứng được yêu cầu của các chính phủ, các doanh nghiệp, các Nhà tín dụng, các
cổ đông cũng như đáp ứng mối quan tâm của công chúng trên thế giới. Mục
tiêu của IFAC là thúc đẩy các nước trên thế giới tiến dần đến sự thống nhất và
hoà hợp với xu hướng phát triển của nền kinh tế thế giới với các tập đoàn
xuyên quốc gia, toàn cầu.

Ngày 13/05/1991 công ty kiểm toán Việt nam (VACO) chính thức
được thành lập và một loạt các tổ chức kiểm toán độc lập khác như : Công ty
dịch vụ kế toán, kiểm toán và tư vấn Tài chính (AASC), công ty tư vấn và
kiểm toán (A and C), công ty kiểm toán đà nẵng (ĐAC), công ty kiểm toán và
dịch vụ tin học (ATSC), công ty kiểm toán Hạ long (HAACO). Các công ty
100% vốn nước ngoài gồm :Cong ty Ernst and Young (E and Y), KPMG Peat
Marwick Việt nam, Price waterhouse Việt nam (PW), Arthur Andersen Việt
nam (AA), các công ty liên doanh như VACO-DTTI, và công ty Coopers and
Lybrand AISE.

10


CHƯƠNG II
QUAN ĐIỂM VỀ SỰ ĐỘC LẬP CỦA CÁC KIỂM TOÁN VIÊN
2.1. Khái niệm và vai trò của chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp đối với
kiểm toán viên.
Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp là những quy tắc để hướng dẫn cho
kiểm toán viên ứng xử và hoạt động một cách trung thực phục vụ cho lợi ích
chung của nghề nghiệp và xã hội. Nói cách khác, đạo đức nghề nghiệp là
những chỉ dẫn để các thành viên luôn duy trì thái độ nghề nghiệp đúng đắn.
Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên có vai trò rất quan
trọng. Nó là một trong những nguyên tắc cơ bản của hoạt động kiểm toán. Một
kiểm toán viên cần phải có đạo đức và một công ty kiểm toán cần phải là một
cộng đồng các kiểm toán viên có đạo đức. Đặc biệt, trong nền kinh tế thị
trường thì nhu cầu đối với nghề kiểm toán đáng tin cậy và được công nhận trở
nên lớn hơn bao giờ hết. Hơn nữa, những người chịu trách nhiệm lập báo cáo
tài chính nếu không có đạo đức thì dễ có thể làm cho thông tin báo cáo kiểm
toán tài chính không tin tưởng dẫn đến hậu quả là sự mất lòng tin trong công
chúng. Trong bối cảnh đó, nếu không có hoạt động kiểm toán để xác định tính

tin cậy của các hệ thống thông tin tài chính thì sẽ gây cản trở lớn. Do vậy,
những đòi hỏi về đạo đức nghề nghiệp đối với kiểm toán viên phải được xác
định rõ ràng và được công bố để cho công chúng nói chung biết, qua đó họ có
thể đòi hỏi các hành vi đạo đức của kiểm toán viên cũng như đánh giá các cam
kết của ngành này.
Như vậy chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp có vai trò rất quan trọng trong
các cuộc kiểm toán nên nó phải được xây dựng một cách chặt chẽ, hợp lý để
làm sao cho kiểm toán viên áp dụng một cách thuận lợi mà không phạm sai lầm
hay bị chồng chéo bởi các điều lệ khác.
2.2. Các nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp.
Yêu cầu về nhân cách đạo đức của bất cứ tổ chức kiểm toán nào cũng
phải dựa trên các nguyên tắc cơ bản sau. Các nguyên tắc này chỉ đạo kiểm toán
viên trong quá trình hành nghề và quan hệ với người khác.
2.2.1. Tính độc lập
Độc lập là nguyên tắc hành nghề cơ bản của kiểm toán viên. Không có
tính độc lập thì chức năng kiểm toán không có giá trị trong xã hội.
Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam quy định rằng trong quá trình kiểm toán, kiểm
toán viên phải thực sự không bị chi phối hoặc tác động bởi bất kỳ lợi ích vật

11


chất hoặc tinh thần nào làm ảnh hưởng đến sự trung thực, khách quan và độc
lập nghề nghiệp của mình.
Tính độc lập trong kiểm toán có nghĩa là việc có một quan điểm vô tư
khi thực hiện các cuộc kiểm toán, đánh giá các kết quả và công bố báo cáo
kiểm toán. Nếu kiểm toán viên là một luật sư của khách hàng, một chủ ngân
hàng cá biệt hoặc bất kỳ ai khác có lợi ích trực tiếp hay gián tiếp về mặt tài
chính, có quan hệ họ hàng thân thuộc với những người trong bộ máy quản lý
của đơn vị được kiểm toán thì anh ta sẽ không thể được xem là độc lập. Ví dụ

