Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Thế chấp tài sản bảo đảm tiền vay tại các ngân hàng thương mại theo pháp luật Việt Nam qua thực tiễn ngân hàng OceanBank

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 82 trang )

VIN HN LM
KHOA HC X HI VIT NAM
HC VIN KHOA HC X HI

BI THU DUNG

THế CHấP TàI SảN BảO ĐảM TIềN VAY TạI
CáC NGÂN HàNG THƯƠNG MạI THEO PHáP LUậT VIệT NAM
QUA THựC TIễN NGÂN HàNG OCEANBANK

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2017


VIN HN LM
KHOA HC X HI VIT NAM
HC VIN KHOA HC X HI

BI THU DUNG

THế CHấP TàI SảN BảO ĐảM TIềN VAY TạI
CáC NGÂN HàNG THƯƠNG MạI THEO PHáP LUậT VIệT NAM
QUA THựC TIễN NGÂN HàNG OCEANBANK

Chuyờn ngnh: Lut kinh t
Mó s: 60.38.01.07

LUN VN THC S LUT HC

NGI HNG DN KHOA HC:


PGS.TS Lấ TH THU THY

H NI - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa
học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận
văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết
luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong
bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Bùi Thu Dung


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẾ CHẤP TÀI SẢN BẢO ĐẢM
TIỀN VAY VÀ PHÁP LUẬT VỀ THẾ CHẤP TÀI SẢN BẢO ĐẢM TIỀN
VAY TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI .................................................... 5
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của thế chấp tài sản bảo đảm tiền vay tại các ngân
hàng thương mại .......................................................................................................... 5
1.2. Điều kiện đối với tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay tại các ngân hàng thương
mại ............................................................................................................................. 11
1.3. Khái niệm, nội dung của pháp luật về thế chấp tài sản bảo đảm tiền vay tại các
ngân hàng thương mại ............................................................................................... 14
1.4. Các yếu tố tác động tới pháp luật về thế chấp tài sản bảo đảm tiền vay tại các ngân
hàng thương mại ........................................................................................................ 18

Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THẾ CHẤP TÀI SẢN BẢO ĐẢM
TIỀN VAY TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ THỰC TIỄN THỰC
THI TẠI OCEAN BANK .................................................................................................... 21
2.1. Quy định của pháp luật về thế chấp tài sản bảo đảm tiền vay tại các ngân hàng
thương mại ................................................................................................................ 21
2.2. Thực tiễn thực thi pháp luật về thế chấp tài sản bảo đảm tiền vay tại Ocean Bank .... 41
2.3. Những vướng mắc trong thực tiễn thực thi pháp luật về thế chấp tài sản bảo
đảm tiền vay .............................................................................................................. 54
Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG THẾ CHẤP TÀI SẢN BẢO ĐẢM TIỀN VAY TẠI
OCEAN BANK...................................................................................................................... 63
3.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật về thế chấp tài sản bảo đảm tiền vay tại các ngân
hàng thương mại ........................................................................................................ 63
3.2. Một số định hướng và kiến nghị hoàn thiện pháp luật thế chấp tài sản bảo đảm
tiền vay tại các ngân hàng thương mại ...................................................................... 65
3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động thế chấp tài sản bảo đảm tiền vay
tại Ocean Bank .......................................................................................................... 68
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 73


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLDS:

Bộ luật dân sự

DTI:

Tỷ lệ nợ trên thu nhập


ĐVCV:

Đơn vị cho vay

NHNN:

Ngân hàng Nhà nước

NHTM:

Ngân hàng thương mại

Ocean Bank:

Ngân hàng Thương mại Trách nhiệm
hữu hạn Một thành viên Đại Dương

TCTD:

Tổ chức tín dụng

TSBĐ:

Tài sản bảo đảm


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hoạt động của ngân hàng thương mại bao gồm 3 lĩnh vực: nghiệp vụ nợ

(huy động vốn), nghiệp vụ có (cho vay kinh doanh) và nghiệp vụ môi giới trung
gian (dịch vụ thanh toán, đại lý, tư vấn, thông tin…). Trong đó, nghiệp vụ cho vay
là một hoạt động kinh doanh chủ yếu của ngân hàng để tạo ra lợi nhuận. Các
khoản cho vay thường chiếm tỷ trọng lớn từ 60-80% tổng số tài sản có của NHTM
và đem lại hơn 60% doanh thu cho ngân hàng. Tuy nhiên, đây cũng là hoạt động
chứa đựng nhiều rủi ro tiềm ẩn có thể xảy ra với ngân hàng, ảnh hưởng rất nhiều
đến các hoạt động của ngân hàng. Do vậy, để hạn chế tối đa rủi ro tín dụng xảy ra,
nghiệp vụ cho vay của NHTM luôn gắn liền với các biện pháp bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ trả nợ của khách hàng.
Trong các biện pháp bảo đảm tiền vay thì các biện pháp cầm cố, thế chấp và
bảo lãnh được ngân hàng sử dụng nhiều hơn cả. Thế chấp tài sản là biện pháp bảo
đảm tiền vay truyền thống, được sử dụng rộng rãi trong hoạt động bảo đảm tiền vay
tại các ngân hàng. Nguyên tắc hàng đầu của biện pháp bảo đảm tiền vay này là tài sản
được thế chấp dùng để làm tin. Đối với những khách hàng có uy tín trong việc vay trả
nợ ngân hàng, có khả năng tài chính mạnh và có triển vọng kinh doanh trong tương
lai thì ngân hàng có thể cho vay không cần bảo đảm. Ngược lại, đối với khách hàng
không đạt được các điều kiện trên thì để hạn chế rủi ro ngân hàng chỉ cho vay khi có
tài sản bảo đảm.
Xung quanh vấn đề thế chấp tài sản bảo đảm tiền vay tại các NHTM vẫn còn tồn
tại nhiều vướng mắc như về chủ thể tham gia quan hệ thế chấp tài sản, điều kiện đối với
các loại tài sản thế chấp, hiệu lực của hợp đồng thế chấp… Và một phần nguyên nhân là
do hệ thống các quy định pháp luật về vấn đề này chưa thực sự đầy đủ và hợp lý.
Ocean Bank là ngân hàng thương mại có nhiều biến động trong thời gian qua.
Và điều này đã ảnh hưởng ít nhiều đến hoạt động cho vay của ngân hàng. Chính vì
vậy, với mong muốn nghiên cứu về thế chấp tài sản bảo đảm tiền vay tại các NHTM
nói chung và Ocean Bank nói riêng, tác giả đã quyết định lựa chọn đề tài “Thế chấp
tài sản bảo đảm tiền vay tại các ngân hàng thương mại theo pháp luật Việt Nam
qua thực tiễn ngân hàng OceanBank” để nghiên cứu và thực hiện luận văn thạc sỹ
1



Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay đã có nhiều công trình nghiên cứu bao gồm luận văn thạc sĩ, sách, bài báo
đăng trên các tạp chí về pháp luật thế chấp tài sản bảo đảm tiền vay tại các NHTM, như:
- “Một số vấn đề về tài sản bảo đảm tiền vay tại tổ chức tín dụng” của PGS.TS
Lê Thị Thu Thủy, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế - Luật, số 2/2006: Bài báo
tập trung giải quyết những vấn đề cơ bản về tài sản bảo đảm nói chung trong thời
điểm BLDS năm 2005 vừa có hiệu lực.
- Sách chuyên khảo "Các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản của các Tổ
chức tín dụng", của PGS.TS Lê Thị Thu Thủy chủ biên, Nhà xuất bản Tư pháp, 2006:
Cuốn sách nghiên cứu về tổng thể các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản tại
các tổ chức tín dụng dựa trên các quy định pháp luật hiện đã không còn hiệu lực.
- Sách chuyên khảo “Pháp luật về các biện pháp hạn chế rủi ro trong hoạt
động cho vay của tổ chức tín dụng ở Việt Nam và một số nước trên thế giới”, của
PGS.TS Lê Thị Thu Thủy chủ biên, Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội, 2016:
Cuốn sách tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận và pháp lý về các biện pháp hạn
chế rủi ro trong hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng ở Việt Nam, có sự so sánh
và phân tích hệ thống pháp luật các nước về vấn đề này.
- Luận văn thạc sĩ Luật học đề tài: "Pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất
để bảo đảm tiền vay và thực tiễn áp dụng tại Ngân hàng ngoại thương Việt nam",
của Nguyễn Văn Phương, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2006: Luận văn nghiên cứu về
biện pháp thế chấp bảo đảm tiền vay với loại tài sản cụ thể là quyền sử dụng đất.
- Luận văn thạc sĩ Luật học đề tài: “Thế chấp tài sản – Biện pháp bảo đảm
tiền vay qua thực tiễn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Hàng hải Việt Nam”, của
Bùi Thị Nga, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014: Luận văn phân tích thực
trạng thực thi pháp luật về thế chấp tài sản bảo đảm tiền vay tại Ngân hàng thương
mại cổ phần Hàng hải Việt Nam, tập trung vào nhóm đối tượng khách hàng vay chủ
yếu là doanh nghiệp.
- Luận văn thạc sĩ Luật học đề tài: “Cầm cố và thế chấp tài sản tại ngân hàng

thương mại cổ phần dầu khí toàn cầu (GP.Bank)”, của Dương Thị Phương Liên,
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014: Luận văn đã giải quyết các vấn đề liên
quan đến cầm cố tài sản và thế chấp tài sản nhưng chưa cập nhật được các quy định
2


mới ban hành.
Có thể thấy, các đề tài, bài báo nêu trên vẫn chưa nghiên cứu một cách đồng
bộ và toàn diện về biện pháp thế chấp tài sản bảo đảm tiền vay của NHTM. Hơn
nữa, những công trình trên được thực hiện trước đây nên chưa cập nhật được các
nội dung mới trong các quy định của pháp luật hiện hành về thế chấp tài sản bảo
đảm tiền vay. Đồng thời, cũng chưa có công trình nghiên cứu về thế chấp tài sản
bảo đảm tiền vay tại các ngân hàng thương mại theo pháp luật Việt Nam gắn với
thực tiễn tại Ocean Bank. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài trên là cấp thiết trong giai
đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích, đánh giá những quy định của pháp luật Việt Nam về bảo
đảm tiền vay và thế chấp tài sản bảo đảm tiền vay tại NHTM, thực tiễn áp dụng những
quy định này mà cụ thể là tại Ocean Bank, từ đó, đề xuất ý kiến để hoàn thiện quy định
pháp luật, góp phần phát huy vai trò tích cực của biện pháp thế chấp tài sản bảo đảm
tiền vay trên thực tế, nâng cao vai trò của hoạt động tín dụng cũng như hiệu quả của
các biện pháp thế chấp tài sản nói riêng và các biện pháp bảo đảm tiền vay nói chung.
Để đạt mục tiêu trên, luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề sau:
- Tìm hiểu cơ sở lý luận và thực tiễn của các biện pháp bảo đảm tiền vay nói
chung và biện pháp thế chấp tài sản nói riêng. Đưa ra cách hiểu đúng đắn về thế
chấp tài sản, mục đích, vai trò và ý nghĩa của biện pháp này trong hoạt động ngân
hàng, góp phần làm cơ sở để hiểu và vận dụng biện pháp này trong thực tiễn;
- Đánh giá thực trạng pháp luật về thế chấp tài sản và việc thực thi các quy định
này qua thực tiễn tại Ocean Bank, từ đó rút ra các ưu điểm, hạn chế của chế định này;
- Đưa ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thế chấp tài sản bảo đảm tiền

vay tại các NHTM ở Việt Nam và nâng cao hiệu quả hoạt động này tại Ocean Bank.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định pháp luật về thế chấp tài sản
trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại ở Việt Nam và thực tiễn hoạt
động thế chấp tài sản bảo đảm tiền vay tại Ocean Bank.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn bao gồm các khía cạnh pháp lý, cơ sở lý
luận, nội dung của các quy định về thế chấp tài sản trong hoạt động cho vay của
3


ngân hàng thương mại và thực tiễn áp dụng tại Ocean Bank.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau, tùy thuộc
vào mục đích của luận điểm đề cập trong luận văn. Trong đó, luận văn sử dụng phương
pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền, các quan điểm, các học thuyết khoa học pháp lý
tại Việt Nam. Các phương pháp nghiên cứu như: phân tích, thống kê, so sánh, lịch sử,
chứng minh, tổng hợp, quy nạp được kết hợp sử dụng để triển khai thực hiện đề tài.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận, luận văn làm rõ một số vấn đề lý luận và pháp lý về bảo đảm
tiền vay và thế chấp tài sản bảo đảm tiền vay tại các NHTM. Luận văn đưa ra được
khái niệm, đặc điểm và vai trò của thế chấp tài sản bảo đảm tiền vay đối với hoạt
động cho vay nói riêng và hệ thống ngân hàng của Việt Nam nói chung. Đồng thời,
phân tích khái niệm, nội dung và những yếu tố tác động đến pháp luật điều chỉnh
hoạt động thế chấp tài sản bảo đảm tiền vay tại các NHTM.
Về mặt thực tiễn, luận văn đánh giá các quy định của pháp luật về thế chấp tài
sản bảo đảm tiền vay và tình hình thực thi các quy định này tại Ocean Bank; từ đó đưa
ra những giải pháp hoàn thiện đối với pháp luật về thế chấp tài sản bảo đảm tiền vay
tại NHTM.
Luận văn là công trình khoa học có ý nghĩa lý luận và thực tiễn. Luận văn

nghiên cứu khá toàn diện và hệ thống các quy định về thế chấp tài sản bảo đảm tiền
vay tại NHTM, có ý nghĩa thiết thực trong hoạt động thế chấp tài sản bảo đảm tiền
vay tại các ngân hàng thương mại. Đồng thời, luận văn là tài liệu hữu ích nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động thế chấp tài sản bảo đảm tiền vay tại Ocean Bank.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thế chấp tài sản bảo đảm tiền vay và
pháp luật về thế chấp tài sản bảo đảm tiền vay tại các ngân hàng thương mại
Chương 2: Quy định của pháp luật về thế chấp tài sản bảo đảm tiền vay tại
các ngân hàng thương mại và thực tiễn thực thi tại Ocean Bank
Chương 3: Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt
động thế chấp tài sản bảo đảm tiền vay tại Ocean Bank
4


