Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Thủ tục rút gọn theo pháp luật tố tụng dân sự ở Việt Nam hiện nay (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (812.01 KB, 88 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐÀO THỊ XUÂN QUỲNH

THỦ TỤC RÚT GỌN THEO PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG DÂN SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số

: 60.38.01.07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. DƯƠNG QUỲNH HOA

Hà Nội – 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tôi đã đọc và hiểu về các hành vi vi phạm sự trung thực trong học thuật.
Tôi xin cam kết bằng danh dự và cá nhân rằng nghiên cứu này do tôi tự thực
hiện và không vi phạm yêu cầu về sự trung thực trong học thuật. Các số liệu
nêu trong luận văn là đúng sự thật, có nguồn gốc rõ ràng và chưa từng được
công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các thông tin nghiên cứu trong luận
văn là do tôi tự tìm tòi, nghiên cứu phù hợp với thực tế.

Tác giả



ĐÀO THỊ XUÂN QUỲNH


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THỦ TỤC RÚT GỌN
TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ............................................................. 8
1.1. Cơ sở lý luận về thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự............................................ 8
1.2. Cơ sở thực tiễn và định hướng xây dựng thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự ở
Việt Nam ....................................................................................................................... 21
Chương 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG THỦ TỤC RÚT GỌN THEO PHÁP
LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.......................................... 27
2.1. Thực trạng về phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn theo pháp luật tố tụng Dân sự ở
Việt Nam hiện nay ........................................................................................................ 27
2.2. Thực trạng về điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn theo pháp luật tố tụng Dân sự ở
Việt Nam hiện nay ........................................................................................................ 30
2.3. Thực trạng về thành phần giải quyết thủ tục rút gọn theo pháp luật Tố tụng Dân
sự ở Việt Nam hiện nay................................................................................................. 36
2.4. Thực trạng về trình tự áp dụng thủ tục rút gọn theo pháp luật tố tụng Dân sự ở
Việt Nam hiện nay ........................................................................................................ 37
2.5. Thực trạng về thời hạn giải quyết theo thủ tục rút gọn theo pháp luật tố tụng
Dân sự ở Việt Nam hiện nay......................................................................................... 57
2.6. Thực trạng về hiệu lực của bản án, quyết định theo thủ tục rút gọn theo pháp
luật tố tụng Dân sự ở Việt Nam hiện nay...................................................................... 61
2.7. Án phí các vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn theo pháp luật tố tụng dân
sự ở Việt Nam hiện nay................................................................................................. 62
2.8. Những thành tựu đạt được và nguyên nhân của những hạn chế, bất cập khi áp
dụng thủ tục rút gọn ...................................................................................................... 62
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP

LUẬT VỀ THỦ TỤC RÚT GỌN THEO TỐ TỤNG DÂN SỰ Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY .................................................................................................................................. 65
3.1. Phương hướng tiếp tục xây dựng hoàn thiện thủ tục rút gọn trong tố tụng Dân
sự Việt Nam .................................................................................................................. 65
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về thủ tục rút gọn theo tố tụng Dân sự ở
Việt Nam hiện nay ........................................................................................................ 66
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................80


DANH MỤC VIẾT TẮT
***

BLTTDS

Bộ luật Tố tụng Dân sự

BLDS

Bộ luật Dân sự

TCDS

Tranh chấp dân sự

TTDS

Tố tụng dân sự

TTRG


Thủ tục rút gọn

TAND

Tòa án nhân dân

TTTT

Thủ tục thông thường


DANH MỤC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng

Trang

Thống kê tình hình thụ lý, giải quyết án TCDS, hôn
Bảng 2.1:

nhân gia đình, kinh doanh thương mại và lao động từ

28

năm 2005 đến 2016
Bảng số liệu tình hình giải quyết các vụ án tranh
Bảng 2.2:


chấp dân sự nói chung của Toà án nhân dân các cấp
trong hệ thống Tòa án trên cả nước

59


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, công cuộc đổi mới đất nước theo hướng đa phương
hóa, đa dạng hóa, thực hiện phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa đã và đang có những bước tiến vượt bậc. Đời sống nhân dân ngày càng
được nâng cao, quan hệ kinh tế - quốc tế hội nhập ngày càng phát triển mạnh mẽ,
giao lưu kinh tế, dân sự, thương mại… ngày một gia tăng.
Theo quy luật chung, quan hệ xã hội nhiều sẽ dẫn đến các tranh chấp càng
ngày càng phát sinh nhiều. Hàng năm, hệ thống TAND đã thụ lý giải quyết một
khối lượng rất lớn các vụ án tranh chấp liên quan đến dân sự, hôn nhân gia đình,
kinh tế, lao động…, điều này đã tạo ra một áp lực lớn về công việc cho hệ thống
TAND các cấp trong cả nước. Trong số các vụ án được TAND các cấp thụ lý, giải
quyết hàng năm có không ít vụ án có nội dung đơn giản, chứng cứ rõ ràng, bị đơn
không phản đối yêu cầu của nguyên đơn hoặc các tranh chấp về tài sản có giá ngạch
thấp. Tuy nhiên, những vụ việc này vẫn phải tiến hành theo một trình tự thủ tục
TTDS thông thường. Hệ quả là thời gian giải quyết vụ kiện sẽ bị kéo dài hoặc phải
trải qua nhiều cấp xét xử một cách không cần thiết gây mất thời gian, tổn phí cho
các đương sự và Nhà nước, dẫn đến lượng án tồn đọng chưa giải quyết được tương
đối lớn.
Với xu hướng chung là đơn giản hóa các thủ tục hành chính, các nước trên
thế giới đều tìm cách giải quyết nhanh chóng, gọn nhẹ đối với các TCDS đơn giản
nói chung để phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế đất nước, của xã hội, không
để mất quá nhiều thời gian cho một vụ kiện. Có rất nhiều nước trên thế giới đã xây

dựng và áp dụng chế định TTRG để giải quyết các tranh chấp đơn giản và có giá
ngạch thấp để phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường và xã hội.
Hòa chung với sự phát triển của thế giới, nhận thức được thực trạng quá nhiều
án TCDS tồn đọng mà tính chất vụ việc tương đối đơn giản, chứng cứ rõ ràng, nội
dung tranh chấp đều được các đương sự thừa nhận hoặc những tranh chấp có giá

