Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

SKKN một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 4 phân biệt từ đơn, từ ghép, từ láy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.06 KB, 16 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tiếng Việt là môn học có vai trò đặc biệt quan trọng ở
bậc Tiểu học, là phương tiện chủ yếu để học sinh tiếp thu
kiến thức của các môn học khác, là một công cụ hữu hiệu
trong hoạt động và giao tiếp của học sinh, giúp học sinh tự
tin và chủ động hoà nhập các hoạt động học tập trong
trường học, giúp học sinh hình thành và rèn luyện các kỹ
năng cơ bản ở. Do đó, môn Tiếng Việt có một vị trí rất quan
trọng đối với học sinh Tiểu học.
Trong chương trình Tiếng Việt lớp 4 gồm nhiều phân
môn: Tập đọc - Học thuộc lòng, Luyện từ và câu, Chính tả,
Tập viết, Tập làm văn, Kể chuyện. Mỗi phân môn đều có
chức năng khi dạy Tiếng Việt cho học sinh đồng thời cũng
chuẩn bị vốn cho học sinh khi học văn. Phân môn Luyện từ
và câu cung cấp toàn bộ kiến thức về quy tắc cấu tạo từ,
biến đổi từ, kết hợp từ thành cụm từ, câu - đơn vị nhỏ nhất
để thể hiện chức năng giao tiếp. Dạy từ và câu cũng là một
yếu tố quan trọng để phát triển năng lực trí tuệ, những phẩm
chất đạo đức tốt đẹp của người học sinh. Vì vậy ngay từ ngày
đầu đến trường, học sinh đã được làm quen với từ và câu qua
việc học âm, vần, tiếng, từ ở lớp 1, các kiểu câu đơn giản ở
lớp 2, các từ loại cơ bản ở lớp 3, các biện pháp tu từ nghệ
thuật quen thuộc hoặc cấu trúc về câu, cụm từ, nghĩa của từ
v.v… ở lớp 4, 5. Học từ và câu giúp học sinh tiểu học có hiểu
biết về quy tắc cấu tạo từ, nắm quy tắc dùng từ đặt câu và
tạo văn bản để sử dụng trong giao tiếp.
Như chúng ta đã biết, nhiệm vụ dạy Luyện từ và câu ở
tiểu học là giúp cho học sinh nhận diện, phân loại các đơn vị
ngữ pháp, nắm các qui tắc cấu tạo và sử dụng các đơn vị này
trong hoạt động giao tiếp của mình. Đồng thời, dạy từ, câu
còn có nhiệm vụ rèn luyện tư duy giáo dục thẩm mỹ cho học


sinh. Học sinh muốn nắm chắc được ngữ pháp trước hết phải
nắm vững cấu tạo từ (đơn vị nhỏ của câu).
Là một giáo viên được nhà trường phân công dạy lớp 4,
tôi thấy việc giảng dạy cho học sinh nắm rõ khái niệm từ,
biết vận dụng từ vào thực tế bài học, vào cuộc sống giao tiếp
là điều hết sức quan trọng. Để học sinh viết câu đúng, câu có
hình ảnh, cảm xúc phải hiểu rõ từ. Hình ảnh, cảm xúc được


thể hiện rõ ở các từ đơn, từ ghép, từ láy (đặc biệt là từ láy).
Chính vì vậy, tôi đã chọn đề tài: "Một số kinh nghiệm giúp
học sinh lớp 4 phân biệt từ đơn, từ ghép, từ láy."
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I.CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ
Trong chương trình Tiếng Việt lớp 4, phần Luyện từ và
câu, học sinh được học những mạch kiến thức sau:
1. Cấu tạo từ:
- Từ đơn
- Từ phức:
+ Từ ghép: Từ ghép tổng hợp
Từ ghép phân loại
+ Từ láy: Từ láy tiếng
Từ láy âm
Từ láy vần
Từ
láy
cả
âm