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẾ CHẤP TÀI SẢN BẢO ĐẢM
TIỀN VAY VÀ PHÁP LUẬT VỀ THẾ CHẤP TÀI SẢN BẢO ĐẢM
TIỀN VAY TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của thế chấp tài sản bảo đảm tiền vay tại các
ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm bảo đảm tiền vay bằng tài sản tại các ngân hàng thương mại
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, hoạt động kinh doanh luôn gắn liền
với yếu tố rủi ro trong hoạt động kinh doanh của khách hàng vay vốn, rủi ro chính
là một trong các nguyên nhân dẫn đến việc ngân hàng không thu hồi được các
khoản nợ đã cho vay. Do vậy vấn đề đặt ra là cần phải áp dụng biện pháp nào đó để
ngân hàng có thể thu hồi được các khoản nợ đã cho vay.
Thực tế cho thấy, biện pháp bảo đảm tiền vay là biện pháp phổ biến và hay
được các chủ thể tham gia quan hệ tín dụng áp dụng trong số các biện pháp hạn chế

rủi ro phát sinh từ hoạt động cho vay của ngân hàng. Có thể nói đây là biện pháp
bên cho vay (ngân hàng) thường yêu cầu bên đi vay (khách hàng) phải thực hiện để
bảo đảm nghĩa vụ trả nợ vay, giúp ngân hàng thu hồi được khoản vốn đã cho vay.
Theo BLDS năm 2015 của Việt Nam, các biện pháp bảo đảm tiền vay bao gồm:
Biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản: Là việc cho vay vốn của tổ chức tín
dụng mà theo đó nghĩa vụ trả nợ của khách hàng vay được cam kết bảo đảm thực
hiện bằng các hình thức sau:
 Cầm

cố tài sản của khách hàng vay hoặc bên thứ ba, trong đó có tài sản

hình thành từ vốn vay;
 Thế

chấp tài sản của khách hàng vay hoặc bên thứ ba, trong đó có tài sản

hình thành từ vốn vay.
Biện pháp bảo đảm tiền vay trong trường hợp cho vay không có bảo đảm
bằng tài sản: là việc ngân hàng chủ động cho khách hàng vay mà không có TS thuộc
sở hữu của khách hàng để bảo đảm khả năng thực hiện nghĩa vụ trả nợ, bao gồm
hình thức bảo lãnh và tín chấp.

5


Có thể nói, trong số các loại bảo đảm tiền vay thì bảo đảm tiền vay bằng tài
sản là một hình thức bảo đảm tiền vay được áp dụng tương đối phổ biến do việc
đánh giá độ an toàn của khoản vay có tài sản bảo đảm dễ dàng hơn so với các biện
pháp bảo đảm khác và các ngân hàng được quản lý tài sản bảo đảm hoặc giấy tờ
pháp lý liên quan đến tài sản của khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh. Trong trường

hợp có phát sinh tranh chấp thì nguy cơ rủi ro đối với khoản vay có tài sản bảo đảm
cũng hạn chế hơn so với các biện pháp bảo đảm khác. Là một trong các biện pháp
quan trọng góp phần nâng cao chất lượng các khoản cho vay, hạn chế tổn thất của
ngân hàng. Trong trường hợp khách hàng vay vi phạm nghĩa vụ trả nợ và bên thứ ba
không thực hiện nghĩa vụ thay cho khách hàng thì tài sản bảo đảm tiền vay sẽ được
xử lý để thu hồi nợ.
Như vậy, bảo đảm tiền vay bằng tài sản có thể được hiểu là việc bên có
nghĩa vụ (khách hàng vay vốn) hoặc bên thứ ba (bên bảo lãnh) dùng tài sản thuộc
quyền sở hữu của mình để bảo đảm cho nghĩa vụ được xác lập thực hiện. Thực chất
ở loại biện pháp này, bên bảo đảm xác nhận cho bên nhận bảo đảm có quyền năng,
chi phối đối với tài sản thuộc sở hữu của mình [44].
1.1.2. Khái niệm thế chấp tài sản bảo đảm tiền vay tại các ngân hàng thương mại
Thế chấp được biết đến là một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự
đã xuất hiện từ thời La Mã cổ đại. Biện pháp thế chấp tài sản ra đời sau nhưng đã
giúp làm giảm bớt sự bất tiện cho cả hai bên (bên có quyền và bên có nghĩa vụ) khi
áp dụng các biện pháp bảo đảm đã xuất hiện trước đó. Biện pháp thế chấp tài sản
cho phép chủ nợ chỉ có quyền ưu tiên thu hồi nợ bằng cách bán tài sản và quyền
theo đuổi tài sản qua các cuộc chuyển nhượng nhưng lại không có quyền sở hữu hay
được cầm giữ tài sản bảo đảm. Người có nghĩa vụ không cần chuyển giao tài sản và
vẫn được sử dụng hay định đoạt tài sản [52].
Trên thực tế, việc giao vật bảo đảm cho bên có quyền trực tiếp nắm giữ vừa
gây ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của bên có nghĩa vụ vừa không
đảm bảo được lợi ích của người có quyền một cách tốt hơn. Vì vậy, biện pháp thể
chấp ra đời vừa bảo đảm quyền lợi của người có quyền vừa duy trì hoạt động bình
thường của người có nghĩa vụ trên tài sản của mình mà không cần chuyển giao tài
sản. Mặt khác, mở rộng loại tài sản bảo đảm sang cả những tài sản không có điều
6


kiện vật chất để có thể trực tiếp nắm giữ như tàu biển, máy bay, trâu, bò...

