Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ NỀN KINH TẾ TRI THỨC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.43 KB, 17 trang )

MỤC LỤC
A.
B.

LỜI MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ NỀN KINH TẾ TRI THỨC
Khái niệm về tri thức
Vai trò của tri thức đối với kinh tế
Vai trò của tri thức đối với chính trị
Vai trò của tri thức đối với văn hóa – giáo dục
CHƯƠNG II: QUAN ĐIỂM VÀ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NỀN KINH T Ế TRI
THỨC TRONG NHỮNG NĂM QUA:
1. Những
cơ hội và thách thức đối với Việt Nam
1.
2.
3.
4.

2.Quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế tri th ức.
3.Thực trạng phát triển nền kinh tế tri thức trong những năm qua.
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT TRIỂN NỀN KINH T Ế TRI THỨC TRONG
THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CNH- HĐH ĐẤT NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.

2.
3.
4.
5.


Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, bảo đảm
ổn định kinh tế vĩ mô, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn
lực.
Phát triển mạnh công nghiệp và xây dựng theo hướng hiện đại, nâng
cao chất lượng và sức cạnh tranh.
Phát triển mạnh các ngành dịch vụ, nhất là các dịch v ụ có giá tr ị cao,
tiềm năng lớn và có sức cạnh tranh.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đổi mới toàn diện và phát
triển nhanh giáo dục và đào tạo.
Tập trung phát triển KH-XH, đảm bảo thực sự là động lực then chốt
của quá trình phát triển nhanh và bền vững.

KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO


LỜI MỞ ĐẦU
Loài người đã trải qua hai nền văn minh và ngày nay, chúng ta đang đ ứng
trước ngưỡng cửa của nền văn minh thứ ba – văn minh trí tuệ. Trong n ền
văn minh này, bộ phận quan trọng nhất là nền kinh tế tri th ức – có th ể nói
là hết sức cơ bản của thời đại thông tin. Đặc biệt là trong th ập niên 90 các
thành tựu về công nghệ thông tin như: công nghệ Web, Internet, th ương
mại tin học,… Cùng với những thành tựu về công nghệ sinh học: công nghệ
gen, nhân bản vô tính,… tác động mạnh mẽ, sâu sắc làm đảo lộn toàn bộ
nền kinh tế thế giới và toàn bộ xã hội loài người đưa con người đi vào th ời
đại kinh tế tri thức. Rất nhiều nước trên thế giới đều có tăng trưởng kinh
tế từ tri thức. Việt Nam vẫn đang là một trong những nước nghèo và kém
phát triển so với khu vực và trên thế giới. Do đó phát triển kinh tế là chiến
lược cấp bách hàng đầu. Hơn nữa chúng ta đang trên con đường tiến hành
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nên không thể không đặt mình

vào tri thức, phát triển tri thức để đưa nền kinh tế n ước nhà bắt k ịp và
phát triển cùng thế giới.
Góp phần vào chiến lược phát triển kinh tế, tiến nhanh trên con đường
công nghiệp hóa, hiện đại hoá chúng ta cần phải nghiên cứu tri th ức, tìm
hướng đi đúng đắn cho nền kinh tế tri thức, phù hợp với điều kiện, hoàn
cảnh đất nước, phù hợp với khu vực, với thế giới và thời đại trong tổng
thể các mối liên hệ, trong sự phát triển vận động không ngừng của nền
kinh tế tri thức. Vì vậy nhóm chúng em quy ết định chọn đề tài này đ ể làm
đề tài nghiên cứu của mình.


CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ KINH TẾ TRI THỨC
1.

Khái niệm về tri thức:

Tri thức đã có từ lâu trong lịch sử, có thể nói t ừ khi con ng ười b ắt đ ầu có
tư duy thì lúc đó có tri thức.Trải qua một thời gian dài phát tri ển c ủa l ịch
sử, cho đến những thập kỷ gần đây tri thức và vai trò của nó đối v ới s ự
phát triển kinh tế-xã hội mới được đề cặp nhiều.Vậy tri th ức là gì?
Có rất nhiều cách định nghĩa về tri thức nhưng có thể hiểu “Tri th ức là sự
hiểu biết, sáng tạo và những khả năng, kỹ năng để ứng dụng nó (hiểu biết
sáng tạo) vào việc tạo ra cái mới nhằm mục đích phát triển kinh tế -xã h ội.
Tri thức bao gồm tất cả những thông tin, số liệu, bản vẽ, tưởng tượng
(sáng tạo), khả năng, kỹ năng quan niệm về giá trị và những sản phẩm
mang tính tượng trưng xã hội khác. Tri thức có vai trò rất lớn đối với đời
sống –xã hội.
Kinh tế thế giới đang bước vào một thời đại mới, một trình độ m ới. Đó là
trình độ mà “nhân tố quan trọng nhất là việc chiếm h ữu, phân ph ối ngu ồn
trí lực và việc sáng tạo, phân phối và sử dụng tri thức trong các ngành kĩ

thuật cao”. Tiêu chí chủ yếu của nó là lấy tri th ức, trí óc làm y ếu t ố then
chốt để phát triển kinh tế và tồn tại trực tiếp giống như các yếu tố sức lao
động và tài nguyên. Đó là thời đại mà “Tri thức đã trở thành động l ực ch ủ
yếu của sự phát triển xã hội”, ”Tri thức là tài nguyên là tư bản”, “Tri th ức là
tâm điểm của cạnh tranh và là nguồn lực dẫn dắt cho s ự tăng trưởng dài
hạn…dẫn tới những thay đổi lớn trong cách tổ chức sản xuất, c ấu trúc th ị
trường, lựa chọn nghề nghiệp,…
2.Vai trò của tri thức đối với Kinh tế:
Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó quá trình thu nh ận truy ền bá,
sử dụng, khai thác, sáng tạo tri thức trở thành thành phần ch ủ đ ạo trong
quá trình tạo ra của cải. Kinh tế tri thức có nhiều đặc điểm c ơ bản khác
biệt so với các nền kinh tế trước đó:
- Tri thức khoa học - công nghệ cùng với lao động kỹ năng cao là cơ sở chủ
yếu và phát triển rất mạnh.
- Nguồn vốn quan trọng nhất, quý nhất là tri thức, nguồn vốn trí tuệ.