vần

2. Các từ loại cơ bản trong câu:
Danh từ, động từ, tính từ, đại từ
3. Các kiểu câu chia theo mục đích nói:
Câu kể, câu hỏi, câu cảm, câu cầu khiến, câu hội
thoại
4. Các bộ phận phụ trong câu
Trạng ngữ, định ngữ, bổ ngữ
Để học học sinh nắm chắc được kiến thức của phân
môn Luyện từ và câu, trước hết các em phải nắm chắc, phân
biệt rõ về từ đơn, từ ghép, từ láy, vì các từ loại trong câu
cũng không nằm ngoài cấu tạo của từ. Trong thực tế giảng
dạy, tôi thấy học sinh sau khi học riêng khái niệm từng bài,
vận dụng giải quyết bài tập thì phần lớn là làm được nhưng
khi được luyện sang bài khác có nội dung kiến thức về cấu
tạo từ xen lẫn nhau (như các bài tập đọc hoặc một số văn
bản khác) thì còn lúng túng, nhầm lẫn giữ từ láy - từ ghép,
một từ ghép thành hai từ đơn hoặc hai từ đơn thành một từ
ghép.
Để hướng dẫn cho học sinh nắm chắc và phân biệt được
từ đơn, từ ghép, từ láy, trước tiên người giáo viên phải hiểu
rõ khái niệm về từ đơn, từ ghép, từ


láy và giúp học sinh hiểu rõ từng khái niệm một cách dễ hiểu
nhất:
*Từ đơn: Có nhiều khái niệm về từ đơn
- Giáo trình đào tạo giáo viên tiểu học ở trường sư phạm
thì giới thuyết: Từ đơn là những từ do một hình vị tạo nên. Đa
số từ đơn Tiếng Việt là từ đơn âm (Ví dụ: sông, núi, đi, chạy,
xấu, đẹp, …). Từ đơn đa âm có thể là từ thuần Việt (Ví dụ: bồ

kết, tắc kè, ễnh ương, …), cũng có thể là từ vay mượn (Ví dụ:
mì chính, cà phê, xà hòng, …
- Sách Hướng dẫn học Tiếng Việt lớp 4 (Dự án mô hình
VNEN) định nghĩa: “Từ chỉ gồm một tiếng gọi là từ đơn, từ
nào cũng có nghĩa”. Như vậy từ đơn theo quan niệm trên là
từ chỉ gồm một tiếng. Từ nhiều tiếng không thuộc phạm vi từ
đơn.
* Từ ghép:
- Từ ghép là những từ do hai hoặc hơn hai tiếng có
nghĩa ghép lại tạo thành. (Ví dụ: quần áo, hoa hồng, phong
cảnh, …)
Như vậy, quan hệ quan hệ giữa các tiếng trong từ ghép
là quan hệ về nghĩa.
- Sách Hướng dẫn học Tiếng Việt lớp 4 (Dự án mô hình
VNEN): “Từ ghép là từ ghép các tiếng có nghĩa lại với nhau”
Định nghĩa đã nêu được những dấu hiệu dễ nhận biết nhất
của từ ghép, giúp học sinh dễ lĩnh hội nội dung khái niệm và
dễ vận dụng vào việc nhận biết, nhận diện các từ ghép trong
văn bản. Tuy nhiên định nghĩa trên cũng ứng với những từ
đơn đa âm trong tiếng Việt.
* Từ láy:
- Từ láy là từ do hai hoặc hơn hai tiếng có quan hệ với
nhau về âm thanh tạo thành. Trong từ láy, thường có một
tiếng có nghĩa và một tiếng láy lại. Trong từ láy có thể xác
định được tiếng gốc và tiếng láy lại.
- Sách Hướng dẫn học Tiếng Việt lớp 4 (Dự án mô hình
VNEN) nêu khái niệm về từ láy như sau: Từ láy là từ phối hợp
những tiếng có âm đầu hay vần (hoặc cả âm đầu và vần)
giống nhau. Khái niệm này chưa nói rõ cơ chế tạo từ. Chính
vì thế các từ ghép như: mặt mũi, đi đứng, buôn bán, … cũng

có đặc trưng ấy. Tuy nhiên cũng nhấn mạnh các dấu hiệu


hình thức của từ láy, giúp học sinh Tiểu học dễ dàng nhận
biết được từ láy trong văn bản đơn giản.
Ở Tiểu học, người ta chỉ nêu nội dung của từng khái
niệm về từ đơn, từ ghép, từ láy ở một mức độ nhất định, có
tính chất sơ giản, ban đầu, phù hợp với đối tượng học sinh
tiểu học. Cũng chính vì lí do đó nên học sinh thường nhầm
lẫn khi xác định, từ đơn, từ ghép, từ láy.
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ
Trong hai năm học 2013 - 2014 và 2014 - 2015, tôi
được nhà trường phân công phụ trách lớp 4C, trường Tiểu
học Thị Trấn Thường Xuân. Trong quá trình giảng dạy, có
những thuận lợi và khó khăn như sau:
1. Thuận lợi:
- Đa số nhà học sinh đều ở gần trường, chủ yếu là con
cán bộ công chức, viên chức. Các em cũng thích học môn
Tiếng Việt, đặc biệt là phần cấu tạo từ. Ban gám hiệu nhà
trường quan tâm, tạo mọi điều kiện về cơ sở vật chất để thực
hiện dạy học. Phụ huynh học sinh rất quan tâm đến việc học
tập của con em mình, mua các sách tham khảo cần thiết cho
các em học môn Tiếng Việt.
- Tình hình học tập của học sinh năm học này so với
năm học trước cóa những tiến bộ đáng kể, nhất là khả năng
giao tiếp. Học sinh đã tự tin hơn khi trình bày trước đám
đông, có khả năng cảm thụ cái hay cái đẹp của các tác phẩm
văn học.
2. Khó khăn:
Môn Tiếng Việt là một môn tích hợp nhiều kiến thức