Thông thường, ở biện pháp này bên có nghĩa vụ không giao tài sản cho bên
có quyền trực tiếp nắm giữ mà dùng giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu tài sản của
mình hoặc giấy tờ là điều kiện chuyển nhượng tài sản giao cho bên kia, việc giao
giấy tờ này đồng nghĩa với việc bên có nghĩa vụ không thể định đoạt tài sản được vì
không có giấy tờ pháp lý để giao dịch.
Trước tiên, để hiểu rõ về biện pháp bảo đảm tiền vay này, cần xuất phát từ
khái niệm thế chấp tài sản.
Theo pháp luật Úc, khái niệm thế chấp được đưa ra tại Điều 204 Bộ luật tín
dụng (một bộ phận của đạo luật bảo vệ người tiêu dùng tín dụng năm 2009) bao
gồm “bất kỳ lợi ích hoặc quyền hoặc tài sản nào bảo đảm nghĩa vụ của con nợ hoặc
người bảo lãnh”. Hầu hết các bang và lãnh thổ của Úc đều cho rằng thế chấp bao
gồm một đặc quyền [44, tr. 128,129].
Đối tượng của thế chấp theo quy định của pháp luật Pháp chỉ là bất động sản.
Và theo quy định tại Điều 2114 BLDS Pháp thì thế chấp là một quyền tài sản đối
với bất động sản được sử dụng đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ.
Thế chấp theo pháp luật Anh được hiểu là biện pháp bảo đảm có sự chuyển
dịch quyền sở hữu từ bên bảo đảm sang bên nhận bảo đảm nhằm bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ và bên bảo đảm được bảo lưu quyền chuộc lại tài sản trong trường hợp
hoàn thành nghĩa vụ. Trong thực tiễn ở Anh có hai loại thế chấp là thế chấp pháp lý
và thế chấp thực tế (thế chấp công bình) [44, tr. 92,93].
Pháp luật nhiều bang ở Hoa Kỳ quan niệm thế chấp là một biện pháp bảo
đảm trao cho bên nhận bảo lãnh một lợi ích trên bất động sản để bảo đảm cho một
nghĩa vụ [44, tr. 93].
Từ điển Tiếng Việt của Hoàng Phê định nghĩa, Thế chấp: (Tài sản) dùng làm
vật bảo đảm, thay thế cho số tiền vay nếu không có khả năng trả đúng kì hạn [26].
Theo Từ điển Luật học do Viện Khoa học Pháp lý (Bộ Tư pháp) biên soạn
năm 2006:
Thế chấp: Biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng tài sản, theo đó, bên
có nghĩa vụ dùng tài sản thuộc quyền sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ đối với bên có quyền. Tài sản được thế chấp là các bất động sản như nhà


7


ở, vườn cây lâu năm, công trình xây dựng khác… [49]. Có thể thế chấp một phần
hoặc toàn bộ bất động sản để bảo đảm một hoặc nhiều nghĩa vụ, tùy theo giá trị
của bất động sản cũng như tùy theo sự thỏa thuận của các bên. Hoa lợi phát sinh
từ bất động sản, các vật phụ của bất động sản chỉ trở thành đối tượng của thế
chấp, nếu các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định. Thông thường, tài
sản thế chấp vẫn do bên thế chấp giữ, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận giao
cho bên nhận thế chấp hoặc người thứ ba giữ. Việc thế chấp tài sản phải được lập
thành văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính và phải có chứng nhận của tổ
chức hành nghề công chứng (Phòng Công chứng hoặc Văn phòng Công chứng)
hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền, nếu các bên có thỏa
thuận hoặc pháp luật có quy định.
Như vậy, có thể hiểu thế chấp tài sản là việc một bên dùng tài sản thuộc sở
hữu để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên kia và không chuyển giao tài
sản đó cho bên nhận thế chấp. Sau khi thế chấp, bên có tài sản vẫn tiếp tục chiếm
giữ, quản lý, khai thác tài sản đó, các bên cũng có thể thỏa thuận giao cho người
thứ ba giữ tài sản thế chấp.
1.1.3. Đặc điểm của biện pháp thế chấp tài sản bảo đảm tiền vay tại các NHTM
Bên cạnh những đặc điểm chung của các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài
sản đã được nêu ở trên, thế chấp tài sản còn có những đặc điểm riêng sau:
Thứ nhất, không có sự chuyển giao tài sản thế chấp
Khác với biện pháp cầm cố, yêu cầu phải có sự chuyển giao tài sản bảo
đảm từ bên cầm cố sang cho bên nhận cầm cố. Trong quan hệ thế chấp, bên thế
chấp không phải giao tài sản bảo đảm cho bên nhận thế chấp. Trong thời gian biện
pháp thế chấp có hiệu lực, tài sản vẫn thuộc quyền chiếm hữu của bên thế chấp;
bên thế chấp được khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản bảo đảm
một cách bình thường.

Tính chất bảo đảm được xác định bằng việc bên thế chấp phải giao cho bên
nhận thế chấp những giấy tờ chứng minh tình trạng pháp lý của tài sản thế chấp cho
bên nhận thế chấp. Những giấy tờ liên quan đến tài sản thế chấp có thể là giấy đăng
ký quyền sở hữu tài sản (ví dụ ô tô, xe máy, máy bay, tàu biển…); giấy chứng nhận

8


quyền sử dụng đất; hay các giấy tờ khác như hợp đồng mua bán hàng hóa có kèm
theo hóa đơn; hợp đồng mua bán nhà ở trong tương lai kèm theo dự án đã được phê
duyệt về ngôi nhà đó; hoặc giấy tờ thừa kế nhà đất;… Các loại giấy tờ trên phải là
bản gốc (bản duy nhất) được giao cho bên nhận thế chấp giữ nhằm hạn chế sự định
đoạt của bên thế chấp đối với tài sản thế chấp.
Thứ hai, đối tượng của thế chấp là một tài sản cụ thể
Tài sản bảo đảm được dùng để thế chấp rất đa dạng nhưng là một tài sản cụ
thể để bảo đảm cho nghĩa vụ của bên thế chấp. Đó có thể là nhà ở, các tài sản gắn
liền với đất; quyền sử dụng đất; máy móc, thiết bị; ô tô, tàu biển... Và khi nghĩa vụ
được bảo đảm bị vi phạm thì bên nhận thế chấp sẽ xử lý tài sản thế chấp đó để bù
đắp cho việc vi phạm nghĩa vụ của bên thế chấp.
Đây là đặc điểm để phân biệt với biện pháp tín chấp. Đối tượng của tín chấp
không phải là một lợi ích vật chất mà là uy tín của tổ chức chính trị - xã hội.
Thứ ba, một tài sản có thể bảo đảm cho nhiều nghĩa vụ
Với biện pháp thế chấp, một tài sản có thể được dùng để bảo đảm thực hiện
nhiều nghĩa vụ dân sự, nếu có giá trị tại thời điểm xác lập giao dịch bảo đảm lớn hơn
tổng giá trị các nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp
luật có quy định khác. Vì bên nhận thế chấp không trực tiếp giữ tài sản bảo đảm nên
quyền lợi của tất cả các chủ nợ được bảo đảm bằng giá trị của tài sản đó. Ví dụ: Anh
A thế chấp một chiếc ô tô trị giá 1,8 tỷ đồng tại ngân hàng X để vay 200 triệu đồng,
sau đó lại tiếp tục thế chấp tại ngân hàng Y để vay 300 triệu đồng và cuối cùng cầm
cố cho anh B để vay 800 triệu đồng. Chiếc ô tô là tài sản bảo đảm cho nhiều nghĩa vụ