- Sáng tạo và đổi mới thướng xuyên là động lực chủ yếu nhất thúc đ ẩy s ự
phát triển.
- Nền kinh tế mang tính học tập.
-Nền kinh tế lấy thị trường toàn cầu là môi trường hoạt động chính.
-Nền kinh tế phát triển bền vững do được nuôi dưỡng bằng nguồn năng
lượng vô tận và năng động là tri thức.
Thực tiễn hai thập niên qua đã khẳng định,dưới tác động của cách mạng
khoa học –công nghệ và toàn cầu hoá,kinh tế tri th ức đang hình thành ở
nhiều nước phát triển và sẽ trở thành một xu thế quốc tế lớn trong một,
hai thập niên tới.
Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế lấy sản xuất và kinh doanh tri th ức làm
nội dung chủ yếu.Tương lai của bất cứ doanh nghiệp nào cũng không ch ỉ
phụ thuộc vào việc sử dụng tiền bạc, nguyên vật liệu, nguồn nhân lực và

máy móc thiết bị…mà còn phụ thuộc vào việc xử lý và sử dụng nh ững
thông tin nội bộ và thông tin từ môi trường kinh doanh.Cách t ốt nh ất đ ể
tăng năng suất là tìm hiểu kiến thức chuyên môn mà hãng có đ ược, sử
dụng vì mục đích thương mại và những kiến thức này cần được phát tri ển
không ngừng.
2.Vai trò tri thức đối với chính trị:
Tri thức đem lại cho con người những sự hiểu biết, kiến th ức. Người có tri
thức là có khả năng tư duy lý luận, khả năng phân tích tiếp cận vấn đề
một cách sát thực, đúng đắn.Điều này rất quan trọng, một đất nước rất
cần những con người như vây để điều hành công việc chính tr ị. Nó quyết
định đến vận mệnh của một quốc gia. Đại hội VI của Đảng đã đánh dấu
một sự chuyển hướng mạnh mẽ trong nhận thức về nguồn lực con ng ười.
Đại hội nhấn mạnh: “Phát huy yếu tố con người và lấy việc ph ục v ụ con
người làm mục đích cao nhất của mọi hoạt động” chiến lược phát triển
con người đang là chiến lược cấp bách. Chúng ta cần có những giải pháp
trong việc đào tạo cán bộ và hệ thống tổ chức :
Tuyển chọn những người học rộng tài cao, đức độ trung thành với mục
tiêu xã hội chủ nghĩa, thuộc các lĩnh vực, tập trung đào tạo, bồi dưỡng cho
họ những tri thức còn thiếu và yếu để bố trí vào các cơ quan tham m ưu
hoạch định đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của nhà n ước v ới
những qui định cụ thể về chế độ trách nhiệm quyền hạn và lợi ích.
Sắp xếp các cơ quan nghiên cứu khoa học - công nghệ và giáo dục - đào
tạo thành một hệ thống có mối liên hệ gắn kết với nhau theo liên ngành,


tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho hợp tác nghiên cứu và ứng dụng k ết quả
nghiên cứu vào thực tiễn.
Hợp nhất các viện nghiên cứu chuyên ngành vào tr ường đ ại h ọc và g ắn
kết trường đại học và các công ty, xí nghiệp. Các cơ quan nghiên c ứu và đào
tao được nhận đề tài, chỉ tiêu đào tạo theo chương trình, kế hoạch và kinh

phí dựa trên luận chứng khả thi được trách nhiệm của người đ ứng đ ầu c ơ
quan.
Phát triển khoa học – công nghệ, cách tuy ển chon và giao ch ương trình đ ề
tài, giới thiệu những nhà khoa học tài năng để viết giáo khoa, giáo trình,
làm chủ nhiệm chương trình, đề tài và tham gia các hội đồng xét duy ệt,
thẩm định nghiệm thu các chương trình, đề tài khoa học cấp Nhà n ước.
Liên hiệp các hội khoa học Việt Nam cần th ường xuyên và phát huy trí tu ệ
của các nhà khoa học, dân chủ thảo luận để đưa ra được nh ững ý kiến t ư
vấn, những khuyến nghị xác thực có giá trị với Đảng, Nhà n ước và đ ộng
viên tập hợp lực lượng các hội viên tiến quân m ạnh mẽ vào các lĩnh v ực
khoa học và công nghệ mà đất nước đang mong ch ờ để sớm thoát kh ỏi
tình trạng nghèo và kém phát triển.
2.Vai trò tri thức đối với văn hoá-giáo dục:
Tri thức cũng có vai trò rất lớn đến văn hoá -giáo dục của m ột quốc gia. Nó
giúp con người có được khả năng tiếp cận, lĩnh hội nh ững kiến th ức, ý
thức của con người được nâng cao. Và do đó nền văn hoá ngày càng lành
mạnh. Có những hiểu biết về tầm quan trọng của giáo dục. T ừ đó xây
dựng đất nước ngày càng lớn mạnh, phồn vinh.
CHƯƠNG II THỰC TRẠNG VIỆT NAM
1. Những cơ hội và thách thức đối với Việt Nam:
Cơ hội đối với Việt nam