trước đây đã có lần chấp nhận cho kiểm toán viên sở hữu một số lượng cổ phần
giới hạn trong công ty khách hàng. Nhưng ngày nay điều đó được xem như
khả năng tiềm ẩn tác động xấu đến tích độc lập của công ty kiểm toán và chắc
chắn có khả năng ảnh hưởng đến nhận thức của người sử dụng về tính độc lập
của kiểm toán viên. Việc trực tiếp hay gián tiếp sở hữu cổ phần của một công
ty thì theo nguyên tắc 101 công ty kiểm toán đó sẽ bị cấm trình bày quan điểm
về các báo cáo tài chính của công ty này. Hoặc nếu kiểm toán viên là một
thành viên của hội đồng quản trị hay một viên chức của công ty khách hàng,
khả năng để thực hiện những đánh giá độc lập của anh ta về sự trình bày trung
thực ở các báo cáo tài chính sẽ dễ dàng bị ảnh hưởng. Ngay cả khi việc các
chức vụ này không thực tế làm ảnh hưởng đến tính độc lập của kiểm toán viên
thì sự dính líu thường xuyên với ban quản trị và các quyết định mà ban quản trị
lập sẽ có khả năng ảnh hưởng đến cách nhìn nhận tính độc lập của kiểm toán
viên từ những người sử dụng báo cáo. Để loại trừ khả năng này, nguyên tắc 101
nghiêm cấm kiểm toán viên có tư cách là giám đốc hoặc viên chức của công ty
khách hàng.
Tính độc lập có thể coi là cơ sở quan trọng để hoạt động kiểm toán có
hiệu quả. Tuy nhiên chúng ta hoàn toàn nhận thức được rằng tính độc lập
không bao giờ là đủ vì luôn có những điều kiện hạn chế ít nhiều tính độc lập.
Ví dụ hội đồng quản trị bắt buộc phải giải trình với chính quyền và xã hội,
giám đốc điều hành cũng chịu sự bắt buộc như vậy cộng thêm sự bắt buộc của
hội đồng quản trị. Tất cả những điều đó có nghĩa là không người nào tự cho
mình là một ốc đảo cô lập và tính độc lập bao giờ cũng là một thuật ngữ tương
đối - độc lập nhiều hay độc lập ít - chứ không bao giờ tuyệt đối. Điều này
không làm giảm giá trị của tính độc lập hoặc coi thường những cố gắng mở
rộng phạm vi và nâng cao chất lượng cuả tính độc lập mong muốn. Đối với
kiểm toán viên, sự cố gắng không ngừng của chúng ta là củng cố tính độc lập
cần thiết mặc dù có và luôn luôn có những giới hạn thực sự đối với tính độc lập
đó.
12



2.2.2. Tính liêm chính và tính khách quan.
Kiểm toán viên có nghĩa vụ phải đạt đến một chuẩn mực cao về hành vi
như: phải trung thực và thẳng thắn trong quá trình làm việc và trong quan hệ
của họ với các nhân viên của đơn vị được kiểm toán. Để có sự tin cậy từ phía
công chúng, các kiểm toán viên không được để bị nghi ngờ và không được để
bị chỉ trích, phẩm chất liêm chính được đánh giá theo nghĩa đúng đắn và công
bằng. Phẩm chất này đòi hỏi kiểm toán viên phải tuân thủ cả về hình thức và
tinh thần các chuẩn mực về đạo đức và các chuẩn mực về kiểm toán.
Kiểm toán viên phải là người có tính khách quan và công bằng trong tất
cả các công việc bao gồm việc lập các báo cáo trung thực và chính xác. Do đó
các kết luận trong báo cáo và ý kiến chỉ nên bị ảnh hưởng bởi các bằng chứng
được thu thập theo các chuẩn mực kiểm toán của cơ quan kiểm toán tối cao.
Các kiểm toán viên nên sử dụng các thông tin cũng như các ý kiến do đối
tượng kiểm toán hoặc các đơn vị khác cung cấp.
2.2.3. Các chuẩn mực về nghiệp vụ và năng lực
Kiểm toán viên phải thực hiện công việc kiểm toán theo những kỹ thuật
và những chuẩn mực chuyên môn đã quy định trong chuẩn mực kiểm toán Việt
Nam hoặc chuẩn mực kiểm toán quốc tế được Việt Nam chấp nhận và các quy
định pháp luật hiện hành. Các chuẩn mực kiểm toán này quy định các nguyên
tắc, thủ tục cơ bản và hướng dẫn thể thức áp dụng các nguyên tắc và thủ tục cơ
bản liên quan đến kiểm toán báo cáo tài chính.
Kiểm toán viên phải thực hiện công việc kiểm toán với đầy đủ năng lực
chuyên môn cần thiết, với sự thận trọng cao nhất và tinh thần làm việc chuyên
cần. Kiểm toán viên có nghĩa vụ duy trì cập nhật và nâng cao kiến thức trong
hoạt động thực tiễn, trong môi trường pháp lý và các tiến bộ kỹ thuật để đáp
ứng yêu cầu công việc. Kiểm toán viên cần phải có thái độ hoài nghi mang tính
nghề nghiệp trong quá trình lập kế hoạch, thực hiện kiểm toán và luôn ý thức
rằng có thể tồn tại những tình huống dẫn đến những sai sót trọng yếu của báo

cáo tài chính như khi nhận được bản giải trình đó đã là đúng, mà phải tìm được
những bằng chứng cần thiết để chứng minh cho những giải trình đó.
2.2.4. Trách nhiệm đối với khách hàng - tính bảo mật.
Kiểm toán viên phải bảo mật các thông tin có được trong quá trình kiểm
toán, không được tiết lộ bất cứ một thông tin nào khi chưa được phép của
người có thẩm quyền, trừ khi có nghĩa vụ phải công khai theo yêu cầu của pháp
luật hoặc trong phạm vi quyền hạn nghề nghiệp của mình.
Trong tiến trình kiểm tra, các kiểm toán viên thu được một số lượng lớn
thông tin bảo mật, gồm cả lương của các viên chức, quá trình định giá sản
13