1


ngạch thấp cần được giải quyết bằng một thủ tục đơn giản để không mất nhiều thời
gian giải quyết cũng như gây lãng phí tiền bạc và công sức cho Nhà nước và nhân
dân, thể chế hóa đường lối chỉ đạo của Đảng và Nhà nước tại Nghị quyết 49-NQ/TW
ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và
Hiến pháp năm 2013, BLTTDS được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thông qua ngày 25 tháng 11 năm 2015, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm
2016 đã quy định về TTRG để giải quyết một số loại án khi đáp ứng các điều kiện
nhất định. Đây là một chế định hoàn toàn mới, phù hợp với sự phát triển chung của
xã hội hiện nay.
TTRG trong pháp luật TTDS là một bước tiến đáng kể sau khi BLTTDS 2015
ra đời và có hiệu lực. Bộ luật này đã có chương riêng cho chế định rút gọn trong giải
quyết TCDS với những quy định đổi mới nhằm giúp cho thủ tục TTDS trở nên dễ
dàng hơn trong những trường hợp nhất định, điều này cũng giúp triển khai thi hành
Hiến pháp năm 2013. Có thể nói, việc bổ sung các quy định về TTRG trong TTDS để
giải quyết một số loại vụ án về TCDS là việc hết sức cấp thiết. Hiện nay, chưa có một
công trình nghiên cứu khoa học nào nghiên cứu một cách toàn diện về lĩnh vực này
kể từ khi BLTTDS 2015 có hiệu lực. Chính vì vậy lựa chọn đề tài: "TTRG theo pháp
luật TTDS ở Việt Nam hiện nay" để nghiên cứu có giá trị lý luận và thực tiễn sâu
sắc. Vì những lý do trên, học viên lựa chọn đề tài: "TTRG theo pháp luật TTDS ở
Việt Nam hiện nay" làm luận văn Thạc sĩ Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Có thể nói, TTRG trong TTDS cũng nhận được nhiều sự quan tâm của các nhà
nghiên cứu trong nước và nước ngoài. Riêng ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu
đã tập trung làm sáng tỏ vai trò, ý nghĩa của TTRG, nghiên cứu tính khả thi của việc
xây dựng TTRG trong TTDS ở Việt Nam hiện nay, đưa ra các khái niệm, đặc điểm
và giải quyết một số vấn đề lý luận cơ bản về TTRG cũng như chỉ ra các ưu điểm
vượt trội của TTRG so với TTTT trong việc giải quyết các tranh chấp nhỏ lẻ, đơn
giản. Đã có khá nhiều công trình nghiên cứu khoa học về TTRG có thể kể đến như:
"Vấn đề áp dụng TTRG trong xét xử và thành lập Tòa giản lược trong hệ thống

2


TAND" của tác giả Trương Hòa Bình, "Cần có quy định TTRG trong Bộ luật TTDS"
của tác giả Đỗ Văn Chỉnh, Phạm Thị Hằng, "Sự cần thiết phải quy định thủ tục rút
ngắn trong pháp luật dân sự" của tác giả Ngô Anh Dũng, "Tổ chức xét xử vụ án dân
sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp" của tác giả Lê Thu Hà, "Giải quyết tranh chấp
của người tiêu dùng theo TTRG" của tác giả Lê Thanh Hoa, "Xét xử theo thủ tục đơn
giản các vụ án dân sự - Nhu cầu và định hướng" của tác giả Bùi Thị Dung Huyền và
Lê Thế Phúc…., tuy nhiên đây mới chỉ là các bài viết mang tính chất định hướng,
trao đổi kinh nghiệm trên các tạp chí khoa học chứ chưa mang tính chất nghiên cứu
chuyên sâu. Trong giáo trình giảng dạy tại các cơ sở đào tạo Luật học ở nước ta cũng
mới đề cập đến TTRG như giáo trình Luật TTDS của trường Đại học Luật Hà Nội,
trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Vinh, Đại học Quốc gia Hà
Nội, Học viện Tư pháp, Học viện Tòa án… các giáo trình này cũng mới đề cập đến
lượng kiến thức cơ bản và khái quát về TTRG trong chương trình đào tạo cử nhân
Luật và cán bộ pháp lý. Có một số đề tài chuyên khảo liên quan đến TTRG như: "Báo
cáo nghiên cứu và đề xuất cơ chế, mô hình giải quyết TCDS theo TTRG tại Việt
Nam" của Dự án Tăng cường tiếp cận công lý và bảo vệ quyền tại Việt Nam, "Báo
cáo tổng kết đề tài khoa học và công nghệ cấp cơ sở về giải quyết tranh chấp giữa
người tiêu dùng với tổ chức cá nhân kinh doanh bằng TTRG trong TTDS" của tác giả

Đặng Thanh Hoa, "Xu hướng đơn giản hóa thủ tục tố tụng trên thế giới và những vấn
đề đặt ra đối với Việt Nam" – Hội thảo cấp khoa do Khoa pháp luật Dân sự trường
Đại học Luật Hà Nội tổ chức vào ngày 10/10/2014, "Hoàn thiện pháp luật Việt Nam
về thủ tục giải quyết vụ việc dân sự theo định hướng cải cách tư pháp" - đề tài nghiên
cứu khoa học cấp bộ của TAND tối cao… Các công trình trên cũng mới chỉ dừng lại
ở việc phân tích, bình luận các quy định của BLTTDS 2015 về TTRG và ít đề cập
đến thực tiễn áp dụng của các quy định này.
Xuất phát từ xu hướng các vụ án liên quan đến TCDS hiện nay càng ngày
càng tăng và việc áp dụng pháp luật từ thực tiễn xét xử còn nhiều bất cập thì việc
nghiên cứu các quy định của pháp luật và thực tiễn xét xử về việc giải quyết TCDS
theo TTRG là rất quan trọng. Thực tiễn xét xử các vụ án TCDS qua các cấp Tòa án

3


trong hệ thống Tòa án Việt Nam cho thấy việc áp dụng tất cả các thủ tục tố tụng
như nhau mà không phân biệt tranh chấp phức tạp, chứng cứ không rõ ràng, các
đương sự không thừa nhận quyền và nghĩa vụ của nhau với những vụ án tranh chấp
đơn giản, chứng cứ rõ ràng, các đương sự đều thừa nhận quyền và nghĩa vụ là bất
hợp lý, dẫn đến thủ tục có phần nặng nề, thời gian giải quyết kéo dài, tốn kém. Qua
nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành và thực tiễn xét xử các
vụ án TCDS tại TAND các cấp trong hệ thống Tòa án Việt Nam học viên rút ra
được những thành tựu và điểm tiến bộ của việc áp dụng TTRG theo quy định của
Bộ luật TTDS Việt Nam hiện hành và những hạn chế bất cập trong quá trình áp
dụng các quy định của pháp luật về TTRG một cách cụ thể nhất để giải quyết các
TCDS cũng như đề ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả
của việc áp dụng TTRG vào công tác xét xử giải quyết tranh chấp về dân sự nói
chung trong hệ thống Tòa án các cấp.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu một số vấn đề lý luận chung về TTRG trong TTDS,
đề tài đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về TTRG trong TTDS ở Việt Nam hiện
nay. Qua đó nêu ra những ưu điểm và phát hiện những bất cập, hạn chế trong các
quy định của pháp luật, những sai sót yếu kém trong việc áp dụng pháp luật về
TTRG vào công tác xét xử của Tòa án khi giải quyết tranh chấp về dân sự nói chung
và nguyên nhân của những hạn chế đó. Trên cơ sở đó đề xuất những kiến nghị, các
giải pháp hoàn thiện TTRG trong TTDS, bảo vệ quyền và lợi ích của các đương sự,
tiết kiệm được thời gian, công sức cho các đương sự, đảm bảo đúng tinh thần cải
cách tư pháp của Đảng và Nhà nước đã đề ra theo nghị quyết 49-NQ/TW ngày
02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu trên, đề tài sẽ thực hiện một số nhiệm vụ nghiên cứu
sau đây:
- Phân tích một số vấn đề lý luận cơ bản về TTRG trong TTDS.