tiếng Việt, mặc dù các em chưa cần hiểu sâu vấn đề nhưng
các em cần phải nắm vững những kiến thức của sách yêu
cầu. Một số nội dung, khi thực hiện thường có sự nhầm lẫn.
Nhất là khi học về từ đơn, từ ghép, từ láy.
Khái niệm “cấu tạo từ” là một khái niệm mới đối với học
sinh lớp 4 vì ở lớp 1, 2, 3 học sinh chỉ học về âm, tiếng, từ.
Khái niệm từ đơn, từ ghép, từ láy là một khái niệm mới đối
với học sinh lớp 4.
Số lượng kiến thức dành cho dạng bài từ đơn, từ ghép,
từ láy là không nhiều. Trong chương trình hiện hành nội dung
được tích hợp nên kiến thức về từ đơn, từ phức được học
trong 2 tiết, thêm 2 tiết tìm hiểu về từ ghép tổng hợp và từ


ghép phân loại. Trong chương trình Dự án trường học mới
Việt Nam, từ đơn, từ ghép, từ láy không dạy riêng từng bài
như trong chương trình hiện hành mà chỉ được dạy ở một số
hoạt động của các bài 3A - Thông cảm và chia sẻ, học sinh
được học về khái niệm về từ đơn, từ phức; Bài 4A - Làm
người chính trực, học sinh được học khái niệm về từ ghép, từ
láy; Bài 4B - Người con hiếu thảo, học sinh nhận biết từ ghép
phân loại và từ ghép tổng hợp; nhận biết được từ láy âm đầu,
láy vần, từ láy cả âm đầu và vần. Chính vì thế, Trong quá
trình giảng dạy phần từ đơn, từ ghép, từ láy tôi thấy học
sinh còn mắc phải những lỗi sau:
- Kĩ năng nhận diện từ, phân cắt các đơn vị từ trong câu
còn nhiều sai lệch như từ ghép lại xác định thành 2 từ đơn.
- Nhầm lẫn từ ghép thành từ láy khi cả hai tiếng có bộ
phận của tiếng giống nhau như các từ: nhân dân, mệt mỏi, đi
đứng, buồn bực, ….

- Chưa nhận dạng được một số từ láy, đặc biệt là các từ
láy khuyết phụ âm đầu như: ầm ĩ, ồn ào, ọc ạch, …
- Học sinh không phân biệt được từ ghép phân loại và từ
ghép tổng hợp từ đó có tiếng gốc là một động từ hay một
tính từ.
Vì vậy mà qua khảo sát chất lượng đầu năm của lớp 4C
gồm 23 em vào thời điểm tháng 9 năm học 2014 - 2015, học
sinh làm bài tập cấu tạo từ và thu được kết quả như sau:
Kết quả
Cấu tạo từ
Từ đơn
Từ láy
Từ ghép

Đạt yêu cầu
Số lượng
Tỉ lệ
16 em
69,6 %
16 em
69,6 %
17 em
73,9 %

Chưa đạt
Số lượng
7 em
7 em
6 em


yêu cầu
Tỉ lệ
30,4 %
30,4 %
26,1 %

Căn cứ vào tình hình thực tế của học sinh, tôi bắt đầu
tìm hiểu nguyên nhân vì sao có nhiều em không làm được
bài tập về cấu tạo từ và đã dành thời gian nghiên cứu để một
số biện pháp áp dụng vào lớp tôi giảng dạy. Sau đây, tôi xin
trình bày một kinh nghiệm để hướng dẫn học sinh không
nhầm lẫn khi xác định cấu tạo từ.