phẩm, các kế hoặch quảng cáo, số liệu chi phí sản phẩm. Nếu những thông
tin này bị tiết lộ ra ngoài hoặc cho các nhân viên của công ty khách hàng
biết thì mối quan hệ giữa kiểm toán viên với Ban quản trị sẽ trở nên căng
thẳng nghiêm trọng, thậm chí còn có thể là nguyên nhân làm hại đến công ty
khách hàng.
Kiểm toán viên chỉ có thể cung cấp tư liệu cho người khác khi được
phép của công ty khách hàng. Tuy nhiên, trong trường hợp các tư liệu đó được
toà án triệu đòi hoặc được sử dụng như một bộ phận của chương trình xem xét
chất lượng tự nguyện với các công ty kiểm toán khác thì sẽ không cần có sự
cho phép.
2.2.5. Trách nhiệm đối với khách hàng – Thù lao phụ thuộc.
Theo nguyên tắc 302- thù lao phụ thuộc, các dịch vụ về nghiệp vụ không
được bán hoặc cung cấp theo một sự thu xếp mà theo đó không có khoản thù
lao nào được tính trừ phi đạt được một phát hiện cụ thể, hoặc ở đó thù lao phụ
thuộc vào những phát hiện hoặc kết quả của những dịch vụ đó.Thí dụ, giả sử có
một công ty kiểm toán hợp đồng với khách hàng là thù lao được tính là 4000
USD, nếu là một báo cáo chấp nhận hoàn toàn, nhưng chỉ là 2000 USD, nếu là
một báo cáo chấp nhận có loại trừ.

Tuy vậy, thù lao của một hội viên có thể thay đổi.Và thường thì công ty
kiểm toán tính thù lao căn cứ trên số giờ làm việc. Các mức giá theo thời gian
khác nhau được tính cho các trình độ khác nhau của nhân viên. Song trong
những năm gần đây, các công ty kiểm toán đã tăng dần các cuộc đấu thầu hợp
đồng dựa trên một căn cứ tính thù lao cố định mà không cần xem xét đến nhu
cầu về thời gian phải bỏ ra.
Các khoản thù lao không được xem là phụ thuộc nếu chúng được quy định bởi
toà án hay các tổ chức quyền lực khác hoặc, trong các vấn đề về thuế, nếu
được xác định dựa trên các kết quả của các vụ kiện theo luật hoặc những phát
hiện của các cơ quan nhà nước.
Như vậy, việc tính thù lao dựa trên kết quả của dịch vụ cung cấp là để
giúp các kiểm toán viên giữ vững tính khách quan khi điều tra các cuộc kiểm
toán hoặc khi cung cấp các dịch vụ về thuế hoặc tư vấn quản lý.
2.2.6. Trách nhiệm đối với đồng nghiệp.
Hiện nay không có nguyên tắc đạo đức nào về trách nhiệm đối với đồng
nghiệp. Tuy nhiên, mối quan hệ tốt đẹp giữa các đồng nghiệp được AICPA thừa
nhận là rất quan trọng. Cách mà những người trong cùng một nghề đối xử với
nhau sẽ ảnh hưởng đến thái độ của xã hội đối với nghề nghiệp đó. Sự hỗ trợ lẫn
nhau nên bao gồm việc cung cấp người trợ lý có nghiệp vụ chuyên môn cao
14


trong các vấn đề có tính nghiệp vụ cho bạn hành nghề và sự hạn chế hợp lý
trong việc thay thế các công ty kiểm toán hiện hữu ở các khách hàng hiện nay
của họ.
Mỗi thành viên của Công ty là một phần thành tố làm nên năng lực của
cả Công ty. Các kiểm toán viên phải gắn kết với nhau, tạo nên một khối năng
lực thống nhất, không tách rời. Sự gắn kết ấy không chỉ thể hiện ở sự đoàn kết
thuần tuý theo cách hiểu lâu nay mà còn thể hiện ở công việc, ở trình độ nghiệp
vụ chuyên môn, ở công tác quản lý. Có nghĩa rằng, trong nghiệp vụ chuyên

môn tất cả phải có trách nhiệm, giúp đỡ lẫn nhau trên tinh thần cùng học tập và
cùng tiến bộ. Mỗi kiểm toán viên phải tự học và học hỏi lẫn nhau, đó là động
lực, là trách nhiệm và quyền lợi của chính mình, của công ty.
2.2.7. Trách nhiệm và thông lệ khác - Hành vi làm mất tín nhiệm.
Hành vi làm mất tín nhiệm không được định nghĩa rõ ràng trong các
nguyên tắc, các văn bản hướng dẫn, hoặc các quy định ( không có quy định
nào về hành vi làm mất tín nhiệm ). Tuy nhiên, trong nguyên tắc 501 nói rõ hội
viên không được phạm phải một hành vi làm mất tín nhiệm đối với nghề
nghiệp.
Có ba văn bản hướng dẫn, nhưng ngoài văn bản đầu tiên, hai văn bản còn lại
cũng rất mơ hồ. Ba văn bản hướng dẫn có thể được tóm lược như sau:
1. Giữ lại sổ sách của khách hàng sau khi một đòi hỏi không được đáp
ứng là một hành vi làm mất tín nhiệm. Thí dụ, giả sử Ban quản trị không trả
thù lao cho công ty kiểm toán và các chủ chung vốn của công ty kiểm toán do
đó từ chối trả lại sổ sách của khách hàng. Chủ chung vốn của công ty kiểm
toán đã vi phạm nguyên tắc 501.
2. Một công ty kiểm toán không được phân biệt đối xử giữa các chủng
tộc, màu da, tôn giáo, giới tính, tuổi tác hoặc quốc tịch.
3. Nếu một người hành sự đồng ý thực hiện kiểm toán ở một cơ quan
nhà nước, mà cơ quan này quy định các thể thức kiểm toán khác với GAAS ,
thì cả các thể thức của cơ quan nhà nước đó và GAAS đều phải được tuân thủ
trừ phi báo cáo kiểm toán được diễn đạt bằng một cách khác.
Để hướng dẫn về những gì cấu thành một hành vi làm mất tín nhiệm, các văn
bản dưới luật của AICPA cung cấp những hướng dẫn rõ ràng hơn là Bản Điều
lệ đạo đức. Các văn bản dưới luật nói rõ rằng một hội viên trong AICPA sẽ bị
khai trừ mà không cần nghe phán xét kết tội đối với bất kỳ sự vi phạm nào
trong bốn loại vi phạm sau:
1. Sự phạm tội có thể bị phạt tù giam từ một năm trở lên.