Việt nam đang đứng trước cơ hội tiếp cận nền kinh tế tri th ức, nếu bỏ l ỡ
không biết tận dụng cơ hội, đổi mới cách nghĩ cách làm, bắt k ịp tri th ức
mới của thời đại, đi tắt vào những ngành kinh tế dựa vào công ngh ệ cao,
dựa vào tri thức thì sẽ tụt hậu. Đại hội VIII đã khẳng định ph ải: "đi t ắt đón
đầu" nếu không làm được thế thì sự tụt hậu là rất dễ xảy ra. Có ý kiến cho
rằng nền kinh tế nước ta phải phát triển theo mô hình hai tốc đ ộ: V ừa
phải lo phát triển nông nghiệp, nâng cao năng lực sản xuất những ngành

công nghiệp cơ bản, lo giải quyết những nhu cầu cơ bản và bức xúc của
người dân. Vừa phải lo phát triển nhanh những ngành kinh tế d ựa vào tri
thức và công nghệ cao, nhất là công nghệ thông tin để hiện đ ại hoá và
nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, tạo ngành nghề m ới, việc
làm mới, đạt tốc độ cao, hội nhập có hiệu quả với nền kinh tế th ế gi ới.
Chúng ta không thể và không nên bắt chước, dập khuôn theo mô hình công
nghiệp hoá của các nước khác. Và cũng không nên hiểu công nghiệp hoá là
xây dựng công nghiệp mà phải hiểu đó là sự chuyển nền kinh tế t ừ tình
trạng lạc hậu, năng suất chất lượng thấp kém, phương pháp sản xuất
nông nghiệp, lao động thủ công là chính sang nền kinh tế có năng su ất
chất lượng hiệu quả cao, phương pháp sản xuất công nghiệp d ựa vào tiến
bộ khoa học và công nghệ mới nhất. Vì vậy công nghiệp hoá ph ải đi đôi
với cơ giới hoá. Trong những thập niên tới con người đi nhanh vào n ền
kinh tế tri thức, nước ta không thể bỏ lỡ cơ hội lớn đó mà phải đi th ẳng
vào nền kinh tế tri thức, rút ngắn khoảng cách với các nước, nh ư v ậy n ền
công nghiệp nước ta phải đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ: Chuy ển n ền
kinh tế từ kinh tế nông nghiệp sang công nghiệp và t ừ công nghiệp sang
tri thức. Cũng có nghĩa là chúng ta phải nắm bắt kịp th ời các tri th ức và
công nghệ mới nhất để hiện đại hoá nông nghiệp, đồng th ời phát tri ển các
ngành công nghiệp và dịch vụ dựa vào tri thức và công nghệ mới nhất. Về
công nghệ thông tin thì Việt nam, công nghệ thông tin cũng là một trong
các động lực chủ yếu, quan trọng nhất thúc đẩy nền kinh tế tri th ức và xã
hội thông tin. Công nghệ thông tin phát triển không nh ững góp ph ần gi ải
phóng năng lực vật chất, trí tuệ của cả dân tộc mà còn có trình độ tr ực
tiếp đến việc nâng cao tính cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp. Đầu t ư
nước ngoài là một trong những con đường dẫn tới toàn cầu hoá, toàn cầu
hoá lại tạo ra các cơ hội giúp các nước tận dụng được vốn đầu t ư n ước
ngoài để giải quyết tình trạng thiếu vốn từ nội bộ nền kinh tế.
Thách thức đối với
Việt Nam:



Bên cạnh những thuận lợi kể trên nền kinh tế việt nam còn nhi ều thách
thức trong đó đặc biệt là năm thách thức sau đây:
Thứ nhất
Tiềm lực vật chất của việt nam còn yếu, nguồn nhân l ực dồi dào nh ưng
nói chung là có kỹ năng không cao, điều này khiến cho hệ thống phân công
lao động quốc tế gặp nhiều bất cập. khó khăn này th ể hiện ở chỗ năng l ực
tiếp cận khoa học công nghệ chủ yếu, khó phát huy lợi th ế của n ước đi
sau trong việc tiếp cận các nguồn lực sẵn có từ bên ngoài đ ể nâng cao c ơ
sở hạ tầng kỹ thuật dẫn đến nguy cơ việt nam có th ể tr ở thành “bãi rác”
của các công nghệ lạc hậu. với quy mô vốn nhỏ như các doanh nghiệp vừa
và nhỏ (dnvvn) thì khả năng nhập các công nghệ lạc hậu càng lớn.
Thứ hai
Sự cạnh tranh, đặc biệt là cả các sản phẩm công nghiệp còn quá th ấp do
đó việt nam gặp nhiều khó khăn trong việc củng cố và phát tri ển các th ị
trường mới trong điều kiện nhiều nước đang phát triển cùng chọ chiến
lược tăng cường hướng về xuất khẩu nên việt nam sẽ bị áp l ực cạnh tranh
ngay tại thị trường nội địa; việc mở rộng thị trường n ội địa theo afta, wto
có thể biến việt nam thành thị trường tiêu thụ sản phẩm n ước ngoài. hàng
hoá nước ngoài chất lượng cao lại được cắt giảm thuế, điều này khiến cho
hàng hoá của các dnvvn bị cạnh tranh gay gắt.
Thứ ba
Do tri thức và trình độ kinh doanh của các goanh nghiệp còn th ấp, c ộng
với hệ thống tài chính và ngân hàng còn yếu kém nên dễ n ị tổn th ương và
bị thao túng nếu tự do hoá thị trường vốn sớm; từ kinh nghiệm của các
nước ngoài và quốc tế ngày càng tăng.
Thứ tư
Hệ thống thông tin viến thông toàn cầu hoá với tư cách là một th ứ quy ền
lực siêu hàng đang phát triển nhanh có thể gây ra tác động tiêu c ức tr ực