III. GIẢI PHÁP VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Rút kinh nghiệm những năm đầu dạy lớp 4, hai năm học
gần đây, ngay từ khi dạy khái niệm cấu tạo từ, tôi đã khắc
sâu kiến thức cơ bản trong từng bài, từng hoạt động. Cụ thể:
1. Dạy: Từ đơn, từ phức. (Bài 3A - Hướng dẫn học
Tiếng Việt - Dự án VNEN)
* Tôi chọn ngữ liệu là câu ngắn gọn nhưng đủ cả từ đơn,
từ phức để hình thành khái niệm. Tôi trích đoạn giờ dạy như
sau:
Giáo viên
Học sinh


GV nêu câu:
Nhờ bạn giúp đỡ, lại có chí học hành,
nhiều năm liền Hanh là học sinh tiên

tiến.
+ Em dùng dấu gạch xiên (/) để phân từ
câu: Nhờ bạn giúp đỡ, lại có chí học hành,
nhiều năm liền Hanh là học sinh Tiên tiến.
+ Tìm những từ gồm một tiếng và những
từ gồm hai tiếng câu trên.

+ Nhờ /bạn / giúp đỡ / , lại / có / chí /
học hành /, nhiều / năm / liền /
Hanh / là / học sinh /Tiên tiến/.
+ Từ gồm một tiếng: nhờ, bạn, lại,
có, chí, nhiều, …
Từ gồm hai tiếng: giúp đỡ, học
hành, học sinh, Tiên tiến.
+ Từ đơn là từ có một tiếng.

+ Như vậy, từ có một tiếng gọi là từ đơn,
vậy từ đơn là từ như thế nào?
+ Nhận xét gì về nghĩa của từ đơn
+ Những từ có nhiều tiếng như từ “giúp + Tất cả các từ đơn đều có nghĩa.
đỡ”,“học hành”, “học sinh”, “Tiên tiến”
được gọi là từ phức.
+ Vậy từ phức là gì?
+ Từ phức là từ có nhiều tiếng. Từ
nào cũng có ý nghĩa.

* Sau đó, yêu cầu học sinh tự làm nhóm tìm các ví dụ về:
- Từ đơn: mây, mưa, đá, nói, chạy,…
- Từ phức: hoa hồng, hoa mai, bút chì, bút máy, gia đình, ăn
mặc, nhà cửa, cười nói, bàn ghế, bánh kẹo…

* Giáo viên cần khắc sâu:
Để tách câu thành từng từ, ta phải chia câu thành từng
phần có nghĩa sao cho được nhiều phần nhất ( hia cho đến
phần nhỏ nhất). Vì nếu chia câu thành từng phần có nghĩa


nhưng chưa phải là nhỏ nhất thì phần đó có thể là 1 cụm từ
chứ chưa phải là 1 từ.
Dựa vào tính hoàn chỉnh về cấu tạo và về nghĩa của từ,
ta có thể xác định được một tổ hợp nào đó là một từ ( từ
phức) hay hai từ đơn bằng cách xem xét tổ hợp ấy về hai
mặt: Kết cấu và nghĩa.
- Cách 1 : Dùng thao tác chêm, xen: Nếu quan hệ giữa các
tiếng trong tổ hợp mà lỏng lẻo, dễ tách rời, có thể chêm, xen
một tiếng khác từ bên ngoài vào mà nghĩa của tổ hợp về cơ
bản vẫn không thay đổi thì tổ hợp ấy là hai từ đơn.
Ví dụ: tung cánh
Tung đôi cánh
lướt nhanh
Lướt rất nhanh
(Hai tổ hợp trên đã chêm thêm tiếng đôi , rất nhưng nghĩa
các từ này về cơ bản không thay đổi, do đó tung cánh và lướt
nhanh là kết hợp hai từ đơn)
Ngược lại, nếu mối quan hệ giữa các tiếng trong tổ hợp
mà chặt chẽ, khó có thể tách rời và đã tạo thành một khối
vững chắc, mang tính cố định ( không thể chêm , xen ) thì tổ
hợp ấy là một từ phức.
Ví dụ: chuồn chuồn nước
chuồn chuồn sống ở
nước