15



2. Cố ý quên không điền vào bất kỳ bản khai thuế lợi tức nào mà
kiểm toán viên, với tư cách là người nộp thuế cá nhân, được yêu
cầu điền vào theo luật.
3. Nhân danh kiểm toán viên hoặc khách hàng điền một bản khai
thuế lợi tức giả hoặc gian dối.
4. Cố tình giúp đỡ lập hoặc trình bày một bản khai thuế lợi tức giả
hoặc gian dối của khách hàng.
5. Như vậy, trong trường hợp một người uống rượu quá say, hành
động gây mất trật tự, hoặc những hành vi khác mà nhiều người
xem là trái với tiêu chuẩn nghề nghiệp thì không bị coi là hành vi
làm mất tín nhiệm.
2.2.8. Trách nhiệm và thông lệ khác - Hoa hồng.
Nguyên tắc 503: Hội viên không được trả hoa hồng để có khách hàng, và
cũng không được nhận hoa hồng cho việc chuyển cho khách hàng một kết quả
hoặc dịch vụ của người khác. Nguyên tắc này không nghiêm cấm các khoản
thanh toán đối với việc mua một dịch vụ kế toán hoặc thanh toán tiền hưu trí
cho các cá nhân trước đây được thuê mướn trong thực tiễn công tác kiểm toán
độc lập hoặc các khoản thanh toán cho người thừa kế của họ hoặc bất động sản
của họ.
Nguyên tắc này nhằm ngăn ngừa sự quá khích trong lĩnh vực kiểm
toán thông qua việc “ trả thù lao cho người tìm kiếm” đối với đội ngũ nhân
viên, ngân hàng và những người khác để có thể giúp công ty mở rộng hoạt
động của mình.
Nguyên tắc này cũng nhằm ngăn ngừa kiểm toán viên tính thêm ngoài
dịch vụ đã thực hiện.
2.2.9. Trách nhiệm và thông lệ khác – Các công việc không phù hợp.
Nguyên tắc 504: Hội viên làm việc trong công ty kiểm toán công cộng
không được đồng thời làm việc trong bất kỳ doanh nghiệp nào hoặc làm công

việc nào mà có thể sinh ra mâu thuẫn về quyền lợi khi cung cấp dịch vụ chuyên
nghiệp.
Hiện tại vẫn chưa có văn bản hướng dẫn về công việc không phù hợp và
hầu như không có các quy định đạo đức.
2.2.10. Sự bắt buộc.
Không chấp hành các nguyên tắc đạo đức có thể dẫn đến việc bị khai trừ
khỏi AICPA. Điều này tự bản thân nó không ngăn ngừa kiểm toán viên hành
nghề kiểm toán độc lập. Nhưng nó nhất định là một hình phạt nặng về mặt xã
hội.
16


Mỗi kiểm toán viên được cấp một giấy phép hành nghề. Khi có một sự vi phạm
đáng kể quy tắc đạo đức nghề nghiệp cũng có thể dẫn đến việc mất bằng và
giấy phép hành nghề kiểm toán viên. Mặc dù ít xảy ra, song điều này khai trừ
người hành nghề khỏi ngành kiểm toán độc lập.
Vì vậy, tất cả các kiểm toán viên bên ngoài phải tuân thủ chuẩn
mực đạo đức nghề nghiệp nêu trên và hoàn toàn độc lập trong mọi hoạt
động của mình.
CHƯƠNG III
MINH CHỨNG VỀ KIỂM TOÁN VIÊN BÊN NGOÀI KHÔNG ĐỘC LẬP
3.1. Vài nét về Enron:
Tiền thân của Enron là công ty Khí tự nhiên miền Bắc, thành lập năm
1932 tại Omaha, Nebraska. Năm 1979, công ty đã tổ chức cơ cấu lại trở thành
Internorth of Omaha. Năm 1985, trên cơ sở sáp nhập hai công ty Houston
Natural Gas và Internorth of Omaha, đổi tên công ty thành Enteron (ruột), với
ý tưởng là bộ phận không thể thiếu trong quá trình tiêu hóa. Nhưng cái tên này
nhanh chóng được rút gon lại chỉ còn Enron khoảng năm 1990.
Nhờ những quy định mới về tự do hóa thị trường năng lượng Mỹ trong
thập niên 90, họ đã lột xác từ một hãng làm ăn mờ nhạt thành tập đoàn có thể

thay đổi sự cân bằng trong lĩnh vực kinh doanh năng lượng. Luật chính sách
năng lượng năm 1992 buộc các công ty nhỏ phải mở cửa đường truyền tải điện
cho hệ thống phân phối của Enron. Ngoài ra, Enron kiếm rất nhiều tiền từ việc
mua bán trên thị trường năng lượng. Trên thực tế, họ chỉ là những nhà buôn sắp
xếp hợp đồng giữa người mua và bán rồi lấy tiền hoa hồng. Trong tay Enron,
thị trường năng lượng ngang hàng với một sự đầu cơ tài chính. Hãng này đã
xây dựng những nhà máy trị giá hàng triệu USD khắp thế giới nhưng chỉ sở
hữu chúng khi giá năng lượng lên ngôi, khi gặp khó khăn thì bán ngay lập tức.
Nhờ hoạt động tài chính thuận lợi, Enron đã vươn sang các mặt hàng như giấy,
nước, nhựa, kim loại và phương tiện viễn thông.
Năm 2000, Enron là một trong 7 công ty Mỹ có doanh số hơn 100 tỷ
USD, lợi nhuận lên tới 10 tỷ USD. Hệ thống thông tin đại chúng, điển hình là
tạp chí Fortune luôn đánh bóng Enron là công ty có nhiều tiềm năng nhất với
số vốn kinh doanh 63 tỷ USD. Tại thời điểm xảy ra vụ bê bối năm 2001, Enron
nắm trong tay cơ sở vật chất kỹ thuật cực kỳ giá trị, hoạt động tại trên 30 quốc
gia trên thế giới (trong đó có Việt Nam), giao dich với hơn 30 sản phẩm khác
nhau, sở hữu 38 nhà máy điện, gần 60 vạn km đường ống dẫn dầu và khí đốt,
17


hàng loạt các công ty con về các ngành kinh doanh khác như giấy, thép, hóa
dầu, nhựa…
Sự phát triển của Enron
1985
2000
Số lượng nhân viên