tiếp đến an ninh kinh tế, văn hoá, xã hội theo h ướng gây r ối lo ạn và làm
lợi cho các thế lực bên ngoài. vấn đề là kiểm soát việc tự do hoá thông tin,
truyền thông như thế nào để không từ bỏ lợi ích tận dụng khai thác nó mà
vẫn hạn chế tối đa nguy cơ gây thiệt hại sảy ra.
Thứ năm


Trong quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ yếu là với các quốc gia có tiềm l ực
mạnh có thể chứa đựng những yếu tố tiêu cực như muốn kìm hãm th ậm
chí gây sức ép buộc việt nam phải thay đổi định h ướng, mục đích phát
triển.
2.Quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế tri thức:
Sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa được Đại hội VIII của Đảng khẳng
định với tính chất là chiến lược thì vấn đề phát triển nguồn nhân l ực càng
được chú trọng. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp phát tri ển
mang tính cách mạng sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực của đ ời s ống xã h ội,
nó không phải do bất kỳ lực lượng siêu nhiên nào mang lại mà là s ự
nghiệp của quảng đại quần chúng với tư cách là nguồn l ực quy ết đ ịnh.
Nguồn lực cơ bản, to lớn, quyết định này phải có hàm l ượng trí tu ệ, ph ẩm
chất ngày một cao mới có thể đáp ứng được sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa to lớn này. Đại hội VIII của Đảng khẳng đ ịnh: “Nâng cao dân
trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là
nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa, hi ện đ ại hóa.
Nhân lực lại càng là yếu tố số một, là nguồn cội, động lực chính t ạo
nên lực lượng sản xuất - nhân tố quyết định tốc độ và sự phát triển
bền vững của phương thức sản xuất mới ở nước ta trong điều kiện
hội nhập quốc tế. Vì thế, muốn đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa một cách bền vững không thể không chăm lo phát
triển con người. Đảng ta xác định rất rõ rằng, con người v ừa là mục

tiêu, vừa là động lực của sự phát triển.
Phát triển trí tuệ của người Việt Nam được thể hiện qua các chiến
lược phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, nh ằm
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Giáo d ục đào
tạo được xác định là “quốc sách” hàng đầu với nhiều hình th ức đa
dạng để mọi người được học, nhất là người nghèo, con em diện
chính sách. Ngành giáo dục đào tạo, nơi trực tiếp đào tạo nguồn
nhân lực từng bước khắc phục những yếu kém để chất l ượng nguồn
nhân lực ngày một nâng lên. Cùng với đổi mới về nội dung giáo dục
theo hướng cơ bản, hiện đại, ngành giáo dục và đào tạo đã tăng
cường giáo dục công dân, giáo dục thế giới quan khoa h ọc, lòng yêu
nước, ý chí vươn lên của người học. Bên cạnh đó vi ệc chăm lo cho


con người về thể chất cũng được quan tâm và xác định là trách
nhiệm của toàn xã hội, đồng thời chỉ đạo các ngành y tế, th ể d ục,
thể thao, dân số và kế hoạch hóa gia đình làm tốt nhiệm vụ chăm
sóc sức khỏe nhân dân.
Từ sau Đại hội VIII, thực hiện chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết về nhiều lĩnh v ực
liên quan trực tiếp đến việc chăm sóc, bồi dưỡng và phát huy nhân
tố con người. Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII (12-1996) về định
hướng chiến lược phát triển giáo dục, đào tạo trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000 đã th ể hiện rõ
quan điểm của Đảng về phát triển nguồn nhân lực. Nghị quyết nêu:
“Lấy việc phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho s ự phát
triển nhanh và bền vững. Mục tiêu và nhiệm vụ của giáo dục là xây
dựng những thế hệ con người thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nghị quyết xác định: Giáo dục, đào tạo là
quốc sách hàng đầu; Giáo dục, đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng,

của Nhà nước và của toàn dân; Phát triển giáo dục, đào tạo g ắn v ới
nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, những tiến bộ khoa h ọ - công
nghệ và củng cố quốc phòng, an ninh; Thực hiện công bằng xã h ội
trong giáo dục và đào tạo; Giữ vai trò nòng cốt của nhà trường công
lập đi đôi với đa dạng hóa các loại hình giáo dục, đào t ạo, trên c ơ s ở
Nhà nước thống nhất quản lý. Phát triển nguồn lực con người một
cách toàn diện về cả trí tuệ, sức khỏe, đạo đức, thái độ…; Phát tri ển
nguồn nhân lực phải là sự quan tâm và trách nhiệm của Đảng, Nhà
nước và toàn xã hội bằng nhiều biện pháp, trong đó giáo dục và đào
tạo là then chốt; Mọi kế hoạch xây dựng, phát triển kinh tế - xã h ội
phải được đặt trong mối quan hệ không thể tách rời với kế hoạch
đầu tư cho chính sự phát triển về nhân cách, trí tuệ, tình cảm, niềm
vui và hạnh phúc của mỗi người, mỗi gia đình và cả cộng đồng Việt
Nam, cho xây dựng và phát triển nguồn nhân lực nhiều về số l ượng,
mạnh về chất lượng.
Những quan điểm, chủ trương của Đảng về phát triển nguồn nhân
lực thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong Nghị quy ết Trung
ương 2 khóa VIII đã nhanh chóng được cụ thể hóa bằng các c ơ chế,
chính sách, chương trình, dự án, kế hoạch hằng năm và kế hoạch 5