mặt hồ
mặt của hồ
(Khi ta chêm thêm tiếng sống và của vào, cấu trúc và nghĩa
của hai tổ hợp trên đã bị phá vỡ, do đó chuồn chuồn nước và
mặt hồ là kết hợp một từ phức)
- Cách 2: Xét xem trong kết hợp có yếu tố nào đã chuyển
nghĩa hay mờ nghĩa gốc hay không.
Ví dụ : bánh dày (tên một loại bánh); áo dài (tên một loại
áo) đều là các kết
hợp của một từ đơn vì các yếu tố dày, dài đã mờ nghĩa, chỉ
còn là tên gọi của một loại bánh, một loại áo, chúng kết hợp
chặt chẽ với các tiếng đứng trước nó để tạo thành một từ
- Cách 3: Xét xem tổ hợp ấy có nằm trong thế đối lập không,
nếu có thì đấy là kết hợp của 2 từ đơn.
Ví dụ 1: Có “xoè ra” chứ không có “xoè vào”
Có “rủ xuống” chứ không có “rủ lên”
Kết luận: xoè ra, rủ xuống là từ phức
Ví dụ 2: Ngược với chạy đi là chạy lại
Ngược với bò vào là bò ra


Kết luận: Những từ “chạy đi”, “bò ra” là những kết hợp
của hai đơn.
2. Dạy từ ghép, từ láy (Bài 4A - Bài 3A - Hướng
dẫn học Tiếng Việt - Dự án VNEN)
Tôi tiến hành theo thứ tự sau:
* Dựa vào sự hiểu biết từ phức học ở Bài 3A - Hướng
dẫn học Tiếng Việt - Dự án VNEN), tôi yêu cầu học sinh cho
các ví dụ về từ phức. Sau đó thực hiện Hoạt động 6 - A. Hoạt
động cơ bản.

- Học sinh đọc những câu thơ trong bài nêu sự khác
nhau của những từ in đậm sau: truyện cổ, thầm thì, ông
cha, chầm chậm, cheo leo, lặng im, se sẽ.
- Học sinh thảo luận nhóm rồi hoàn thành vào Phiếu
học tập:
Từ phức do những tiếng
Từ phức do những tiếng
có nghĩa tạo thành
có âm đầu hoặc vần lặp lại
tạo thành
truyện cổ
thầm thì
ông cha
chầm chậm
lặng im
cheo leo
se sẽ

- Từng nhóm nêu kết quả trước lớp. Các nhóm khác
nhận xét, góp ý bài
làm của nhóm bạn.
- Giáo viên chốt kiến thức: Bằng cách hỏi học sinh:
+ Giáo viên: Có mấy cách tạo từ phức ?
+ Học sinh: Có 2 cách tạo từ phức
Cách 1: Ghép các tiếng có nghĩa lại với nhau.
Cách 2: Phối hợp những tiếng có âm đầu hay vần hoặc
cả âm đầu và vần giống nhau.
- Giáo viên:
Ghép các tiếng có nghĩa lại với nhau. Đó là từ ghép.
Phối hợp những tiếng có âm đầu hay vần hoặc cả âm

đầu và vần giống nhau. Đó là từ láy.
- HS đọc kĩ ghi nhớ. Nêu cách hiểu ghi nhớ cho các bạn
nghe.
- Học sinh tự tìm ví dụ về từ ghép, từ láy.


* Giáo viên khắc sâu cho học sinh về sự giống nhau và
khác nhau của từ ghép, từ láy:
- Giống nhau: Số lượng tiếng : từ hai tiếng trở lên.
- Khác nhau:
+ Từ ghép: Các tiếng có quan hệ về nghĩa
+ Từ láy: Các tiếng có quan hệ về âm.
* Khi củng cố bài để học sinh dễ so sánh từ láy, từ ghép
tôi cho sẵn một yếu tố cấu tạo từ (một tiếng), yêu cầu tìm từ
có tiếng gốc đó theo những kiểu cấu tạo khác nhau.
- Ví dụ: Dựa vào tiếng gốc sau đây, hãy tạo ra các từ
ghép, từ láy: mềm, đỏ, xinh
Học sinh sẽ tìm được như sau:
Tiếng gốc
Từ ghép
Từ láy
- mềm dẻo, mềm nhũn, mềm yếu- mềm mại, mênh mông,
- mềm

mênh mang,…
- đỏ gay, đỏ hoe, đỏ hỏn, đỏ loét,
- đỏ
- đỏ đắn, đo đỏ,….
đỏ ngầu, đỏ ối, đỏ ửng,…..
- xinh xắn, xinh xẻo, xinh