4


- Đánh giá thực trạng áp dụng TTRG theo pháp luật TTDS ở Việt Nam hiện
nay vào việc giải quyết các TCDS nói chung tại hệ thống TAND các cấp.
- Đánh giá ưu điểm, hạn chế, những vấn đề bất cập, chưa hợp lý, thiếu khoa học
của các quy định của pháp luật về TTRG khi áp dụng vào thực tiễn xét xử các vụ án.
- Nêu các phương hướng hoàn thiện pháp luật về TTRG theo pháp luật
TTDS ở Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất một số kiến nghị để hoàn thiện TTRG trong giải quyết các TCDS
nói chung.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Các đường lối, chính sách, các nghị quyết của Đảng, Hiến Pháp của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam

hiện hành, các căn cứ pháp lý khi áp dụng TTRG vào việc giải quyết TCDS và thực
tiễn áp dụng TTRG vào công tác xét xử tại Tòa án.
- Các quan điểm, tư tưởng luật học về TTRG trong TTDS, pháp luật một số
nước trên thế giới về TTRG trong TTDS.
- Các báo cáo tổng kết công tác xét xử và nhiệm vụ trọng tâm của hệ thống
TAND từ 2005 đến 2016 để thấy được vai trò của việc áp dụng TTRG.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Đề tài chỉ nghiên cứu TTRG trong TTDS nói chung khi giải quyết tại Tòa
án, tức là chỉ đi sâu về nghiên cứu theo một thể thức và quy định khi áp dụng theo
TTRG để giải quyết một TCDS nói chung, không nghiên cứu sâu về TTRG được áp
dụng riêng theo những loại hình tranh chấp nhất định như tranh chấp về dân sự, tranh
chấp về hôn nhân gia đình, tranh chấp về kinh doanh thương mại hay tranh chấp về
lao động được thực hiện theo quy định của Bộ luật TTDS Việt Nam hiện hành.
- Về mặt thời gian, đề tài nghiên cứu các cơ sở pháp lý, lịch sử trong quá
trình hình thành và phát triển TTRG trong TTDS Việt Nam từ năm 1945 đến nay.
- Đề tài được nghiên cứu trong phạm vi của chuyên ngành Luật Kinh tế.

5


5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận của đề tài là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử theo quan điểm khoa học của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, đó là
tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, đồng thời giữa chúng có mối quan hệ biện
chứng với nhau. Pháp luật là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng xã hội, được
hình thành từ một cơ sở hạ tầng phù hợp. Pháp luật được coi là tấm gương phản
chiếu xã hội, còn về phần mình, xã hội được coi là cơ sở thực tiễn của pháp luật.
Các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước
cũng là phương pháp luận để nghiên cứu đề tài, vì các quy định của pháp luật phải
phù hợp bới sự phát triển của các điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội thì mới có tính

khả thi trong quá trình thực hiện và áp dụng pháp luật, tạo cơ sở cho sự ổn định và
phát triển của xã hội Việt Nam.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể:
Trong quá trình nghiên cứu, học viên sử dụng phương pháp lịch sử để nghiên
cứu tìm hiểu quá trình hình thành và phát triển của TTRG qua các thời kỳ lịch sử
của Việt Nam.
Phương pháp phân tích và phương pháp tổng hợp được áp dụng xuyên suốt
trong tất cả các chương, mục của luận văn khi làm rõ các vấn đề liên quan đến việc
áp dụng TTRG khi giải quyết TCDS nói chung.
Phương pháp so sánh để tìm hiểu những nét tương đồng và khác biệt của
pháp luật Việt Nam và pháp luật một số nước trên thế giới quy định về TTRG khi
giải quyết các TCDS nói chung.
Phương pháp thống kê khi nghiên cứu các báo cáo công tác xét xử, các bản
án của TAND các cấp trong hệ thống Tòa án khi giải quyết các TCDS nói chung để
thấy được sự cần thiết áp dụng TTRG.
Phương pháp hệ thống hóa và khái quát hóa nhằm đưa ra những giải pháp
ban đầu cho việc áp dụng TTRG vào TTDS Việt Nam.

6


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Nội dung của luận văn có ý nghĩa thiết thực, là cơ sở để có cái nhìn toàn diện
hơn, thống nhất hơn về hệ thống pháp luật và thực trạng pháp luật Việt Nam hiện
hành quy định về TTRG, qua đó phát hiện những vướng mắc bất cập, sai sót trong
quá trình áp dụng pháp luật về TTRG vào thực tiễn xét xử các vụ án tranh chấp về
dân sự nói chung, trên cơ sở đó đề cập những kiến nghị hoàn thiện pháp luật về
TTRG để có thể đảm bảo tối đa nhất quyền và lợi ích của các bên đương sự, đảm
bảo sự khách quan, công bằng, có tình, có lý, tiết kiệm được thời gian và chi phí
giữa các bên đương sự.

7. Cơ cấu của luận văn
Luận văn ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về TTRG trong pháp luật tố tụng dân sự.
Chương 2: Thực trạng áp dụng TTRG theo pháp luật TTDS ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Phương hướng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật về TTRG
theo pháp luật TTDS ở Việt Nam hiện nay.