năm nhằm thực hiện các mục tiêu nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực.
Đại hội IX (2001) của Đảng nêu rõ nhận thức “đáp ứng yêu cầu về
con người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển đ ất
nước thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, đồng thời khẳng đ ịnh
phương hướng: “Tiếp tục đổi mới, tạo chuy ển biến cơ bản, toàn
diện về phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ; nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực với cơ cấu hợp lý; triển khai th ực
hiện chương trình phổ cập trung học cơ sở; ứng dụng nhanh các

công nghệ tiên tiến, hiện đại; từng bước phát triển kinh tế tri th ức”.
Phương hướng này đã được cụ thể hóa bằng một hệ thống giải pháp
khả thi đi vào công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.
Chăm lo phát triển nguồn lực con người là một định h ướng lớn trong
chiến lược phát triển đất nước thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đ ại
hóa. Đại hội X thể hiện rõ quyết tâm phấn đấu để giáo dục và đào
tạo cùng với khoa học và công nghệ thực sự là quốc sách hàng đ ầu.
Tập trung đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, chấn hưng giáo
dục Việt Nam để phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao. Các
giải pháp thực thi được tập trung hơn khá cụ thể: Quản lý quá trình
phát triển dân số và nguồn nhân lực trong mối quan hệ với phát
triển kinh tế - xã hội; đổi mới phương th ức đào tạo, phát triển
nguồn nhân lực; phát triển nguồn nhân lực gắn với tạo việc làm, t ạo
việc làm tại chỗ thông qua phát triển sản xuất, tập trung vào các
sản phẩm có giá trị kinh tế cao, xuất khẩu...
Đại hội XI (2011) kế thừa và phát triển quan điểm phát triển nguồn
nhân lực từ các đại hội trước, đã nêu rõ mục tiêu tổng quát là: “đến
năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo h ướng
hiện đại”. Để đạt được mục tiêu đó Đảng đã xác định ba khâu đột
phá chiến lược, trong đó “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là
nguồn nhân lực chất lượng cao” được khẳng định là khâu đ ột phá
thứ hai. Đây được xem là khâu đột phá đúng và trúng với hoàn cảnh
nguồn nhân lực nước ta hiện nay khi hội nhập quốc tế, cạnh tranh
quyết liệt và đòi hỏi của thời đại khoa học, công nghệ. Khâu đột phá


trúng và đúng này đã và đang tập trung nâng cao sức mạnh nội sinh nguồn nhân lực, để tồn tại và phát triển trong một thế giới năng
động, thế giới của khoa học và công nghệ. Vì thế, Đại hội XI của
Đảng đồng thời cũng xác định rõ phải “gắn kết chặt chẽ giữa phát

triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công
nghệ”. Đây chính là nội dung quan trọng thể hiện tính th ực tế c ủa
chiến lược phát triển nhanh và bền vững của nước ta trong điều
kiện hiện nay. Để thực hiện chiến lược này, Đại hội XI cũng nêu rõ
những giải pháp trực tiếp cho chiến lược phát triển nguồn nhân lực,
đó là: “xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Vi ệt
Nam”; “đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân theo
hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân ch ủ và h ội nhập
quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát tri ển đội
ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then ch ốt”; “Xây d ựng và th ực
hiện chiến lược quốc gia về nâng cao sức khỏe, tầm vóc con người
Việt Nam”.
Có thể thấy rõ những định hướng chiến lược của Đảng về phát tri ển
nguồn nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa:
Trước hết, gắn phát triển nguồn nhân lực với việc đẩy nhanh tốc độ
phát triển kinh tế - xã hội.
Chúng ta nhận thức rõ rằng, để có được những con người phát tri ển
toàn diện, đủ khả năng đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì việc đẩy nhanh
tốc độ phát triển kinh tế - xã hội để ngày càng nâng cao đ ời s ống v ật
chất và tinh thần cho người lao động phải được coi là nhiệm vụ c ấp
bách và mang tính quyết định. Vì thế, để có nguồn nhân l ực có ch ất
lượng Đảng và Nhà nước ta đã và đang quan tâm đồng bộ t ới nh ững
vấn đề sau:
- Chăm lo đời sống vật chất đi đôi với đời sống tinh thần của người
lao động. “Đối với con người hưởng thụ không thể tách rời v ới cống
hiến, phần cống hiến phải nhiều hơn phần hưởng thụ, bên cạnh
nhu cầu vật chất còn có nhu cầu tinh thần”. Nâng cao đời sống v ật
chất cho người lao động trước hết thông qua đường lối, chính sách
phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước. Điều này đ ược th ể