đối với các chủ thể quyền khác nhau nhưng vẫn bảo đảm được lợi ích cho bên có
quyền vì tổng các nghĩa vụ không vượt quá giá trị tài sản bảo đảm.
Thứ tư, thế chấp tài sản là nghĩa vụ phụ bên cạnh nghĩa vụ chính, đồng thời
là biện pháp bảo đảm phát sinh từ nghĩa vụ chính và phụ thuộc và nghĩa vụ chính
Thế chấp tài sản không tồn tại một cách độc lập mà luôn gắn liền với một
nghĩa vụ nào đó (được gọi là nghĩa vụ chính). Nghĩa vụ thế chấp tài sản phát sinh và

9


tồn tại khi và chỉ khi nghĩa vụ chính còn tồn tại; không có nghĩa vụ chính thì cũng
không thể có nghĩa vụ thế chấp tài sản.
Thế chấp tài sản chỉ được áp dụng để bảo đảm nghĩa vụ chính nếu nghĩa vụ
chính đó có hiệu lực. Nếu nghĩa vụ chính bị xác định là vô hiệu thì thỏa thuận về
thế chấp tài sản cũng đương nhiên vô hiệu. Trong trường hợp nghĩa vụ chính chấm
dứt (do được hoàn thành, do được miễn việc thực hiện nghĩa vụ, do được bù trừ, do
được chuyển giao, do bên có quyền và bên có nghĩa vụ hòa nhập làm một) thì quan
hệ thế chấp tài sản cũng chấm dứt.
Cụ thể, trong hoạt động cho vay tại NHTM, biện pháp thế chấp tài sản chỉ có
thể được áp dụng đối với nghĩa vụ hợp đồng – nghĩa vụ trả nợ của khách hàng vay
theo hợp đồng tín dụng giữa khách hàng và ngân hàng.
Thứ năm, là biện pháp bảo đảm được đăng ký nhiều nhất trong thực tế
Vì không có sự chuyển giao tài sản nên việc cần minh bạch hóa tình trạng pháp
lý của tài sản là rất cần thiết để đảm bảo cho an toàn giao dịch. Việc đăng ký giao dịch
bảo đảm tạo lợi thế ưu tiên thanh toán cho người đăng ký trước khi một tài sản dùng để
đảm bảo cho nhiều giao dịch thường xảy ra phổ biến đối với tài sản thế chấp.
1.1.4. Vai trò của biện pháp thế chấp tài sản bảo đảm tiền vay
Thế chấp tài sản là biện pháp vừa có mục đích nâng cao trách nhiệm của bên
thế chấp trong việc thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ của mình, vừa có mục đích
giúp cho bên nhận thế chấp có thể kiểm soát tài sản để, nếu cần, yêu cầu kê biên bán

đấu giá hoặc áp dụng phương thức xử lý khác đối với tài sản nhằm thanh toán nghĩa
vụ được bảo đảm. Mặt khác, thế chấp tài sản không chỉ nhằm mục đích bảo vệ bên
nhận thế chấp mà nó cũng đem lại lợi ích nhất định cho chính bên thế chấp.
Đối với bên nhận thế chấp, biện pháp thế chấp tài sản đóng vai trò quan
trọng trong việc giảm thiểu rủi ro tín dụng, giúp bên nhận thế chấp nhận diện và xác
định được độ rủi ro đối với các khoản vay, từ đó có các biện pháp phù hợp, tăng khả
năng thu hồi được vốn đã có vay, đảm bảo khả năng trả nợ của bên thế chấp. Đồng
thời, do không trực tiếp nắm giữ tài sản nên không mất chi phí cho việc duy trì, giữ
gìn và bảo quản tài sản bảo đảm trong thời hạn thế chấp như không phải lo về kho,

10


bến bãi, người trông coi hay biện pháp bảo quản thích hợp cũng như không phải
chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại nếu làm hư hỏng, mất mát tài sản thế chấp.
Đối với bên thế chấp biện pháp thế chấp là lựa chọn được ưu tiên, đặc biệt là
trong lĩnh vực kinh doanh cần sử dụng vốn và duy trì hoạt động sản xuất, kinh
doanh. Với việc không phải chuyển giao tài sản thế chấp, bên thế chấp vẫn được
tiếp tục sử dụng, khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức (có thể cho thuê hoặc
bán nếu tài sản thế chấp là tài sản luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh.
Mặt khác người thế chấp có thể thế chấp một tài sản để bảo đảm cho nhiều nghĩa vụ
khác nhau nếu tổng các nghĩa vụ không lớn hơn giá trị tài sản thế chấp. Bên thế
chấp có thể khai thác được hết giá trị của tài sản thế chấp để huy động được tối đa
lượng vốn cần vay.
1.2. Điều kiện đối với tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay tại các ngân hàng
thương mại
Để có thể vay vốn từ ngân hàng, khách hàng có thể bị ngân hàng yêu cầu
phải có tài sản thế chấp. Tuy nhiên, không phải tài sản nào cũng có thể sử dụng để
thế chấp. Trước tiên cần xác định khái niệm về tài sản?
Tài sản được hiểu là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Tài sản bao gồm

bất động sản và động sản, trong đó bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có
và tài sản hình thành trong tương lai. Tài sản được phân loại thành: Bất động sản và
động sản; tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai; hoa lợi, hoa tức; vật
chính và vật phụ; vật chia được và vật không chia được; vật tiêu hao và vật không
tiêu hao; vật cùng loại và vật đặc định; vật đồng bộ; quyền tài sản.
Trong đó, vật trong quan hệ pháp luật dân sự và được coi là tài sản thì vật đó
con người phải chiếm hữu được, phải chi phối được, xác định được về bề rộng, bề
dài, chiều cao, cân, đong, đo, đếm được và xác định được theo sự tồn tại và vật hình
thành trong tương lai [7].
Tiền được hiểu là một loại tài sản hiếm, có tính ổn định, bất kỳ ai cũng có
quyền sử dụng và tiền được sử dụng rộng rãi trên phạm vi lãnh thổ.
Giấy tờ có giá theo quy định tại Điều 4, Pháp lệnh ngoại hối năm 2005 là trái
phiếu Chính phủ, trái phiếu công ty, kỳ phiếu, cổ phiếu… Giấy chứng nhận quyền sử

11


dụng đất và tài sản gắn liền với đất chỉ là một chứng thư và là một bằng chứng chứng
minh quyền sử dụng đất, không phải là giấy tờ có giá. Tương tự như vây, sổ hưu trí,
sổ tiết kiệm, giấy biên một khoản nợ không được xem là giấy tờ có giá, mà các khoản
dư của tài khoản trong ngân hàng hoặc cơ sở quỹ tiết kiệm mới là tài sản [7].
Quyền tài sản là các quyền trị giá được bằng tiền, có thể chuyển giao được
trong quan hệ pháp luật dân sự. Những quyền tài sản phổ biến ở Việt Nam hiện nay
là quyền sử dụng đất, quyền sở hữu trí tuệ và quyền yêu cầu trả một khoản nợ,
quyền đòi bồi thường thiệt hại.
Đối với tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay, chỉ có những tài sản có giá trị lớn,
đáp ứng điều kiện đối với tài sản bảo đảm và đủ để đảm bảo khi khách hàng không
đủ điều kiện trả nợ, ngân hàng sẽ dùng tài sản đó thanh lý để thu hồi số tiền đã cho
vay và cụ thể phải thỏa mãn đầy đủ các điều kiện sau:
 Tài


sản phải thuộc quyền sở hữu hợp pháp của bên bảo đảm, trừ trường hợp

cầm giữ tài sản và bảo lưu quyền sở hữu: Đất đai phải thuộc quyền của bên thế chấp
theo quy định của pháp luật về đất đai. Tài sản của doanh nghiệp nhà nước phải là
tài sản do nhà nước giao cho doanh nghiệp quản lý và sử dụng [40, tr. 77].
Tài sản bảo đảm do các bên thỏa thuận và thuộc sở hữu của bên có nghĩa vụ
hoặc thuộc sở hữu của người thứ ba mà người này cam kết dùng tài sản đó để bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ đối với bên có quyền. Tài sản bảo đảm
có thể là tài sản hiện có, tài sản hình thành trong tương lai và được phép giao dịch.