7


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THỦ TỤC RÚT GỌN
TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. Cơ sở lý luận về thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của thủ tục rút gọn trong pháp luật tố tụng dân sự
1.1.1.1. Khái niệm thủ tục rút gọn trong pháp luật tố tụng dân sự
Nhằm giải quyết nhanh gọn các TCDS nói chung và giảm tải cho Tòa án thì
nhiều nước trên thế giới, bên cạnh thủ tục giải quyết các tranh chấp dân sự thông
thường còn quy định một loại thủ tục đơn giản hơn về thành phần hội đồng xét xử,
về thời gian tiến hành tố tụng… đối với các vụ án đơn giản, có nội dung tranh chấp
tương đối rõ ràng, bị đơn đã thừa nhận hoặc không phản đối yêu cầu của nguyên
đơn, các vụ án có giá ngạch thấp hoặc do các bên đương sự lựa chọn giải quyết theo
hình thức đơn giản. Thủ tục đó được gọi tên ở các nước khác nhau, nhưng bản chất
đều là thủ tục đơn giản, gọn nhẹ hơn so với TTTT.
Có thể thấy rằng, bên cạnh thủ tục tố tụng thông thường, nhiều nước đã xây
dựng TTRG (summary procedure) để áp dụng xử lý những vi phạm pháp luật nhỏ,
giải quyết những tranh chấp, khiếu kiện có giá trị thấp, những vụ việc đơn giản,
chứng cứ rõ ràng nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Tòa án, khắc phục nhanh
chóng những vấn đề nảy sinh trong xã hội, tiết kiệm thời gian, vật chất cho Tòa án

và các đương sự, không làm trầm trọng thêm những vụ việc có thể giải quyết nhanh,
theo trình tự đơn giản, góp phần ổn định xã hội.
Có nhiều cách hiểu khác nhau về TTRG trong TTDS:
Theo pháp luật Pháp, “TTRG”, “thủ tục đơn giản” hay “thủ tục giản lược”
(procedure sommaire/summary procedure, simplified procedure) là “thủ tục tố tụng
theo đó các thủ tục được đơn giản hóa hơn so với thủ tục tố tụng thông thường,
được áp dụng trước các Tòa án theo thông luật hoặc trước các Tòa án có thẩm
quyền chung trong những trường hợp đặc biệt.” [2, tr.706]
Theo pháp luật Hoa Kỳ, thủ tục tố tụng giản lược được hiểu là một thủ tục
đơn giản hóa so với TTTT, chỉ được áp dụng trong một số trường hợp nhất định, xét

8


xử không có bồi thẩm đoàn, được áp dụng “để giải quyết các tranh chấp hoặc kết
thúc vụ việc một cách tương đối nhanh chóng và đơn giản.” [39, tr.559]
Ngoài hai nước đại diện cho hai hệ thống pháp luật phổ biến của thế giới nêu
trên, nhiều nước khác dù thuộc hệ thống pháp luật nào, với điều kiện kinh tế - xã
hội, kinh nghiệm lập pháp, trình độ dân trí… không giống nhau nhưng đều xác định
TTRG trong TTDS là một thủ tục riêng biệt, độc lập bên cạnh thủ tục tố tụng thông
thường, áp dụng để giải quyết một số loại tranh chấp đơn giản bởi thành phần giải
quyết rút gọn, trình tự và thời gian giải quyết đơn giản hơn so với TTTT. Ví dụ như
tại Nhật Bản, Tòa án đơn giản có thẩm quyền giải quyết những vụ án liên quan đến
yêu cầu có giá trị không vượt quá 1,4 triệu yên. Luật nước này công nhận các quy
định đặc biệt nhằm đơn giản hóa thủ tục khởi kiện, xét xử như: việc khởi kiện có
thể thực hiện bằng miệng. Đương sự không cần phải chuẩn bị văn bản mà chỉ cần
có mặt vào ngày tranh luận miệng để nêu ý kiến là đủ. Tòa khi thấy phù hợp có
quyền yêu cầu nộp văn bản thay cho việc hỏi người làm chứng, đương sự hoặc
người giám định, không phụ thuộc vào việc các bên đương sự có phản đối hay
không. Tại Trung quốc thì TTRG là khi hai bên đương sự có thể đồng thời đến Tòa

đề nghị giải quyết tranh chấp. Tùy từng trường hợp, Tòa án có thể xét xử ngay hoặc
định một ngày khác. Đồng thời, Tòa có thể thông báo miệng cho các đương sự về
nội dung khởi kiện. [46]
Nhìn lại lịch sử pháp luật về TTDS ở Việt Nam, theo quy định của pháp luật
trong thời kỳ của các chế độ cũ, TTRG đã sớm được áp dụng để giải quyết một số
loại tranh chấp cụ thể:
Theo “Bắc kỳ pháp viện biên chế” công bố bằng Nghị định ngày 2/12/1921
được thi hành tại toàn cõi Bắc kỳ, thì Tòa án cấp sơ thẩm có quyền giải quyết sơ thẩm
và chung thẩm nếu giá ngạch không quá 30 đồng bạc (Điều 6); Tòa án tỉnh có quyền
giải quyết sơ thẩm và chung thẩm nếu giá ngạch quá 30 đồng bạc và không tới 100
triệu đồng bạc (Điều 13). [12, tr. 255]
Tại miền trung Việt Nam, theo Nghị định ngày 20/10/1947 của Hội đồng chấp
tránh lâm thời Trung kỳ về sửa đổi giá ngạch cũ có quy định: Các Tòa án đệ nhị cấp

9


xử chung thẩm các việc tương tranh động sản hoặc đối với người, việc thương sự;
việc đòi tiền bồi hoàn hay bồi thường với giá ngạch trên 500đ nhưng dưới 1500đ, về
bất động sản theo giá ngạch đồng niên không quá 150đ (Điều 19). [12, tr. 255]
Ở Miền Nam Việt Nam, theo sắc lệnh ngày 27/12/1943 có quy định: Tòa xử sơ
thẩm và chung thẩm các tố quyền đối nhân và động sản đến mức 7500 quan tức 750đ
giạ lúa (mỗi giạ trọng lượng 20 kilo), các tố quyền bất động sản lợi tức đồng niên 40
giạ lúa hay 300 quan hay 30đ mỗi năm. Theo Điều 16 BLDS và thương sự ngày
20/1/1972 của chính quyền Sài Gòn, thì những vụ kiện về động sản có giá trị dưới
60.000đồng (thời điểm 1972) được coi là có giá ngạch thấp. [12, tr. 255]
Từ điển Tiếng Việt không có thuật ngữ “TTRG” hay “thủ tục giản lược”, đây
là một khái niệm khá mới mẻ và được du nhập từ bên ngoài. Tác giả Nguyễn Công
Bình trong một đề tài nghiên cứu cấp bộ “Vấn đề xây dựng thủ tục TTDS rút gọn
theo yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế hiện nay – Thực trạng và giải