- xinh
- xinh đẹp, xinh tươi,….
xinh,…
3. Dạy bài luyện tập về từ đơn, từ ghép, từ láy
(Dạy vào tiết Tiếng Việt bổ sung)
Trước khi cho học sinh làm bài tập thì tôi hướng dẫn học
sinh phân biệt từ láy, từ ghép, nhiều từ đơn như sau:
*Từ đơn:
- Nhiều từ kết hợp với nhau nên tách ra mỗi tiếng vẫn
có nghĩa.
Ví dụ: sách mới, áo đẹp
- Không có cấu tạo chặt chẽ, có thể thêm từ vào được.
Ví dụ: Sách rất mới, áo rất đẹp
* Từ ghép:
- Các tiếng trong từ có cả quan hệ về nghĩa và quan hệ
về âm (âm thanh) thì ta xếp vào nhóm từ ghép.
Ví dụ: thúng mủng, tươi tốt, đi đứng, mặt mũi, phẳng
lặng, mơ mộng, ...
- Các từ chỉ còn một tiếng có nghĩa , còn một tiếng đã
mất nghĩa nhưng hai tiếng không có quan hệ về âm thì ta
xếp vào nhóm từ ghép.
Ví dụ:: Xe cộ, tre pheo, gà qué, chợ búa ,...


* Từ láy:
- Nếu các từ chỉ còn một tiếng có nghĩa, còn một tiếng
đã mất nghĩa nhưng hai tiếng có quan hệ về âm thì ta xếp
vào nhóm từ láy.
Ví dụ : chim chóc, đất đai, tuổi tác , thịt thà, cây cối
,máy móc, ...

- Các từ không xác định được hình vị gốc (tiếng gốc )
nhưng có quan hệ
về âm thì đều xếp vào lớp từ láy.
Ví dụ : nhí nhảnh, bâng khuâng, dí dỏm, chôm chôm,
thằn lằn, ...
- Các từ có một tiếng có nghĩa và một tiếng không có
nghĩa nhưng các tiếng trong từ được biểu hiện trên chữ viết
không có phụ âm đầu thì cũng xếp vào nhóm từ láy (láy
vắng khuyết phụ âm đầu).
Ví dụ : ồn ào, ầm ĩ, ấm áp, im ắng, ao ước ,yếu ớt ,...
- Các từ có một tiếng có nghĩa và một tiếng không có
nghĩa có phụ âm đầu được ghi bằng những con chữ khác
nhau nhưng có cùng cách đọc ( c/k/q ; ng/ngh ;g/gh ) cũng
được xếp vào nhóm từ láy.
Ví dụ : cuống quýt, cũ kĩ, ngốc nghếch, gồ ghề, ...
Sau đây là một số bài tập để học sinh thực hành:
* Bài tập 1: Em hãy đọc đoạn văn trong bài Con
chuồn chuồn nước dưới đây và tìm từ đơn, từ ghép, từ láy:
Bốn cái cánh mỏng như giấy bóng, cái đầu tròn và hai
con mắt long lanh như thuỷ tinh ... Bốn cánh chú khẽ rung
rung như còn đang phân vân.
+ Trước khi phân loại từ theo cấu tạo, học sinh phải
vạch được đúng ranh giới từ. Nếu xác định từ sai thì sẽ phân
loại nhầm một từ ghép thành hai từ đơn hoặc ngược lại hai từ
đơn thành một từ ghép. (Ở dạng bài này học sinh không
nhầm từ láy với từ ghép vì từ láy rất dễ nhận ra).
+ Một số học sinh đã xác định cánh chú là một từ ghép.
Kết quả tách từ là:
Bốn / cái / cánh / mỏng / như / giấy bóng/ , cái đầu /
tròn / và / hai / con mắt / long lanh / như / thuỷ tinh / ... Bốn /

cánh chú / khẽ / rung rung / như / còn / đang / phân vân/ .
+ Một số khác lại cho cho rằng giấy bóng là hai từ đơn,
kết quả là:


Bốn / cái / cánh / mỏng / như / giấy / bóng/ , cái đầu / tròn /
và / hai / con mắt / long lanh / như / thuỷ tinh / ... Bốn /
cánh / chú / khẽ / rung rung / như / còn / đang / phân vân/ .