Tài sản bảo đảm có thể được mô tả chung chung nhưng phải xác định

được [40, tr. 77].
 Tài

sản được phép giao dịch: Xuất phát từ bản chất của các giao dịch dân sự

không được trái pháp luật và đạo đức xã hội, tài sản bảo đảm không thể bị cấm lưu
thông theo quy định của pháp luật tại thời điểm ký kết giao dịch bảo đảm. Tài sản
bảo đảm không bị cấm mua, bán tặng cho, chuyển đổi, chuyển nhượng cầm cố, thế
chấp và các giao dịch khác.
 Tài

sản không bị tranh chấp: là tài sản không có tranh chấp về quyền sở

hữu, quyền sử dụng…
Đây là một trong các điều kiện rất quan trọng đối với tài sản bảo đảm, tuy
vậy để xác định được tài sản có trong tình trạng tranh chấp hay không lại đang là

vấn đề bất cập của hệ thống pháp luật hiện nay. Đặc điểm này chỉ áp dụng đối với
12


một số tài sản đặc thù như đất đai... Trên thực tế đã xảy ra nhiều trường hợp đến
khi tiến hành xử lý tài sản bảo đảm để thu nợ mới phát hiện ra tình trạng tranh
chấp đã phát sinh trước cả thời điểm ký hợp đồng bảo đảm của tài sản.
 Tài

sản mà pháp luật quy định phải mua bảo hiểm và khách hàng đã mua

bảo hiểm trong thời hạn đảm bảo tiền vay.
Hiện nay có một số tài sản mà pháp luật yêu cầu bắt buộc phải mua bảo
hiểm như: bảo hiểm cháy nổ, bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới…
Đối với các loại tài sản này khi nhận làm tài sản bảo đảm, các ngân hàng đều yêu
cầu bên bảo đảm phải có trách nhiệm mua bảo hiểm hoặc xuất trình các hợp đồng
bảo hiểm trong suốt thời hạn bảo đảm tiền vay. Trường hợp khoản vay có thời hạn
dài, khách hàng vay và bên bảo lãnh có thể xuất trình hợp đồng mua bảo hiểm có
thời hạn ngắn hơn song phải có cam kết bằng văn bản về việc tiếp tục mua bảo
hiểm trong thời gian tiếp theo cho đến khi hết thời hạn bảo đảm. Đồng thời để bảo
đảm khả năng thu hồi vốn, các ngân hàng thường thỏa thuận với khách hàng, bên
bảo đảm về việc chuyển quyền thụ hưởng bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm cho
ngân hàng nếu xảy ra rủi ro. Nếu không thỏa thuận được điều này thì ngân hàng
thường yêu cầu bên bảo đảm phải cam kết chuyển toàn bộ các khoản tiền thụ
hưởng bảo hiểm về ngân hàng để thực hiện việc thanh toán nợ gốc, lãi và các chi
phí khác cho ngân hàng nếu có.
Trường hợp tài sản được dùng để bảo đảm cho các nghĩa vụ trả nợ tại nhiều
ngân hàng thì phải thỏa mãn điều kiện:



Giá trị tài sản thế chấp được xác định tại thời điểm ký kết hợp đồng thế

chấp phải lớn hơn tổng giá trị các nghĩa vụ trả nợ được bảo đảm, trừ trường hợp
pháp luật có quy định hoặc các bên có thỏa thuận khác;


Bên thế chấp phải thông bảo cho bên nhận thế chấp về tình trạng tài sản

đang được đưa ra để bảo đảm.
Ngoài ra, để có thể được sử dụng làm tài sản bảo đảm, ngân hàng còn xem
xét các tiêu chuẩn sau đối với tài sản:


Khả năng thanh khoản là thước đo khả năng chuyển hoán thành tiền của tài

sản. Tài sản càng chuyển hóa nhanh bao nhiêu thì giá trị của nó càng lớn: cổ phiếu,
trái phiếu, các loại chứng khoán khác;

13




Khả năng khấu hao tài sản: máy móc, thiết bị



Khả năng thị trường: việc mua, bán tài sản




Khả năng kiểm soát tài sản hàm ý khả năng kiểm tra, giám sát quá trình sử

dụng tài sản này [44].
Ví dụ như: nhà, đất là những tài sản có giá trị cao nhưng không phải lúc nào
cũng có thể chuyển nhượng, và là loại tài sản bảo đảm có khả năng thanh khoản
thấp hơn so với bất động sản. Tuy nhiên, nhờ có đặc thù như tính bền vững, hay giá
trị không bao giờ bị mất hoàn toàn mà nhà, đất thường được các ngân hàng tại Việt
Nam ưu tiên khi xem xét việc cho vay vốn.
1.3. Khái niệm, nội dung của pháp luật về thế chấp tài sản bảo đảm tiền vay
tại các ngân hàng thương mại
1.3.1. Khái niệm pháp luật về thế chấp tài sản bảo đảm tiền vay tại các ngân hàng
thương mại
Hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại phát sinh các mối quan hệ
xã hội, quyền lợi, nghĩa vụ giữa các bên tham gia quan hệ này. Mà các biện pháp
bảo đảm tiền vay nói chung và biện pháp thế chấp tài sản bảo đảm tiền vay nói
riêng là loại hình giao dịch phổ biến và chủ yếu trong hoạt động cho vay của các
ngân hàng thương mại. Vì vậy, việc đặt ra các quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh
các quan hệ phát sinh trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại, nhằm
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, bảo vệ sự an toàn và ổn định của hệ
thống ngân hàng, điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong hoạt động này theo hướng
phù hợp với mục đích mà Nhà nước và xã hội đặt ra là hoàn toàn cần thiết.
Như vậy, có thể hiểu, pháp luật về thế chấp tài sản bảo đảm tiền vay tại
NHTM là tổng hợp các qui pham pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh
giữa bên nhận thế chấp tài sản (NHTM cho vay) và bên thế chấp tài sản (khách
hàng vay hoặc bên thứ ba) để bảo đảm thực hiên nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng tín
dụng trong hoạt động cho vay của các NHTM.
Theo đó, Nhà nước quy định các chủ thể tham gia quan hệ thế chấp tài sản,
các loại tài sản thế chấp, quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ thế chấp
tài sản, hợp đồng và hiệu lực của hợp đồng, xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ.