hiện rõ trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong th ời kỳ quá đ ộ lên
chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh 1991): “Chính sách xây d ựng đúng đắn
vì hạnh phúc con người là động lực to lớn phát huy m ọi ti ềm năng
sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”.
- Giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với công bằng
xã hôi. Tình trạng phân hóa giàu nghèo nhanh chóng cùng v ới vi ệc
phát triển kinh tế thị trường những năm đổi mới đã tạo ra những hệ
lụy về mặt xã hội sâu sắc. Giải quyết tình trạng này phải giữ v ững
nguyên tắc vừa bảo đảm kích thích sản xuất phát triển v ừa có chính
sách xã hội để tạo nên sự công bằng trong xã hội ở thời kỳ phát tri ển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh thị trường định hướng xã h ội
chủ nghĩa. Phát triển kinh tế thị trường với đặc trưng là cạnh tranh
sẽ tạo được động lực to lớn thúc đẩy sự vươn lên của nguồn nhân
lực. Không vươn lên sẽ không có khả năng cạnh tranh, sẽ bị chính đòi
hỏi của nền kinh tế đào thải. Định hướng xã hội chủ nghĩa là th ể
hiện tính nhân văn đối với nguồn nhân lực. Đây là quá trình đào t ạo
nên những con người Việt Nam mới thời kỳ hội nhập để phát tri ển.
- Phải giữ vững tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế trong hội nh ập
quốc tế. Điều này giúp người lao động nước ta m ột mặt phát huy
được tính tự tôn dân tộc, quyết tâm phấn đấu cho nền kinh tế n ước
nhà phát triển sánh vai với các cường quốc năm châu, mặt khác cũng
tạo cơ hội để người lao động Việt Nam có thể tiếp thu công nghệ
tiên tiến của thế giới, bồi bổ nguồn nhân lực trong nước, đáp ứng
yêu cầu phát triển nhanh, bền vững của đất nước.
- Tạo thêm việc làm là trực tiếp phát triển nguồn nhân lực. Vấn đ ề
hết sức áp lực này phải được giải quyết theo “Phương h ướng quan
trọng nhất là Nhà nước cùng toàn dân ra sức đầu tư phát triển, th ực

hiện tốt kế hoạch và các chương trình kinh tế - xã h ội. Khuy ến khích
mọi thành phần kinh tế, mọi người dân, mọi nhà đầu tư m ở mang
ngành nghề, tạo việc làm cho người lao động… Giảm đáng kể tỷ lệ
thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn”.


- Tăng cường công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe, nâng cao thể
chất cho người lao động và mọi người dân, đẩy mạnh kế hoạch dân
số - kế hoạch hóa gia đình là bảo đảm thể chất và tính ổn định c ủa
nguồn nhân lực. Vấn đề này được Đảng xác định: “Sự nghiệp chăm
sóc sức khỏe là trách nhiệm của cộng đồng và mỗi người dân, là
trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, các đoàn th ể nhân
dân và các tổ chức xã hội, trong đó ngành y tế gi ữ vai trò nòng cốt,
đồng thời đã có chương trình về kế hoạch hóa gia đình, ổn định tỷ lệ
tăng dân số.
- Ngăn chặn, đẩy lùi tệ nạn xã hội vừa trực tiếp bảo đảm th ể chất
cho nguồn nhân lực của đất nước, vừa hướng tới mục tiêu phát tri ển
con người Việt Nam.
Thứ hai, gắn việc phát triển nguồn nhân lực với quá trình dân ch ủ
hóa, nhân văn hóa đời sống xã hội, khai thác có hi ệu qu ả các giá tr ị
văn hóa truyền thống và hiện đại. Đó là quan điểm tạo môi tr ường
lành mạnh cho các giá trị sống của nguồn nhân lực phát triển. Để có
được môi trường đó, trước hết phải coi trọng giáo dục đạo lý làm
người, ý thức, trách nhiệm công dân, tinh thần yêu n ước, yêu chủ
nghĩa xã hội, đạo đức, lối sống văn hóa, lịch sử dân tộc và bản s ắc
dân tộc, ý chí vươn lên vì tương lai của mỗi người và tiền đồ c ủa đ ất
nước.
Thứ ba, nâng cao chất lượng sử dụng đội ngũ cán bộ khoa h ọc, công
nghệ. Đảng ta đã chỉ rõ: “Đổi mới chính sách đào tạo, sử dụng và đãi
ngộ trí thức, trọng dụng và tôn vinh nhân tài, kể cả người Vi ệt nam ở

nước ngoài”. Giải quyết tốt vấn đề này là tạo được y ếu tố n ội sinh
của nguồn nhân lực, cơ sở bền vững cho phát triển và hội nhập.
Thứ tư, để có nguồn nhân lực tốt trước hết phải có chiến l ược phát
triển con người trên cơ sở một hệ thống chính sách đồng bộ hướng
tới con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển.S ự
nghiệp đổi mới càng đi vào chiều sâu, thành tựu thu được ngày càng
to lớn và được khẳng định. Quan điểm về xây dựng nguồn nhân l ực,
nhất là nguồn nhân lực của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế được Đảng thể hiện sâu sắc v ới
quyết tâm chính trị cao và sự đồng thuận rộng lớn của toàn xã h ội.