pháp” đã đưa ra khái niệm về TTRG trong TTDS, theo đó TTRG trong TTDS là
“thủ tục tố tụng để giải quyết đối với những tranh chấp nhỏ, đơn giản và có chứng
cứ rõ ràng…” [37, tr.133]
Cùng trong đề tài nghiên cứu cấp bộ trên, tác giả Trần Anh Tuấn lại đưa ra
khái niệm khá cụ thể và chi tiết hơn: “Thủ tục TTDS rút gọn là loại hình thủ tục tố
tụng được giản lược, do một thẩm phán tiến hành giải quyết đối với các vụ kiện dân
sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động có nội dung đơn giản, rõ
ràng hoặc có giá trị nhỏ theo một trình tự tố tụng đơn giản, nhanh chóng, phán
quyết của Tòa án có hiệu lực pháp luật ngay hoặc có thể bị phản kháng để giải
quyết theo thủ tục sơ thẩm thông thường hoặc thủ tục phúc thẩm được giản lược”.
[37, tr.15]
Khái niệm TTRG lần đầu tiên được quy định tại điều 316 BLTTDS năm
2015: “TTRG là thủ tục tố tụng được áp dụng để giải quyết vụ án dân sự có đủ điều
kiện theo quy định của Bộ luật này với trình tự đơn giản so với thủ tục giải quyết
các vụ án dân sự thông thường nhằm giải quyết vụ án nhanh chóng nhưng vẫn bảo
đảm đúng pháp luật”. [26, tr. 245]

10


Theo tác giả luận văn, có thể hiểu về TTRG trong TTDS như sau: TTRG
trong TTDS là một quy trình tố tụng riêng biệt được Tòa án áp dụng để giải quyết
các TCDS có nội dung đơn giản, rõ ràng, có giá ngạch thấp hoặc các bên đương sự
thỏa thuận lựa chọn thủ tục này, theo đó trong một thời gian ngắn thẩm phán độc
lập tiến hành xem xét và ra phán quyết về vụ án tranh chấp mà không nhất thiết phải
tuân theo tuần tự các bước như trong TTTT.
Như vậy, TTRG là một chế định mới, lần đầu tiên được quy định trong Bộ
luật TTDS 2015. Mục đích của việc áp dụng TTRG là để giải quyết vụ án dân sự
với trình tự, thủ tục đơn giản so với thủ tục giải quyết các vụ án dân sự thông
thường, nhằm giải quyết vụ án nhanh chóng nhưng vẫn bảo đảm đúng pháp luật.

1.1.1.2. Đặc điểm của thủ tục rút gọn trong pháp luật tố tụng dân sự
Thủ tục rút gọn được áp dụng để giải quyết các vụ việc dân sự có giá trị tranh
chấp không lớn, những vụ việc dân sự đơn giản.
TTRG tồn tại bên cạnh thủ tục TTDS thông thường, với bản chất đơn giản,
rút gọn về thủ tục và rút ngắn về thời gian cũng như về thành phần giải quyết và
tham gia tố tụng, TTRG không thể là một thủ tục có thể áp dụng cho việc giải quyết
tất cả các vụ án về TCDS. Đối với những tranh chấp phức tạp, chứng cứ không rõ
ràng hoặc không có sự thừa nhận nghĩa vụ từ đương sự… không thể giải quyết một
cách đơn giản và rút gọn được, bởi lẽ cần phải cung cấp, thu thập, tổng hợp, nghiên
cứu và đánh giá chứng cứ một cách kỹ lưỡng để làm sáng tỏ sự thật khách quan của
vụ án cũng như cần phải tiến hành các hoạt động hòa giải và việc giải quyết cần
thông qua một tập thể để bảo đảm phán quyết được đưa ra đúng đắn.
Ngược lại, đối với những vụ án đơn giản, giá trị tranh chấp nhỏ hoặc đã có
sự thừa nhận nghĩa vụ của đương sự, Tòa án không nhất thiết phải cần nhiều thời
gian, phải tiến hành tất cả những hoạt động tố tụng và phải xét xử vụ án bởi một tập
thể… mà vẫn có thể giải quyết vụ án một cách chính xác, đúng đắn và bảo vệ một
cách hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, đồng thời giúp đương sự và
Tòa án tiết kiệm thời gian, chi phí. Chính vì thế, TTRG là một thủ tục chỉ để giải
quyết đối với những tranh chấp đặc thù, đáp ứng các điều kiện cơ bản do luật định

11


như: tranh chấp đơn giản, chứng cứ rõ ràng, các đương sự thừa nhận nghĩa vụ hoặc
giá ngạch thấp.
Kinh nghiệm áp dụng TTRG ở nhiều nước trên thế giới sau khi phân tích và
so sánh nhận thấy giá trị tranh chấp là một trong những căn cứ để Tòa án khi thụ lý
quyết định tranh chấp đó được giải quyết theo TTTT hay TTRG.
Ở Pháp, theo điều R221-3, điều R221-4 và điều R231-3 Luật tổ chức tư pháp
năm 2012, những tranh chấp có giá trị nhỏ không vượt quá 4.000Euro (EUR) được

giải quyết theo TTRG bởi một thẩm phán tại Tòa sơ thẩm có thẩm quyền hẹp hoặc
Tòa án cơ sở. Ở Đức, TTRG được quy định trong quyển 7, Bộ luật tố tụng Dân sự
Đức áp dụng đối với những vụ khiếu kiện nhỏ có giá ngạch dưới 6000EUR và được
giải quyết bởi Tòa án địa hạt. [20, tr.17]
Ở Vương quốc Anh, vụ kiện có giá trị 10.000 Bảng Anh (GBP) trở xuống
được coi là vụ kiện nhỏ, được giải quyết theo TTRG bởi Tòa án địa hạt. [40] Tại
Mỹ, pháp luật các bang đều cơ bản quy định rằng vụ án có giá ngạch thấp được coi
là vụ kiện nhỏ và được giải quyết theo thủ tục giản lược, giá ngạch thấp được từng
tiểu bang quy định, cơ bản từ 2500USD đến 25.000USD. [41]
Nhiều nước khu vực cũng quy định áp dụng TTRG để giải quyết các TCDS
nhỏ, có giá trị không lớn. Nhật Bản quy định các vụ kiện có giá trị dưới 900.000đ
Yên Nhật (JPY) được giải quyết theo TTRG, Thái Lan dưới 50.000 Bạt Thái, Hàn
Quốc dưới 5.000.000 won Hàn. [36, tr.181-184]
Bên cạnh tiêu chí giá trị tranh chấp không lớn, một số nước còn áp dụng
TTRG vào giải quyết các TCDS đơn giản mà không phụ thuộc vào giá trị tranh chấp.
Ở Pháp, theo điều 1405 Bộ luật tố tụng Dân sự Pháp, thủ tục ra lệnh thanh
toán nợ là một thủ tục đơn giản được thực hiện bởi Tòa án trong những trường hợp
có yêu cầu về: khoản nợ có nguồn gốc từ một hợp đồng hoặc từ một nghĩa vụ theo
điều lệ và là một số tiền nhất định; nếu là do hợp đồng thì được xác định theo các
điều khoản của hợp đồng, kể cả điều khoản phạt (nếu có); nợ do cam kết nhận hoặc
rút hối phiếu, ký nhận một kỳ phiếu, chuyển nhượng hoặc bảo lãnh các loại tín
phiếu hoặc nhận chuyển nhượng một khoản nợ. [20, tr.18]