14


1.3.2. Nội dung của pháp luật về thế chấp tài sản bảo đảm tiền vay tại các ngân
hàng thương mại
Pháp luật được nhà nước sử dụng làm công cụ điều chỉnh các quan hệ xã hội
phát sinh trong lĩnh vực ngân hàng nói chung. Từ khi ra đời cho đến nay, đã có rất
nhiều văn bản pháp luật đề cập đến hoạt động bảo đảm tiền vay, bởi vì đây là vấn đề
có tính nhạy cảm và biến động cao tác động tới sự phát triển ổn định và an toàn của
cả hệ thống ngân hàng tài chính. Trong thời gian đầu các quy định về bảo đảm tiền
vay còn rất nhiều bất cập như coi tài sản bảo đảm là điều kiện tiên quyết để cấp tín
dụng, có sự phân biệt giữa doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp ngoài quốc
doanh… Sau một thời gian áp dụng, Nhà nước, TCTD và khách hàng vay đã thấy
được điểm còn hạn chế, do đó hàng loạt những quy định mới ra đời, bổ sung và thay
thế các quy định cũ tạo ra một hành lang pháp lý bảo đảm tiền vay khá chặt chẽ, chi
tiết và hợp lý hơn để thích ứng với sự phát triển của nền kinh tế. Hiện nay, các TCTD
khi thực hiện bảo đảm tiền vay đã và đang áp dụng các văn bản pháp luật sau:


Bộ luật Dân sự năm 2015



Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010



Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 19/12/2006 về giao dịch bảo đảm




Nghị đinh số 83/2010/NĐ-CP ngày 23/7/2010 về đăng ký giao dịch bảo đảm



Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/2/2012 về việc sửa đổi, bổ sung một

số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 19/12/2006 về giao dịch bảo đảm


Thông tư số 16/2014/TTLT-BTP-BTNMT-NHNN ngày 6/6/2014 hướng

dẫn một số vấn đề về xử lý tài sản bảo đảm


Thông tư số 19/2013/TT-NHNN ngày 6/9/2013 quy định về việc mua, bán

và xử lý nợ xấu của Công ty Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam
Ngoài ra còn có rất nhiều các văn bản hướng dẫn cụ thể liên quan đến hoạt
động bảo đảm tiền vay do các ngân hàng thương mại đưa ra dựa trên những quy
định của nhà nước phù hợp với lĩnh vực hoạt động ngân hàng của mình.
Đối với hoạt động thế chấp tài sản bảo đảm tiền vay tại các NHTM, nhà nước
đặt ra các quy định cụ thể về các nội dung sau:

15


Về chủ thể tham gia thế chấp tài sản bảo đảm tiền vay tại NHTM
Chủ thể tham gia thế chấp tài sản bảo đảm tiền vay tại NHTM bao gồm một
bên là bên nhận thế chấp và bên còn lại là bên thế chấp. Trong đó, bên nhận thế

chấp ở đây chính là các NHTM đủ điều kiện hoạt động ngân hàng theo quy định của
pháp luật. Pháp luật quy định điều kiện, trình tự, thủ tục cấp, thu hồi giấy phép
thành lập và hoạt động của ngân hàng; quy định nhiệm vụ, quyền hạn quản lý nhà
nước của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam… Việc quy định về vốn điều lệ, chủ sở
hữu, điều lệ hoạt động của ngân hàng… nhằm hạn chế các NHTM không đủ điều
kiện tham gia hoạt động cho vay, gây rủi ro đến toàn bộ hệ thống kinh tế cũng như
lợi ích của khách hàng.
Tương tự đối với bên thế chấp, pháp luật đặt ra những điều kiện đối với cá
nhân/tổ chức có thể vay vốn bằng biện pháp thế chấp tài sản.
Nhằm tăng khả năng bảo đảm an toàn cho hoạt động cho vay của ngân hàng
và hạn chế những tranh chấp không đáng có trong quá trình cho vay, pháp luật đã
đề ra quyền và nghĩa vụ của các bên khi tham gia quan hệ thế chấp tài sản bảo đảm
tiền vay. Với những quy định này, lợi ích của các bên được bảo vệ tối đa, nâng cao
trách nhiệm của bên thế chấp trong việc thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ của
mình, vừa hạn chế được rủi ro tín dụng cho bên nhận thế chấp.
Về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay tại NHTM
Tài sản thế chấp rất đa dạng tuy nhiên không phải tài sản nào cũng có thể
được sử dụng để thế chấp bảo đảm tiền vay. Vì vậy, pháp luật quy định các loại tài
sản được phép dùng để thế chấp bảo đảm tiền vay cùng những điều kiện cụ thể
nhằm bảo đảm khả năng thực hiện nghĩa vụ của bên thế chấp, giúp bên nhận thế
chấp hạn chế rủi ro.
Biện pháp thế chấp có đặc trưng riêng là không có sự chuyển giao tài sản.
Tức là tài sản vẫn thuộc quyền chiếm hữu của bên thế chấp vì vậy bên thế chấp
có thể dùng tài sản để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ, thực hiện theo thỏa
thuận của các bên và quy định của pháp luật. Đặc điểm này cũng là nguyên nhân
gây ra nhiều rủi ro trong hoạt động cấp tín dụng của NHTM và cần có sự điều
chỉnh của pháp luật.
Việc một tài sản có thể dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ đã dẫn đến

16



yêu cầu đăng ký bảo đảm đối với tài sản thế chấp nhằm bảo vệ quyền lợi của các
bên cùng nhận thế chấp một tài sản bảo đảm.
Định giá tài sản thế chấp cũng là một nội dung quan trọng được quy định
trong pháp luật về thế chấp tài sản bảo đảm tiền vay tại các NHTM. Đây là nội dung
phức tạp và cần phải có những quy định cụ thể, nghiêm ngặt vì ảnh hưởng trực tiếp
đến việc xác định khoản vay cũng như việc thu hồi nợ của ngân hàng.
Về hợp đồng thế chấp tài sản bảo đảm tiền vay tại NHTM
Trong hoạt động cấp tín dụng, hợp đồng thế chấp được coi là hợp đồng độc
lập, không phụ thuộc vào các hợp đồng chính về dân sự, kinh doanh, thương mại.
Khi khách hàng vay không thực hiện hoặc không thực hiện đúng, đủ nghĩa vụ của
mình thì hợp đồng thế chấp luôn được coi là “phao cứu sinh” đối với ngân hàng
trong trường hợp khách hàng không trả được nợ. Nhưng đây cũng là một trong
những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến các tranh chấp trong hoạt động cho vay có bảo
đảm bằng tài sản thế chấp. Vì vậy, pháp luật phải đặt ra các quy định chặt chẽ về
hình thức của hợp đồng, các nội dung chính cần có trong hợp đồng, các giấy tờ cần
thiết để chứng minh điều kiện của tài sản thế chấp, hiệu lực của hợp đồng, yêu cầu
về xác lập hợp đồng, về công chứng, xác nhận hợp đồng thế chấp, …
Về xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ vay tại NHTM
Khi nghĩa vụ trả nợ vay bị vi phạm, ngân hàng sẽ tiến hành các phương thức
xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nguồn vốn đã cho vay. Và những trường hợp ngân
hàng có quyền xử lý tài sản được quy định cụ thể nhằm đặt ra những nguyên tắc
mang tính mặc định về quyền xử lý bảo đảm của ngân hàng có hoặc không được các
bên thỏa thuận trong hợp đồng thế chấp, đồng thời ghi nhận các trường hợp xử lý
bảo đảm bắt buộc theo quy định tại một văn bản luật cụ thể.
Tùy theo từng loại tài sản bảo đảm khác nhau mà NHTM có cách thức xử lý
tài sản bảo đảm khác nhau. Đây là một quá trình phức tạp với nhiều chủ thể khác
nhau tham gia, bao gồm: Ngân hàng, khách hàng, các bên liên quan và kể cả các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền, trong đó ngân hàng đóng vai trò là trung tâm. Mục