Tôi đã tiến hành sửa như sau:
Giáo viên
Học sinh
- Tại sao em lại coi cánh chú là từ ghép? - ... vì chỉ đến cánh chú chuồn
chuồn.
- Cánh của ai?
- chú Chuồn chuồn.
- Giữa hai tiếng đó có thêm được tiếng - Có. Ví dụ: cánh của chú.
khác không?
- Vậy từ cánh chú không có cấu tạo chặt
chẽ về nghĩa ta phải tách ra thành hai từ
đơn.
- Vì sao giấy bóng là hai từ đơn?
- Vì có thể thêm được tiếng khác
- Trong văn cảnh cụ thể của đoạn văn vào (giấy rất bóng)
này ta nên coi giấy bónglà một từ ghép
vì giấy bóng chỉ một loại giấy.
* Sau khi xác định rõ ranh giới từ học sinh chỉ việc kẻ
chân từ đơn, từ ghép, từ láy theo đúng yêu cầu của bài.
* Bài làm hoàn chỉnh là:
Bốn / cái / cánh / mỏng / như / giấy bóng/ , cái đầu /

tròn / và / hai / con mắt / long lanh / như / thuỷ tinh / ... Bốn /
cánh / chú / khẽ / rung rung / như / còn / đang / phân vân/ .
- Từ đơn: bốn, cái, cánh, mỏng, như, tròn, và, hai, như,
bốn, cánh, chú, khẽ, như, còn, đang.
- Từ ghép: giấy bóng, cái đầu, con mắt, thủy tinh,
- Từ láy: long lanh, rung rung, phân vân
*Bài tập 2: Hãy xếp các từ: bạn học, khúc khích, quê
hương, mặt mũi, nết na, nhấp nhổm, tốt tươi, thoang thoảng,
đi đứng, lấp lánh vào 2 nhóm từ ghép và từ láy.
Một số học sinh đã xếp mặt mũi, tốt tươi, đi đứng vào từ
láy. Tôi đã tiến hành sửa như sau:
- Vì sao em xếp các từ đó vào nhóm từ láy? (...... vì
cùng có phụ âm đầu


giống nhau)
- Mỗi tiếng tốt và tươi, mặt và mũi, đi và đứng có nghĩa rõ
ràng không?
(.... có)
- Như vậy, trường hợp cả hai tiếng đều có nghĩa rõ ràng
thì xếp vào từ ghép.
+ Các nhóm từ xếp là:
- Từ ghép: bạn học, quê hương, mặt mũi, tốt tươi, đi
đứng.
- Từ láy: nết na, lấp lánh, thoang thoảng, khúc khích,
nhấp nhổm.
* Giáo viên chốt lại: Ở bài tập này, một số từ vừa có
quan hệ về nghĩa, vừa có quan hệ về âm thì xếp vào từ
ghép.
Khi học sinh biết cái sai, hiểu vì sao lại sai, tôi khắc

sâu và cho nhắc lại nhiều lần :
+ Khi xét từ cần căn cứ vào ý nghĩa của từ,
không nên nhìn hình thức
ngữ âm bên ngoài.
+ Khi xét từ cần đặt trong văn cảnh cụ thể.
*Bài tập 3:
Điền các tiếng thích hợp vào chỗ trống để có :
a) Các từ ghép :
b) Các từ láy
:
- mềm .....
mềm .....
- xinh .....
xinh .....
- khoẻ .....
khoẻ .....
- mong ....
- mong
.....
- nhớ .....
nhớ .....
- buồn ....
- buồn
....
Bài tập này, tôi làm sẵn vào phiếu học tập cho các em
tự điền tiếng để có các từ theo yêu cầu của bài tập. Phần lớn
các em đều có kết qủa như sau:


a) Các từ ghép :


b) Các từ láy

:
-

mềm nhũn

-

mềm mại
-

xinh đẹp

-

xinh xắn
-

khoẻ mạnh

-

khoẻ khoắn
-

mong chờ

-


-

nhớ mong

-

-

buồn tủi

-

mong mỏi
nhớ nhung
buồn buồn
Với dạng bài tập này, nhằm giúp học sinh khắc sâu
thêm cách phân biệt từ ghép, từ láy và các em đã thực hiện
rất tốt.
Khi thực hiện một số bài tập giúp học sinh phân biệt
được từ đơn, từ ghép, từ láy tôi thấy phần lớn học sinh tìm
đúng từ láy, từ ghép, từ đơn trong câu văn, đoạn văn hoặc
yêu cầu các em tự tìm từ để ghép thành từ ghép, từ láy. Bên
cạnh đó các em còn biết vận dụng các từ để đặt câu; câu
văn hay hơn, có hình ảnh hơn.
IV. KIỂM NGHIỆM
Sau một thời gian tìm tòi, nghiên cứu, bản thân đã đưa
ra được một số biện pháp, cách thức hướng dẫn để giúp học
sinh làm tốt các bài tập phân biệt từ dơn, từ ghép, từ láy. Một
số bài tập trong sách Hướng dẫn học Tiếng Việt 4, học sinh