12


Tại vương quốc Anh, TTRG cũng áp dụng giải quyết các vụ án mà giá trị
tranh chấp lớn hơn 10.000 bảng Anh nhưng nội dung tranh chấp đơn giản và các
đương sự đều đồng ý áp dụng TTRG. Các loại án này thường là các khiếu kiện về
tiêu dùng, các tranh chấp giữa chủ nhà và người thuê nhà về việc sửa chữa, đặt cọc,

khu vực thuê…nhưng không phải về quyền sở hữu, nợ lương hoặc tiền bồi thường,
khiếu nại về tai nạn, tranh chấp về quyền sở hữu hàng hóa… [20, tr.5]
Thủ tục giải quyết đơn giản, thời hạn giải quyết được rút ngắn, thường được
giải quyết bằng một thẩm phán
Một là, thủ tục giải quyết đơn giản, rút gọn về trình tự và các bước tố tụng:
Ở Pháp, trình tự giải quyết tranh chấp theo TTRG khá đơn giản, đối với các vụ
án có giá ngạch thấp, theo điều 1407 BLTTDS Pháp các bên phải cung cấp đầy đủ
thông tin về vụ tranh chấp để thẩm phán xem xét. Sau đó, thẩm phán sẽ triệu tập hai
bên đến một phiên hòa giải. Nếu các bên không hòa giải được, thẩm phán sẽ đưa ra
phán quyết trên cơ sở hồ sơ chứng cứ do các bên cung cấp và chỉ triệu tập các bên đến
để nghe phán quyết. [20, tr.8]
Trình tự giải quyết tranh chấp theo TTRG ở Anh cũng khá đơn giản. Các vụ
kiện thuộc đối tượng áp dụng TTRG do một thẩm phán thay vì bồi thẩm đoàn giải
quyết. Sau khi thụ lý vụ án, nếu tranh chấp thuộc vụ kiện nhỏ, trong thông báo thụ lý
Tòa án sẽ nêu rõ vụ kiện thuộc loại hình nào và các đương sự phải chuẩn bị những
công việc gì cho phiên tòa và thời gian dự kiến mở phiên tòa. Việc thu thập chứng cứ
cũng không buộc phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về chứng cứ. Phiên tòa có thể
được xét xử công khai hoặc xét xử kín, Tòa án có thể áp dụng bấ

13



chống lại quyết định của thẩm phán với điều kiện đương sự đó phải tham gia phiên
xét xử và phải yêu cầu với thẩm phán cho phép kháng cáo khi kết thúc phiên xét xử.
[20, tr.12]
Như vậy, đối với các phán quyết giải quyết theo TTRG ở nhiều quốc gia,
pháp luật tố tụng không cho phép kháng cáo hoặc cho phép kháng cáo phúc thẩm,
đây là một thiết chế nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của đương sự được bảo vệ một
cách triệt để.

Ba là, thời hạn giải quyết theo TTRG được rút ngắn: Với mục tiêu chung khi
xây dựng TTRG là nhằm đơn giản hóa thủ tục, giải quyết nhanh, có hiệu quả các
tranh chấp nhỏ, đơn giản… Chính vì vậy, pháp luật TTDS của nhiều nước trên thế
giới cũng như ở Việt Nam khi quy định về TTRG trong TTDS đều có ghi nhận về
thời gian giải quyết vụ án ngắn hơn so với thủ tục TTDS thông thường. Trung Quốc
thời hạn giải quyết tranh chấp theo TTRG là không quá ba tháng, Hàn Quốc là hai
tháng rưỡi so với TTTT là sáu tháng, ở Anh thời gian trung bình giải quyết xong
một vụ kiện có giá trị tranh chấp nhỏ là 31 tuần… [43]
Khi giải quyết vụ án TCDS theo TTRG bao gồm cả việc rút gọn một hoặc
một số trình tự, thủ tục và giai đoạn tố tụng thì đương nhiên thời gian xét xử theo
TTRG cũng được rút ngắn hơn. Ngắn gọn hơn bao nhiêu là vấn đề không đơn thuần
dựa vào một tiêu chí cụ thể nào đó mà phụ thuộc vào nhiều yếu tố: bản chất của
tranh chấp, trình tự, thủ tục tố tụng nào được rút gọn, khối lượng công việc của
thẩm phán, đội ngũ giúp việc của thẩm phán…
Bốn là, rút gọn về thành phần tham gia giải quyết tranh chấp: Về thành phần
tham gia giải quyết tranh chấp theo TTRG có sự thừa nhận chung theo hướng: việc
giải quyết và xét xử chỉ do một thẩm phán tiến hành từ khi thụ lý cho đến khi xét xử
sơ thẩm. Cơ chế một thẩm phán xét xử mà không có sự tham gia của Bồi thẩm đoàn
nhằm đẩy nhanh tiến trình giải quyết một số vụ việc dân sự, giảm bớt chi phí tố tụng,
tiết kiệm cho ngân sách nhà nước cũng như đương sự, đồng thời nâng cao trách
nhiệm cá nhân của thẩm phán và điều quan trọng hơn cả là vì TTRG chỉ áp dụng để

15


giải quyết những tranh chấp đơn giản, chứng cứ rõ ràng… nên sự tham gia của những
người tiến hành tố tụng khác như Bồi thẩm đoàn là không cần thiết.
Về sự tham gia của Viện kiểm sát, dường như đại đa số các nước trên thế
giới đều quy định cơ quan công tố không có vai trò trong việc giải quyết các vụ án
dân sự. Cơ quan công tố chỉ có quyền năng chính là truy tố và buộc tội trong các vụ