15076

18000


Các nước có hoạt động

4

Trên 30

Tài sản (tỷ đôla)

12

33

Đánh giá (Forturn 500)

Không có

18

3.2. Dấu hiệu và diễn biến của vụ bê bối
*Năm 2000
- Tháng 3: CEO Enron, Kenneth Lay bị cáo buộc gian lận báo cáo hàng
năm năm 1999. Jeffrey Skilling, giám đốc điều hành (COO) của Enron bị cáo
buộc có dấu hiệu gian lận cho Arthur Andersen LLP về dữ liệu tài chính năm
1999.
- Tháng 8, giá cổ phiếu Enron leo cao mức kỷ lục: 90$/cổ phiếu
- Tháng 8 và tháng 11, K. Lay tiếp tục bị cáo buộc gian lận báo cáo tài
chính hàng quý cho quý II và III năm 2000.
*Năm 2001
- Từ ngày 22 – 25 tháng 1, COO Enron, J. Skilling liên tục đưa ra các

yêu cầu gian lận các báo cáo tài chính nhằm dối gạt các nhà đầu tư.
- 6/2, Enron được tạp chí Fortune bình chọn là một trong những công ty
sáng tạo nhất tại Mỹ lần thứ 6 liên tiếp.
- 5/5, giá cổ phiếu Enron đóng cửa là 59,78$
- 23/7, giá cổ phiếu Enron tiếp tục sụt giảm còn 47$, gây mất lòng tin
nghiêm trọng cho các nhà đầu tư.
- 14/8, vì lý do cá nhân, Skilling từ chức. K. Lay tuyên bố “ Tuyệt đối
không có vấn đề kế toán, không có vấn đề kinh doanh, không có vấn đề dự trữ,
không có vấn đề che dấu sự thật”
- 15/8, Sherron Watkins, một phó chủ tịch phát triển của Enron, đã phát
hiện ra các sai phạm kế toán của công ty và gửi thư đến cho K. Lay.
- 16/10: Enron công bố lỗ quý thứ ba là $ 618,000,000.

18


- 31/10, Ủy ban chứng khoán và hối đoái Mỹ (SEC) bắt đầu mở cuộc
điều tra chính thức về kế toán của Enron và các đối tác.
- Arthur Andersen, công ty kiểm toán của Enron, đã tiếp tay cho nó bằng
cách tiêu hủy các tài liệu liên quan đến sai phạm.
- Giá cổ phiếu Enron tụt dốc không phanh, chỉ còn khoảng 0,6$/ cổ
phiếu.
- 8/11, Enron công bố nó phóng đại lợi nhuận bằng cách $ 586,000,000
trong năm năm.
- SEC yêu cầu các nhân viên Arthur Andersen có liên quan đến Enron
hầu tòa.
- 2/12, Enron thông báo phá sản.
*Năm 2002
- 9/1, Bộ Tư pháp Mỹ xác nhận bắt đầu một cuộc điều tra hình sự vụ phá
sản Enron.

- 10/1, Arthur Andersen thừa nhận đã hủy tài liệu của Enron, từ tháng 9
đến tháng 11.
- 3/5, Enron đề xuất thành lập một công ty mới tạm gọi là Công ty Năng
lượng OpCo . Nếu được chấp thuận, OpCo sẽ có tài sản cốt lõi của Enron, bao
gồm 15.000 dặm đường ống tài sản, 75.000 dặm tài sản phân phối, 6.700
mega watt, và 12.000 nhân viên.
*Năm 2003
- 11/7, Enron đề xuất kế hoạch cơ cấu lại công ty.
*Năm 2004
- 6/1, Tòa án New York phê duyệt đề xuất cơ cấu lại của Enron. Theo kế
hoạch này, chủ nợ sẽ nhận được $ 11000000000 bằng tiền mặt và chứng khoán.
- 11/2, J. Skilling bị bắt với 35 tội danh gian lận, giao dịch nội gián,…
- 7/7, cựu CEO Kenneth Lay bị truy tố bởi Tòa án Hoa Kỳ.
*Năm 2005
Các Tòa án tối cao phán quyết về mặt lý thuyết Andersen miễn tội để
tiếp tục hoạt động. Tuy nhiên thiệt hại mà vụ Enron mang đến đã khiến cho nó
không còn có thể hoạt động được nữa kể cả với quy mô hạn chế.
3.3. Hậu quả
3.3.1. Enron
Những người chịu thiệt hại nặng nề nhất chính là các cổ đông và nhân
viên của công ty.
- Giá cổ phiếu của Enron lên đến đỉnh cao 90 đô la vào tháng 8/2000.
Một năm sau đó, vào tháng 10/2001 công ty thông báo lỗ 638 triệu USD trong
19


quý 3/2001 và giá trị vốn cổ đông giảm 1,2 tỉ USD. Dự kiến các chủ nợ sẽ thu
hồi được 1/5 số tiền 74 tỉ USD của họ.
- 17.000 nhân viên của Enron sẽ mất tiền hưu trí của họ. Tuy Enron
tuyên bố dành riêng 200 triệuUSD để chuyển trách nhiệm lương hưu sang các