Đó là những định hướng để nguồn nhân lực của đất n ước phát tri ển
nhanh, lành mạnh, đúng hướng. 3.Thực trạng phát triển nền kinh tế
tri thức trong những năm qua:
Căn cứ vào các chỉ số bình quân từ dữ liệu của 4 trụ cột này, WB đã
đưa ra chỉ số về kinh tế tri thức KEI ( Knowledge Economy Index) nh ằm
đánh giá sự chuẩn bị của một đất nước để chuyển sang nền kinh tế tri
thức. Tổng cộng có 81 tiêu chí được đưa ra so sánh t ương quan 132 qu ốc
gia, với điểm số kém nhất là 0 điểm đến điểm số cao nh ất là 10 đi ểm.
Theo chỉ số KEI, chỉ số kinh tế tri thức năm 2008 của Việt Nam chỉ đạt
3,02, xếp 102/133 nước, trong khi các nước có thu nh ập trung bình ch ỉ s ố
này là 4,1. Thêm vào đó, năng suất lao động của nước ta r ất th ấp, ch ỉ b ằng
38% Trung Quốc và 27% Thái Lan.

So với năm 1995, thứ hạng của VN tăng 14 bậc. Song so v ới các n ước
tương đương trong vùng, kinh tế tri thức của VN th ấp nhất (Indonesia
hạng 103, Philippines hạng 89, Thái Lan 63, Malaysia 48 và Singapore h ạng
19). Việt Nam thậm chí còn ở thứ hạng thấp hơn cả bán đảo Fiji (h ạng
86). Đây là bảng xếp hạng trong tình hình Philippines đã gi ảm 16 b ậc,

Indonesia giảm 2 và Thái Lan giảm 9 bậc.

Về phát minh sáng chế, cho dù đã được cải thi ện nh ưng VN v ẫn có r ất ít
các phát minh sách chế. Theo ý kiến của nhiều nhà khoa h ọc, năm 1973, 3
nước là Thái Lan, Singapore, VN có điểm xuất phát g ần nh ư nhau, nh ưng
đến năm 2000, số công trình được đăng trên các tạp chí khoa h ọc qu ốc t ế
của VN chỉ bằng của Thái Lan và Singapore vào th ời điểm năm 1980. Còn
hiện nay, Thái Lan nhiều hơn VN đến 5 lần, Singapore nhiều h ơn 12,5 l ần
trong khi số lượng các nhà khoa học ít hơn. Nếu để ý r ằng VN có m ột đ ội
ngũ hùng hậu với gần 2 triệu người làm khoa học công nghệ, hàng vạn
thạc sĩ, tiến sĩ, gần 2000 giáo sư, gần 6000 phó giáo s ư và hàng tri ệu c ử
nhân, kỹ sư thì mới thấy lĩnh vực phát minh sáng chế c ủa VN còn thua xa
ngay cả so với các nước trong khu vực Asean.

Nếu nhìn vào tình hình xuất khẩu hàng hóa kỹ thuật cao (hi-tech) - một ch ỉ


số quan trọng của nền kinh tế tri thức - thì thấy năm 2008, VN xu ất kh ẩu
đạt 48,6 tỉ USD. Con số này có vẻ ấn tượng nhưng vẫn ch ưa bằng 1/3 của
Thái Lan (153,6 tỉ USD) và chỉ bằng 16% của Singapore (399,3 t ỉ USD).
Thực tế là xuất khẩu hàng hi-tech của VN thấp nh ất so v ới các n ước trong
khu vực. Hơn 20% tổng trị giá xuất khẩu của VN là khoáng s ản và có t ới
41% là hàng công nghiệp mà chủ yếu là gia công, dệt may. Trong khi đó,
ngành xuất khẩu chủ đạo của Thái Lan là máy móc và thiết bị (chiếm 45%
tổng giá trị xuất khẩu) và hàng công nghiệp (24%). Singapore cũng t ương
tự Thái Lan.

Một trong những chỉ số tăng mạnh nhất của VN trong 4 tr ụ cột của n ền
kinh tế tri thức là công nghệ thông tin (CNTT) và truy ền thông, đ ạt 3,49
điểm ( so sánh với điểm bình quân của thế giới là 6,0 điểm, Malaysia 7,3

điểm, Singapore là 9,19 điểm). Tuy nhiên, vấn đề là l ực l ượng lao đ ộng
CNTT của VN còn ít, chưa có kinh nghiệm. Trong 40 triệu công nhân VN,
chỉ có 20.000 lao động trong lĩnh vực CNTT, trong khi chỉ có 3.500-4000
sinh viên tốt nghiệp với các bằng cấp CNTT hàng năm. Ngoài ra, khu v ực
CNTT và truyền thông Việt Nam (ICT) tiếp tục phát triển chậm nh ất khu
vực, chỉ số ICT của VN chỉ đạt 3,49 điểm so với 7,04 đi ểm c ủa Châu Á- Thái
Bình Dương.

Theo đánh giá của các tổ chức quốc tế, mặc dù tốc độ phát triển c ủa CNTT
và truyền thông của VN từ năm 2000 đến nay đều tăng ở mức 2 con số
nhưng do điểm xuất phát thấp nên vị trí của VN trên bản đồ kinh t ế tri
thức thế giới vẫn còn ở mức trung bình thấp, thậm chí có ch ỉ tiêu nh ư s ự
sẵn sàng cho nền kinh tế điện tử còn xếp gần cuối bảng trong s ố nhi ều
nước xếp hạng.

CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI TH ỨC TRONG TH ỜI
KỲ ĐẨY MẠNH CNH – HĐH ĐẤT NƯỚC VIỆT NAM HI ỆN NAY
Từ thực tiễn trên cho thấy, để đẩy mạnh CNH,HĐH gắn với phát triển
KTTT, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, n ước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn ninh”, cần thực hiện tốt một số giải pháp c ơ bản sau:


1.

Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; bảo đ ảm
ổn định kinh tế vĩ mô; huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn
lực.

Để thực hiện tốt vấn đề đó, cần tiếp tục đổi mới việc xây d ựng và th ực
thi luật pháp bảo đảm cạnh tranh bình đẳng, minh bạch gi ữa các doanh

nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế; đổi mới công tác quy hoạch, k ế
hoạch và điều hành phát triển kinh tế theo cơ chế thị tr ường; đồng th ời,
thực hiện tốt chính sách xã hội. Cùng với đó, cần có hệ th ống c ơ ch ế và
chính sách phù hợp, đặc biệt là cơ chế, chính sách tài chính, tiền t ệ nh ằm
nâng cao chất lượng tăng trưởng, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành
mạnh của nền kinh tế; bảo đảm quyền tự do kinh doanh và bình đẳng
giữa các thành phần kinh tế; tạo lập đồng bộ và vận hành thông su ốt các
loại thị trường.
Phát triển mạnh công nghiệp và xây dựng theo hướng hiện đại, nâng
cao chất lượng và sức cạnh tranh.
Trong quá trình đó, phải đặc biệt coi trọng việc phát triển KTTT, bảo
đảm tăng hàm lượng khoa học công nghệ và tỷ trọng giá trị nội địa trong
sản phẩm; phát triển có chọn lọc công nghiệp chế biến, chế tác, công
nghiệp công nghệ cao, công nghiệp năng lượng, khai khoáng, luy ện kim,
hoá chất, công nghiệp quốc phòng. Cùng với đó, cần ưu tiên phát tri ển
các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, sản phẩm có khả năng tham gia
mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu; phát triển mạnh công nghiệp hỗ
trợ; từng bước phát triển công nghiệp sinh học và công nghiệp môi
trường. Đồng thời, cần chú ý phát huy hiệu quả các khu, cụm công nghi ệp
(Khu công nghệ cao Hoà Lạc - Hà Nội, Khu công nghệ phần mềm Quang
Trung - thành phố Hồ Chí Minh...) và đẩy mạnh phát triển công nghiệp
theo hình thức cụm, nhóm sản phẩm tạo thành các tổ h ợp công nghi ệp
quy mô lớn và hiệu quả cao.
3. Phát triển mạnh các ngành dịch vụ, nhất là các dịch v ụ có giá tr ị cao,
tiềm năng lớn và có sức cạnh tranh.
Phát triển khu vực dịch vụ đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn các khu v ực
sản xuất và cao hơn tốc độ tăng GDP là một hướng quan trọng trong
chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cần tập trung phát triển một số ngành d ịch
vụ có lợi thế, có hàm lượng tri thức và công nghệ cao, nh ư: du l ịch, hàng
hải, hàng không, viễn thông, công nghệ thông tin, y tế...; hình thành m ột

số trung tâm dịch vụ, du lịch có tầm cỡ khu vực và quốc tế. Hiện đại hóa
2.


và mở rộng các dịch vụ có giá trị gia tăng cao, nh ư: tài chính, ngân hàng,
bảo hiểm, chứng khoán, lô-gi-stíc và các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh khác;
phát triển mạnh dịch vụ KH&CN, giáo dục và đào tạo, văn hóa, thông tin,
thể thao, dịch vụ việc làm và an sinh xã hội.
4. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đổi mới toàn diện và phát
triển nhanh giáo dục và đào tạo.
Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân
lực chất lượng cao, là một đột phá chiến lược, là yếu tố quy ết đ ịnh đẩy
mạnh phát triển và ứng dụng KH&CN, cơ cấu lại nền kinh tế, chuy ển đổi
mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nh ất, bảo đảm
cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Trong quá trình đó, cần đ ặc
biệt coi trọng phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý gi ỏi, đ ội ngũ
chuyên gia, quản trị doanh nghiệp giỏi, lao động lành ngh ề và cán bộ
khoa học, công nghệ đầu đàn. Chú ý đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu
cầu đa dạng, đa tầng của công nghệ và trình độ phát triển của các lĩnh
vực, ngành nghề; thực hiện liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp, c ơ
sở sử dụng lao động, cơ sở đào tạo và Nhà nước để phát triển nguồn
nhân lực theo nhu cầu xã hội. Đồng thời, th ực hiện tốt các ch ương trình,
đề án đào tạo nhân lực chất lượng cao đối với các ngành, lĩnh v ực ch ủ
yếu, mũi nhọn; chú trọng phát hiện, bồi dưỡng, phát huy nhân tài; đào
tạo nhân lực cho phát triển KTTT. Theo đó, Nhà nước phải có cơ chế,
chính sách đồng bộ trong thực hiện Nghị quyết số 27, ngày 06-8-2008
của Hội nghị Trung ương 7, khoá X về xây dựng đội ngũ tri th ức trong
thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước.
5. Tập trung phát triển KH&CN, đảm bảo th ực s ự là đ ộng l ực then ch ốt
của quá trình phát triển nhanh và bền vững.

Theo đó, cần hướng trọng tâm hoạt động KH&CN vào phục vụ CNH,HĐH,
nhất là CNTT, bảo đảm phát triển theo chiều sâu góp ph ần tăng nhanh
năng suất, chất lượng, hiệu quả và nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh
tế; thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ: nâng cao năng lực, đổi mới cơ chế
quản lý, đẩy mạnh ứng dụng KH&CN, tăng cường hội nhập quốc tế về
khoa học, công nghệ.
KẾT LUẬN



×