án hình sự. Ở Việt Nam và một số ít nước còn lại mà pháp luật còn chịu sự ảnh
hưởng nhất định của hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa trước đây, vai trò của Viện
kiểm sát còn mở rộng trong việc giám sát hoạt động xét xử của Tòa án và do đó,
Viện kiểm sát có vai trò, chức năng với các mức độ khác nhau và tùy vào từng thời
điểm lịch sử cụ thể, trong quá trình giải quyết vụ án dân sự.
Về sự tham gia của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
(Luật sư) trong quá trình giải quyết tranh chấp theo TTRG, về cơ bản quan điểm của
phần lớn các nước cho rằng đây là quyền của đương sự nhờ người khác bảo vệ quyền
lợi của mình nên pháp luật không can thiệp miễn là sự tham gia của họ không làm trì
hoãn hoặc cản trở đến việc áp dụng TTRG. Tuy nhiên, cũng có nước khi quy định cụ
thể về việc hạn chế sự tham gia của luật sư trong những vụ án áp dụng TTRG nhằm
mục đích giảm chi phí cho đương sự và cũng để hạn chế việc xét xử vụ án bị kéo dài
khi có sự tham gia của luật sư (như đối với Philippin, luật sư không được chấp nhận
tại phiên xét xử nhưng không cấm luật sư giúp đỡ và hỗ trợ đương sự thực hiện các
công việc chuẩn bị cho phiên xét xử hoặc cho các vấn đề khác ngoài phiên xét xử…).
Ngay ở Hoa Kỳ, nơi có thể coi là có số lượng luật sư nhiều nhất trên thế giới tính theo
bình quân đầu người, pháp luật tố tụng cũng không quy định cần phải có luật sư tham
gia trong các vụ án được giải quyết theo TTRG. [44]
Như vậy, có sự thừa nhận chung rằng một trong những nội dung của TTRG
là việc rút gọn thành phần tham gia giải quyết tranh chấp chỉ bởi một thẩm phán,
không có sự tham gia của bồi thẩm đoàn, không bắt buộc phải có luật sư nhưng
không hạn chế luật sư tham gia với điều kiện sự tham gia của họ không làm ảnh
hưởng đến tiến trình giải quyết vụ án theo TTRG.
Chi phí tố tụng thấp hơn nhiều so với chi phí tố tụng thông thường

16


Thời gian được rút ngắn, thủ tục đơn giản làm giảm các chi phí tố tụng, đi lại
cho đương sự, giúp cho đương sự tiết kiệm được chi phí,thời gian, công sức hơn so

với TTTT. Thông thường pháp luật các nước có quy định về thủ tục TTDS rút gọn
đều quy định án phí mà đương sự phải chịu là thấp hơn so với thủ tục tố tụng thông
thường. Bên cạnh đó, do các vụ án đơn giản, xét xử nhanh nên các chi phí đi lại,
thuê luật sư không phát sinh. Tòa án cũng không phải tiến hành tất cả các trình tự,
thủ tục để đưa vụ án ra xét xử mà gần như chỉ căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ do
các bên đương sự cung cấp. Vì vậy, các chi phí như định giá, thẩm định tại chỗ, thu
thập tài liệu, chứng cứ cũng không phát sinh.
1.1.2. Vai trò, ý nghĩa của thủ tục rút gọn trong pháp luật tố tụng dân sự
Vai trò to lớn của thủ tục TTDS rút gọn nằm ngay trong chính tên gọi của thủ
tục này với mục đích tạo điều kiện thuận lợi cho người dân có thể tiếp cận công lý một
cách nhanh chóng. Việc xây dựng thủ tục TTDS rút gọn có ý nghĩa rộng lớn và sâu sắc.
Ý nghĩa về mặt chính trị: Với các nước áp dụng TTRG nói chung, TTRG góp
phần đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, hội nhập kinh tế quốc tế. Trong xu thế hội
nhập nền kinh tế quốc tế hiện nay đòi hỏi các thủ tục tố tụng nói chung và thủ tục tố
tụng tư pháp dân sự nói riêng phải đáp ứng được yêu cầu về sự mềm dẻo, linh hoạt,
nhanh chóng, thuận tiện để giải quyết kịp thời các tranh chấp phát sinh. Việc cải
cách thủ tục tố tụng tư pháp, trong đó có thủ tục TTDS theo hướng trên sẽ góp phần
thúc đẩy các giao lưu kinh tế, thương mại, dân sự…phát triển mạnh mẽ. Pháp luật
TTDS một số nước hiện hành, trong đó có Việt Nam còn chưa thực sự mềm dẻo,
linh hoạt, thời hạn giải quyết tranh chấp còn kéo dài, phải trải qua nhiều khâu, nhiều
bước nên chưa thực sự đáp ứng yêu cầu giải quyết tranh chấp trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế. Do vậy, việc xây dựng thủ tục TTDS rút gọn với trình tự giải
quyết đơn giản đặc biệt là thời hạn giải quyết ngắn…sẽ tạo điều kiện cho các vụ án
được giải quyết nhanh chóng, kịp thời, làm cho "hoạt động xét xử được tiến hành có
hiệu quả và hiệu lực cao" [07, tr.2] , đáp ứng được nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế
và hiện thực hoá chiến lược cải cách tư pháp một số nước đã đề ra.

17



Ý nghĩa về mặt pháp lý: TTRG là sự kế thừa và phát triển những quy định
trong các văn bản trước đây của pháp luật một số nước áp dụng TTRG, đồng thời là
bước ngoặt lớn phù hợp với nền lập pháp của các nước nói trên, đáp ứng yêu cầu xu
thế hội nhập quốc tế về mọi mặt của thế giới hiện nay.
Xét về thực tế thì do các bước về thủ tục được giản lược nên thủ tục TTDS
rút gọn sẽ giảm đáng kể các chi phí tố tụng cho đương sự và Toà án trong quá trình
giải quyết vụ án. Bên cạnh đó, trong thủ tục TTDS rút gọn, thời gian để tiến hành tố
tụng được rút gắn đi rất nhiều lần so với thủ tục TTDS thông thường. Do vậy,
quyền lợi hợp pháp của đương sự sẽ được bảo vệ một cách nhanh chóng, kịp thời.
Thủ tục TTDS rút gọn góp phần giảm áp lực công việc cho cán bộ Toà án,
đặc biệt là đối với thẩm phán khi mà số lượng các vụ án TCDS ngày một gia tăng.
Trong điều kiện nếu các nước không thể tăng biên chế thẩm phán tương ứng với sự
gia tăng số lượng công việc và ngân sách Nhà nước còn hạn hẹp thì việc xây dựng
thủ tục TTDS rút gọn với một trình tự, thủ tục đơn giản, thời gian giải quyết ngắn sẽ
giúp cho các thẩm phán nâng cao hiệu quả trong công tác xét xử, chủ động giải
quyết được các vụ án có nội dung đơn giản, chứng cứ rõ ràng, giá ngạch thấp. Do
vậy, thẩm phán sẽ có thời gian tập trung nghiên cứu, giải quyết các vụ án phức tạp,
cần nhiều thời gian thu thập chứng cứ.
Ý nghĩa về mặt xã hội: Thủ tục TTDS rút gọn đáp ứng yêu cầu về bảo đảm
quyền tiếp cận công lý của công dân, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho Toà án
có thể nhanh chóng giải quyết vụ án. Đối với công dân thì thủ tục TTDS rút gọn sẽ
tạo điều kiện thuận lợi để họ tiến hành khởi kiện và tham gia tố tụng tại Tòa án để
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình nhanh hơn. Trong các vụ án có nội dung
tranh chấp đơn giản, chứng cứ rõ ràng…thì cả nguyên đơn và bị đơn không phải trải
qua tất cả các thủ tục tố tụng như trong TTTT, mà chỉ tiến hành một số thủ tục luật
định cần thiết cho việc giải quyết vụ án. [39]
Thủ tục TTDS rút gọn là phương tiện để thẩm phán có thể chủ động và linh
hoạt trong việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đương sự vì họ không phải thực hiện
tất cả các trình tự, thủ tục như thủ tục TTDS thông thường. Ngoài ra, với đặc điểm