công ty bảo hiểm, chính phủ cho biết số tiền này chắc chắn không đủ.
- Các cổ đông sẽ mất toàn bộ giá trị cổ phiếu.
- Tài sản của Enron được đem bán đấu giá để trả nợ, thu được khoảng 11 tỉ.
3.3.2. Arthur Andersen
Ngay sau khi bị kết tội, Andersen lập tức phải đối mặt với hàng loạt vụ
kiện khác, với tổng số thiệt hại của khách hàng lên tới 300 tỉ USD.
Andersen phá sản, hàng loạt các cuộc thương lượng mua bán diễn ra.
KPMG đồng ý thu nạp 23 chi nhánh "ở ngoài nước Mỹ" của Andersen với cái
giá rẻ mạt là 284 triệu USD năm 2002. Andersen Việt Nam được KPMG mua
lại với hợp đồng trong đó có điều khoản đảm bảo việc làm cho toàn bộ nhân
viên hiện có của Andersen Việt Nam.
Một trong ngũ đại gia là Ernst & Young đã chiếm được phần lớn những
khách hàng và chuyên gia của Andersen ở Mỹ.
Các công ty nhỏ hơn cũng kiếm được phần chia. Công ty tư vấn Hitachi
Consulting của Nhật thuê lại 400 chuyên gia của Andersen, một trong số đó đến
nay đã trở thành Tổng Giám đốc của Hitachi Consulting.
Đó là kết cục của Arthur Andersen, một công ty kiểm toán hàng đầu thế giới,
với 85.000 chuyên gia và 89 năm lịch sử, đến nay chỉ còn không đầy 200
người, chủ yếu để hầu kiện trong các vụ kiện của cổ đông trong các công ty
khách hàng trước đây.
3.4. Nguyên nhân
3.4.1. Sự lạm dụng SPE và các giao dịch nội bộ
SPE (Special Purpose Entity) là các công ty con được Enron thành lập ra
để đứng tên tài sản, đồng thời gánh chịu và cô lập các rủi ro tài chính.
Ví dụ, khi Enron phát triển thêm đường ống, công ty có thể lập ra một
SPE. Đơn vị SPE này sẽ làm chủ đường ống và thế chấp ngay ống này để vay
tiền xây dựng. Enron vẫn được sử dụng đường ống này và lấy doanh thu từ
đường ống để thanh toán cho chủ nợ. Theo cách này, bảng cân đối kế toán của
công ty không thể hiện cả tài sản (đường ống) lẫn trách nhiệm nợ tương ứng.


20


Mặc dù các chuyên gia cho rằng một công ty có đến bốn hay năm đối tác
như vậy đã là quá nhiều. Nhưng số lượng các SPE của Enron đã tăng lên trong
nhiều năm. Vào thời điểm sụp đổ, Enron có đến 900 SPE.
Các SPE chính được hình thành bởi Enron từ năm 1997 chẳng hạn như
Chewco, LJM1 và LJM2 các công ty này đã giúp Enron dành được nhiều mục
tiêu kế toán đặc biệt.
A. Che dấu nợ trên bảng cân đối kế toán
Enron sẽ cố gắng chuyển nợ và các tài sản có liên quan đến một trong
nhứng SPE. Mục đích chính của SPE trong trường hợp này là để cho các SPE
vay vốn và không hiển thị các khoản nợ này trong sổ sách của Enron
B. Thổi phồng doanh thu và lợi nhuận
- Enron đã bán tài sản cho các SPE với giá đã được thổi phồng lên để tạo
ra lợi nhuận giả tạo. Công ty cũng mua qua bán lại với SPE để tăng doanh số
và giảm bớt mức độ dao động của lợi nhuận.
Ví dụ: Trong tháng sáu năm 2000 Enron bán cho LJM2(một trong
những SPE của Enron) một loại sợi đen với giá 100 triệu USD, nhưng thực sự
nó chỉ có giá trị khoảng 33 triệu USD. Việc mua bán đã được thực hiện tại một
mức giá tăng cao, cho phép Enron ghi một mức lợi nhuận $ 67.000.000 về
thương mại.
- Enron cũng được sử dụng "Sham Swap". Có hoạt động Sham Swap khi
hai công ty trao đổi tài sản để ghi doanh thu và tránh một khoản thua lỗ. Trong
trường hợp này lợi nhuận sẽ được chia thành hai loại. Một là lợi nhuận được
thêm vào báo cáo tài chính của Enron và hai là lợi nhuận được thêm vào quỹ
dự phòng. Quỹ này có thể được sử dụng để che dấu thua lỗ. Nghiệp vụ này
của Enron đã cho phép họ tăng giá trị của tài sản và giao dịch trong khi rủi ro
bản chất thật sự của họ bị che khuất.
- Che dấu các tài sản họat động không hiệu quả: Enron đã dùng các phần

lớn các SPE cho mục đích này.
Ví dụ: Enron chuyển các khoản đầu tư kém hiệu suất như Rhymths
Netconnections cho các SPE do đó bất kỳ sự sụt giảm tiếp theo trong giá trị của
những tài sản này sẽ không được công nhận trên báo cáo tài chính của Enron.
Năm 2000 và 2001 Enron cũng đã có thể ẩn dấu khoản thua lỗ khoảng 1
tỷ USD kém hiệu quả cho các SPE
- Quản lý các khoản thu nhập - Báo cáo doanh thu và lợi nhuận khi mong
muốn. Nghiệp vụ kế toán này đạt được khi Enron có các giao dịch phức
tạp với các SPE tên tuổi như Braveheart, LJM1 và Chewco.