làm rất tốt. Đặc biệt, những dạng bài tập này khi làm ở tiết
ôn tập hay ôn luyện vào buổi học thứ hai, các em rất có
hứng thú học tập, làm bài nhanh hơn và ít nhầm lẫn giữa từ
đơn với từ phức, hay từ ghép với từ láy.
Khi dạy ôn kiến thức về cấu tạo từ, để học sinh học mà
không cảm thấy nhàm chán tôi đã sử dụng nhiều hình thức
dạy học khác nhau như làm vào phiếu, thảo luận nhóm để
đưa ra kết quả hay tạo sự thi đua giữa các nhóm, có sự khích
lệ kịp thời cho bằng hình thức tặng hoa nếu cá nhân học sinh
hoặc nhóm hoàn thành tốt (Vì theo thông tư 30/ BGD&DT -


Về đánh giá học sinh Tiểu học thì không còn cách đánh giá
bằng điểm số cho học sinh)
Vào thời điểm đầu tháng 3 năm 2015, tôi ra một số đề
Tiếng Việt bổ sung cho học sinh lớp 4C (23 em), trong đó có
dạng bài tập về tìm từ đơn, từ ghép, từ láy. Bài tập có dạng
như sau:
Bài 1: Tìm từ đơn, từ phức trong ca dao sau:
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ, kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
Bài 2: Viết một đoạn văn ngắn về tình bạn (từ 5 đến 7
câu), trong đó có ít nhất 2 từ láy và 2 từ ghép.
Bài 3: Xếp các từ: châm chọc, chậm chạp, mê mẫn,
mong ngóng, nhỏ nhẹ, mong mỏi, phương hướng, vương vấn,
tươi tắn vào hai cột: từ ghép, từ láy.
Những dạng bài tập trên đều là các dạng bài tập nâng
cao nhưng các em đều làm đúng 100%, không còn sự nhầm

lẫn giữa từ đơn với từ ghép hay từ ghép với từ láy. Ngoài ra
các em còn viết được đoạn văn hay, sinh động. Đó là một kết
quả ngoài mong đợi.
Tóm lại giáo viên cần nắm chắc chương trình, nắm được
đặc điểm của từng học sinh từ đó đưa ra những biện pháp
giải quyết phù hợp với từng đối tượng. Sau mỗi tiết dạy về từ
và câu giáo viên cần biết những phần nào học sinh chưa nắm
rõ, học sinh nào chưa tiếp thu bài tốt sau đó giáo viên lên kế
hoạch, ra đề để bồi dưỡng kịp thời.
C. KẾT LUẬN
Trên đây là một số kinh nghiệm tôi đã thực hiện đối với
học sinh lớp 4. Với đề tài này tôi xin đưa ra một số kết luận
như sau:
Để dạy tốt môn Tiếng Việt nói chung cũng như dạy
phần từ và câu nói riêng, đặc biệt dạy phần từ đơn, từ ghép,
từ láy, đòi hỏi người giáo viên phải tìm tòi, học hỏi, nghiên
cứu, cải tiến phương pháp giảng dạy ở từng phân môn, ở
từng mạch kiến thức cụ thể nhằm rèn cho học sinh 4 kĩ năng
nghe, đọc, nói, viết. Với bậc Tiểu học là bậc học nền tảng vì
thế học sinh càng nắm chắc kiến thức, có phương pháp học
tập tốt, chắc chắn các em sẽ học tốt ở những cấp học tiếp


theo. Việc tạo tiền đề cho cấp học tiếp theo cũng góp phần
vào giáo dục một học sinh phát triển toàn diện có đạo đức,
phẩm chất tốt đẹp, trong sáng, có trí tuệ, bản lĩnh, đó cũng
chính là mục tiêu của sự nghiệp giáo dục mà Đảng và Nhà
nước đã giao trọng trách cho người giáo viên chúng ta.
Qua kinh nghiệm trong nhiều năm giảng dạy và đặc
biệt là môn Tiếng Việt, tôi luôn tìm tòi và đúc rút kinh

nghiệm để giờ dạy đạt hiệu quả. Đồng thời bản thân luôn
chú tâm tìm và phát hiện các sáng kiến để nâng cao chất
lượng dạy học cho các em. Mặc dù đã rất cố gắng song năng
lực còn có những hạn chế, vì vậy sáng kiến kinh nghiệm của
tôi sẽ không tránh khỏi những khiếm khuyết. Kính mong
nhận được những ý kiến giúp đỡ của các cấp lãnh đạo, đồng
chí đồng nghiệp để sáng kiến ngày càng hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự đóng góp ý kiến của các
đồng nghiệp!



×