18


của thủ tục TTDS rút gọn là thời gian giải quyết nhanh chóng, trình tự, thủ tục tiến
hành tố tụng đơn giản nên thủ tục này sẽ là một phương tiện được người dân tin cậy
trong việc sử dụng để nhanh chóng bảo vệ quyền lợi của mình. Từ đó hạn chế được
các hiện tượng tiêu cực hiện nay như khiếu kiện kéo dài hoặc người dân thiếu tin
tưởng vào tính hiệu quả của hệ thống Toà án nên đã tự mình hành xử bằng cách bắt
nợ, đòi nợ thuê dẫn đến gây mất trật tự xã hội và có thể phát sinh thành các tội
phạm hình sự. TTRG góp phần củng cố lòng tin của nhân dân vào pháp luật, hệ
thống cơ quan tư pháp nói riêng và bộ máy nhà nước nói chung, củng cố niềm tin
của nhân dân vào công bằng pháp luật, sự công tâm của cán bộ ngành tư pháp, hiệu
quả công tác tư pháp sẽ được nâng cao và đảm bảo thực hiện.
1.1.3. Khung pháp luật về thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự
Việc nghiên cứu thực tiễn áp dụng TTRG ở một số quốc gia cho thấy TTRG
là một chế định phổ biến trong pháp luật của nhiều nước trên thế giới, góp phần
giảm các chi phí xã hội đối với hoạt động giải quyết tranh chấp mà vẫn đảm bảo
được mục tiêu của hoạt động tư pháp. Mặc dù phụ thuộc vào tình hình của từng
quốc gia nhưng nhìn chung, TTRG ở các nước có một số nội dung cơ bản sau đây:
- Phạm vi và điều kiện áp dụng, TTRG được áp dụng đối với vụ án có tiêu
chí tranh chấp đã rõ ràng, đầy đủ chứng cứ hoặc có giá trị tranh chấp nhỏ. Với các
vụ án rõ ràng và đơn giản, Tòa án sẽ không cần phải yêu cầu cung cấp hoặc tiến
hành các hoạt động tố tụng thu thập chứng cứ mà hoàn toàn giải quyết trên cơ sở
các chứng cứ chứng minh do đương sự cung cấp. Với tiêu chí giá trị tranh chấp nhỏ,
chỉ cần có giá trị tranh chấp dưới mức trần mà pháp luật quy định là có thể được áp
dụng thủ tục rút gọn mà không căn cứ vào tính phức tạp hay đơn giản của tranh
chấp đó. Tùy thuộc vào tình hình từng quốc gia mà một hoặc cả hai tiêu chí được sử
dụng làm căn cứ xác định phạm vi áp dụng TTRG.
- Trình tự áp dụng TTRG, cơ quan áp dụng TTRG có thể là một Tòa chuyên
trách trong hệ thống Tòa án hoặc Tòa cấp sơ thẩm đồng thời có thẩm quyền giải

quyết theo TTRG. Tuy nhiên, đa số các nước lựa chọn mô hình thứ hai. Trình tự

19


giải quyết tranh chấp giống như TTTT nhưng có một số bước tố tụng được bỏ qua
hoặc rút gọn hơn cho phù hợp với bản chất của TTRG.
- Thành phần giải quyết vụ án, pháp luật các quốc gia đều quy định vụ việc
được giải quyết bằng một thẩm phán duy nhất, đây là một quy định chung xuất phát
từ bản chất đơn giản, dễ giải quyết của các vụ việc được xem xét.
- Thời hạn giải quyết vụ án, pháp luật các quốc gia đều quy định thời hạn giải
quyết vụ án theo TTRG được rút ngắn hơn rất nhiều so với TTTT, đa phần hầu như
thời gian chỉ bằng một nửa thời gian giải quyết tranh chấp theo TTTT.
- Hiệu lực của bản án, quyết định giải quyết theo TTRG, pháp luật các nước
đều hạn chế tối đa khả năng kháng cáo, thậm chí quy định các quyết định giải quyết
vụ việc có tính chung thẩm, trong trường hợp pháp luật có cho phép kháng cáo thì
các điều kiện để được chấp thuận kháng cáo cũng khá ngặt nghèo.
Khả năng kháng cáo, kháng nghị đối với bản án, quyết định sơ thẩm theo
TTRG thường được quy định trong mối tương quan với phạm vi áp dụng TTRG.
Xuất phát từ đặc điểm nhanh chóng, đơn giản về thời gian và thủ tục, TTRG tiềm ẩn
khả năng ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của các bên đương sự, do đó, hầu hết các
nước đều cân nhắc giữa phạm vi áp dụng TTRG với khả năng kháng cáo, kháng
nghị. Theo đó, trong trường hợp quy định một số loại vụ việc cụ thể hoặc có giá trị
nhỏ mà không ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống của đương sự thì bản án,
quyết định trong thủ tục này không hoặc bị hạn chế khả năng kháng cáo (như Cộng
hòa Liên bang Đức, Liên bang Nga, Nhật Bản). Trong trường hợp quan hệ pháp luật
được xem xét, giải quyết có ảnh hưởng quan trọng đến đời sống của đương sự thì
bản án, quyết định trong thủ tục này có thể bị kháng cáo.
- Chi phí tố tụng, việc rút gọn một số hoạt động tố tụng nhất định luôn đồng
nghĩa với việc giảm chi phí, do đó, chi phí tố tụng mà các bên phải gánh chịu cũng

giảm đáng kể.
- Khả năng chuyển đổi giữa các quy trình tố tụng, pháp luật các nước đều
quy định các trường hợp chuyển đổi giữa TTTT và TTRG một cách chi tiết dựa trên
sự tự do ý chí của các bên hoặc trên cơ sở các tiêu chí được xác định trước. Trong

20


×