21


Ví dụ: Enron đã có thể chuyển nhượng hợp đồng kinh doanh lâu dài với
Blockbuster Video cho một SPE để SPE này đạt được doanh thu 111USD triệu.
Ngoài các nghiệp vụ trên, Enron đã tạo ra quan hệ đối tác với một số
ngân hàng, một trong số này là jp morgan và Citigroup. Các tổ chức tài chính
phối hợp với các công ty năng lượng (đã phá sản hiện nay) để thực hiện các
mánh khóe tài chính, các thỏa thuận đó cho phép Enron thổi phồng lợi nhuận
của mình, che giấu các khoản nợ đang phát triển và đẩy giá cổ phiếu của nó
cao hơn và cao hơn. Cùng với nhau, các ngân hàng và công ty môi giới đã huy
động cho Enron ít nhất là 6 tỷ đồng thông qua các các khoản nợ hoặc phát
hành cổ phiếu để bán cho nhà đầu tư không nghi ngờ từ năm 1996 đến năm
2001.Một khoản tiền khoảng 4tỷ USD được đưa vào các SPE của Enron như
Jedi, Chewco và LJM1 và LJM2. Các giao dịch thường được sắp xếp vội vàng
vào cuối năm trên giấy tờ mà không tuân thủ chặt chẽ các chuẩn mực trong kế
toán. Các ngân hàng thu được "hàng trăm triệu USD từ hoa hồng bảo lãnh và
phí tư vấn cũng như từ các mức lãi suất tăng cao khi họ tính phí cho các khoản
vay của Enron.
3.4.2. Phản ứng dây chuyền

Dù cho chỉ có rất ít vốn chủ sở hữu nhưng các SPE có thể vay ngân hàng
với hai lý do. Thứ nhất, các chủ nợ tin tưởng là Enron đã ký hợp đồng sử dụng
tài sản của SPE nên hoạt động của SPE được bảo đảm. Thứ hai, họ tin là Enron
đã bảo lãnh rủi ro cho các khoản vay của SPE.
Bản thân Enron cũng đi vay để phát triển mở rộng. Nhưng một công ty không
thể vay quá nhiều do các điều khoản hạn chế của chủ nợ. Enron đã sáng tạo ra
một xảo thuật hợp pháp trong đó Enron, SPE, và công ty JP-Morgan đã dùng
các hợp đồng hoán chuyển làm cho nợ dài hạn được thể hiện trên bảng cân đối
như “trách nhiệm chứng khoán”.
Chủ yếu Enron sử dụng uy tín của mình để bảo lãnh vay nợ cho SPE
nhưng chính nó cũng chuyển các khoản thua lỗ của mình sang SPE. Vì vậy qua
thời gian trách nhiệm nợ của SPE càng tăng, mà lại không có khả năng chi trả.
Thêm vào đó là trách nhiệm nợ của chính bản thân Enron. Điều này đã đẩy
Enron vào hoàn cảnh mất khả năng thanh toán nghiêm trọng.
Vì vậy một khi các báo cáo tài chính không hợp pháp của Enron được công
khai thì kéo theo đó toàn bộ các trách nhiệm nợ liên quan đến Enron cũng bị

22


phanh phui. Thực tế này đã dân đến phản ứng dây chuyền, sự sụp đổ của toàn
bộ hệ thống giữa Enron và các SPE.
3.4.3. Vấn đề kế toán
Có rất nhiều những tranh cãi xung quanh vấn đề kế toán Enron. Thực tế
là vào khoảng thời điểm 2001 vẫn chưa có các quy định về báo cáo hợp nhất.
Lúc đó quy tắc kế toán dựa trên “nguyên tắc 3%” điều này có nghĩa là nếu các
công ty con có ít nhất 3% vốn thuộc sở hữu của tập đoàn thì sẽ không cần phải
thực hiện các báo cáo hợp nhất. Tỷ lệ này được coi là quá thấp. Thêm vào đó
nếu cổ phần của Enron chỉ ở dưới 50% tổng cổ phần của SPE, sổ sách của
Enron không phải thể hiện tài sản và trách nhiệm nợ của SPE. Enron đã lợi

dụng kẽ hở này cùng với các SPE thao tác các nghiệp vụ trên báo cáo tài chính
của mình để thổi phồng doanh thu và lợi nhuận che dấu thua lỗi. Trong khi
thực tế thì phần lớn đều là các giao dịch nội bộ.
Và hơn thế Enron có đến 900 SPE nhưng hầu hết đều đặt ở các nước
ưu đãi thuế hay dễ dãi về luật kế toán. Enron sử dụng những SPE này để
thao túng các báo cáo tài chính, che giấu các nhà đầu tư những thông tin lẽ
ra phải công bố, và khai thác các khác biệt về luật kế toán tài chính cũng
như luật kế toán thuế.
3.5. Vai trò của Athur Andersen trong câu chuyện Enron
Nguyên nhân quan trọng nhất trong vụ tai tiếng Enron đó chính là việc
thổi phồng doanh thu và lợi nhuận công ty, che dấu thua lỗ. Việc làm này của
Enron không thể thực hiện được nếu không có sự thông đồng của Athur
Andersen, công ty kiểm toán của Enron lúc bấy giờ. Những hoạt động tài chính
của Enron đều được dựa trên sự thiết kế và vận hành của điều mà nhiều nhà
phân tích đặt tên là "những liên minh ma quái". Một mạng lưới chằng chịt quan
hệ giữa Enron, một số quan chức chính phủ và đặc biệt là Công ty kiểm toán
Arthur Andersen đã giúp cho Enron.
Mối quan hệ giữa Andersen với khách hàng không chỉ là tư vấn và kiểm
toán mà còn là nguồn cung cấp lãnh đạo tài chính. Kế toán trưởng Richard
Causay của Enron - Kiến trúc sư thiết kế ra hệ thống lừa dối cổ đông- nguyên
là người của Andersen. Giám đốc Tài chính của Enron trước Andrew Fastow
là Jeffrey McMahon nguyên cũng từ Andersen chuyển sang.
Điểm lý thú là Andersen đã ký hợp đồng làm tư vấn cho Enron, sau đó
chính mình lại đóng vai trò kiểm toán để xác nhận những báo cáo tài chính của
Enron. Phí tư vấn và kiểm toán đều là những con số khổng lồ. Ví dụ, năm
2000, phí tư vấn là 27 triệu USD và phí tư vấn là 25 triệu USD
23


Tổng giám đốc điều hành Arthur Andersen, ông Joe Berardino thừa nhận

họ đã phạm sai lầm nghiêm trọng. Tuy khẳng định rằng Arthur Andersen đã
làm tất cả để hạn chế thấp nhất khả năng đổ vỡ của Enron, nhưng họ lại hủy
hầu hết tài liệu có liên quan đến vụ việc, ngay cả khi Ủy ban Chứng khoán đã
mở cuộc điều tra.
Đây không phải là lần đầu tiên Andersen gặp rắc rối. Nhưng tất cả các lần rắc
rối trước, Andersen đều thoát ra bằng cách chi tiền "dàn xếp" với bên nguyên
đơn. Luật pháp Mỹ cho phép bên bị đơn chi tiền để dàn xếp các vụ kiện dân sự
trong khi vẫn không nhận lỗi. Nhưng đến vụ Enron thì Andersen không còn có
thể dàn xếp, vì đây là vụ án hình sự.
Ngoài các lỗi như không phát hiện được những bất thường trong hồ sơ
kế toán của Enron, giúp Enron nổi danh trên thị trường trong khi thực chất
đang thua lỗ nặng.. thì Andersen đã bị buộc một tội hình sự nghiêm trọng là cố
ý cản trở công việc điều tra thông qua việc tiêu hủy hàng ngàn tài liệu có liên
quan đến Enron.
Lời bào chữa duy nhất của Andersen là việc tiêu hủy tài liệu chỉ là "quy
trình bình thường" và công ty vẫn lưu giữ những tài liệu ở mức tối thiểu theo
luật định.
3.6. Bài học
Ngoài những nguyên nhân về tổ chức tài chính, kẽ hở trong luật doanh
nghiệp, luật chứng khoán đã bị Enron tận dụng thì một câu chuyện nữa cũng
được đặt ra đó là đạo đức kinh doanh kiểm toán.
Chúng ta biết rằng, Khi một người dùng 90.000 đô la để mua 100 cổ
phiếu của Enron, sau đó vài tháng toàn bộ số cổ phiếu này bán được 10 đô la,
anh ta phải tự hỏi điều gì đã xảy ra?
Thứ nhất, anh ta đã mua theo phong trào của thị trường mà không nhìn
vào báo cáo tài chính của công ty.
Thứ hai, dù nhìn vào báo cáo tài chính thì một người bình thường cũng
không có kỹ năng để đọc hiểu.
Thứ ba, dù người thường có đọc hiểu thì cũng bị các chuyên gia tài năng
như Andrew Fastow đánh lừa bằng những thủ thuật hết sức tinh vi.

Thứ tư, có những người chịu trách nhiệm giúp người dân có được thông tin
chính xác để ra quyết định đầu tư chính xác, nhưng những người này đã không
làm hết trách nhiệm của mình.
Quay trở lại câu chuyện,đã có những dấu hiệu báo trước, nhưng lợi nhuận
khổng lồ đã làm mờ mắt công ty kiểm toán. Tháng 1/2001, một nhân viên kiểm
toán của Andersen đã cực lực phản đối phương pháp kế toán của Enron. Vài tuần
24


sau, nhân viên này bị Andersen chuyển sang bộ phận khác theo đề nghị của
Enron. Một nhân viên của Merrill Lynch (công ty đánh giá xếp hạng chứng
khoán) đã xếp hạng cổ phiếu của Enron vào loại “không có triển vọng”. Nhân
viên này bị sa thải ngay sau đó.
Hội đồng định chuẩn kế toán của Mỹ đã đề ra một chuẩn kế toán, trong
đó Enron và Andersen sẽ không thể che mắt cổ đông. Nhưng chuẩn này đã
không được thông qua.
Chủ tịch Ủy ban Chứng khoán Mỹ, ông Arthur Levitt, đã cực lực phản
đối việc một công ty vừa làm tư vấn vừa làm kiểm toán cho một khách hàng.
Ông đã thúc đẩy việc ban hành luật cấm công ty kiểm toán làm tư vấn. Nhưng
luật này cũng không được thông qua.
Về phần mình, có lẽ các công ty tư vấn kiểm toán sẽ phải xét đến một chuẩn
đạo đức mới. Từ trước đến nay, trước bất kỳ một yêu cầu nào của khách hàng,
thay vì nói "không", họ đã nói "để chúng tôi giúp quí vị làm điều đó".
Ngoài ra một điều nữa cần được đề cập đến là vấn đề tôn trọng nguyên
tắc độc lập của kiểm toán viên đối với các công ty được kiểm toán. Các nhân
viên kế toán cấp cao của Enron chủ yếu đều được chuyển từ Andersen sang,
thêm vào đó Andersen đã vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc độc lập trong kiểm
toán khi vừa cung cấp các dịch vụ tư vấn vừa cung cấp dịch vụ kiểm toán cho
Enron.
Nếu không có những sai phạm mang tính chất nghiêm trọng đó, chắc

chắn Enron đã không thể tiến hành các sai phạm của nó trong thời gian lâu đến
vậy, quy mô và thiệt hại của vụ viêc đã không đến mức khổng lồ như đã kể
trên.
Như vậy kể từ năm 2001 trên thế giới chỉ còn tồn tại 4 ‘đại gia’ kiểm
toán - Big4 : KPMG, PwC, Deloitte, Ernst & Young.

25


×