đích cơ bản và quan trọng nhất của việc xử lý nợ chính là thu hồi vốn về cho ngân
hàng, trên cơ sở tôn trọng quyền lợi của khách hàng, bình đẳng, trọng quyền và lợi
ích của các bên tham gia. Tuy vậy, việc thu hồi vốn cho ngân hàng thông qua việc
17


xử lý nợ không phải là điều đơn giản, nhất là khi khách hàng không hợp tác với
ngân hàng trong việc thu hồi nợ. Chính vì thế, hoạt động cho vay của NHTM
thường có độ rủi ro cao và ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế. Đây cũng là lý do mà
pháp luật có những quy định rất chặt chẽ về nguyên tắc, quy trình xử lý tài sản bảo
đảm, thông qua đó nhằm bảo vệ quyền và lợi ích cho bên chủ nợ (bên nhận bảo
đảm) và con nợ (bên bảo đảm).
Giải quyết tranh chấp pháp sinh từ hoạt động thế chấp bảo đảm tiền vay tại
NHTM cũng là một vấn đề quan trọng được quy định trong các văn bản pháp luật.
Tuy nhiên trong phạm vi có hạn của đề tài, tác giả sẽ không đi sâu phân tích nội
dung này.
Tóm lại, các nội dung pháp luật quy định liên quan đến biện pháp thế chấp
tài sản bảo đảm tiền vay tại các NHTM đều hướng đến điều chỉnh quan hệ bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ dân sự trong kinh doanh ngân hàng, bảo đảm an toàn, kích thích
cung – cầu vốn, hạn chế tranh chấp, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ
chức, cá nhân tham gia quan hệ thế chấp tài sản bảo đảm tiền vay tại các NHTM.
1.4. Các yếu tố tác động tới pháp luật về thế chấp tài sản bảo đảm tiền vay tại các
ngân hàng thương mại
Trên nguyên tắc, pháp luật về thế chấp tài sản bảo đảm tiền vay được thiết kế
nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi cho bên nhận bảo đảm - bên có quyền trong quan
hệ tín dụng ngân hàng, đồng thời bảo đảm tôn trọng các quyền, lợi ích hợp pháp của
bên bảo đảm - với tư cách là chủ sở hữu tài sản bảo đảm. Vì lẽ đó, nội dung của
pháp luật chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau, trong đó có thể thấy sự ảnh
hưởng rõ rệt nhất từ các yếu tố:
Thứ nhất, các quy định về bảo đảm để thực hiện nghĩa vụ. Có thể thấy những

quan hệ cấp tín dụng dưới hình thức cho vay cũng chỉ là những quan hệ phái sinh từ
các quan hệ dân sự và nó còn chịu sự điều chỉnh của các quy định pháp luật dân sự
liên quan. Và thế chấp tài sản chỉ là một trong những biện pháp bảo đảm tiền vay
bằng tài sản trong kinh doanh ngân hàng. Vì vậy bên cạnh các quy phạm pháp luật
đặc thù trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng, pháp luật về thế chấp tài sản bảo đảm
tiền vay chịu sự chi phối chung của các quy phạm pháp luật dân sự có liên quan, cụ
18


thể là quy định về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
Thứ hai, nhu cầu về cấp tín dụng ngân hàng của nền kinh tế. Trong quá trình
phát triển của nền kinh tế hàng hoá, xuất phát từ nhu cầu đi vay và cho vay giữa
người thiếu vốn và người thừa vốn trong cùng một thời điểm đã hình thành nên
quan hệ vay mượn lẫn nhau trong xã hội và trên cơ sở đó hoạt động tín dụng ra đời.
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động tín dụng là một hoạt động kinh doanh chủ
yếu của NHTM. Đối với Ngân hàng, tín dụng là một trong những nghiệp vụ cơ bản
quan trọng hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, nhằm bổ sung vốn cho các doanh
nghiệp, tổ chức kinh tế và các cá nhân trong xã hội để sản xuất kinh doanh. Đây là
nghiệp vụ sinh lời chủ yếu của NHTM và các NHTM cũng phải luôn mở rộng quy
mô hoạt động tín dụng. Việc áp dụng các biện pháp bảo đảm tiền vay tạo sự yên
tâm cho các bên trong quan hệ nghĩa vụ, vừa giúp khách hàng tiếp cận được nguồn
vốn vay, đồng thời giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng. Các quy định pháp luật cần
phải điều chỉnh để thực sự phát huy hiệu lực khi các bên có thỏa thuận áp dụng và
phù hợp với ý chí nguyện vọng của các bên.
Thứ ba, yêu cầu về bảo đảm an toàn trong kinh doanh ngân hàng. Do đặc
thù trong kinh doanh, hệ thống NHTM đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế,
song luôn tiềm ẩn rủi ro cao và khi rủi ro phát sinh sẽ tác động sâu sắc tới mọi mặt
hoạt động kinh tế - xã hội. Chính vì vậy bảo đảm an toàn trong kinh doanh là một
trong những mục tiêu hàng đầu của NHTM. Các NHTM mở rộng quy mô hoạt động
tín dụng, đồng nghĩa với việc rủi ro tín dụng cũng phát sinh nhiều hơn. Rủi ro tín

dụng là loại rủi ro phức tạp nhất, việc quản lý và phòng ngừa nó rất khó khăn, nó có
thể xảy ra ở bất cứ đâu, bất cứ lúc nào... Rủi ro tín dụng nếu không được phát hiện
và xử lý kịp thời sẽ nảy sinh các rủi ro khác. Chính vì vậy, các ngân hàng càng đề
cao các biện pháp bảo đảm tiền vay nhằm hạn chế rủi ro, nợ xấu, nợ tồn đọng, tránh
gây ảnh hưởng đến hoạt động chung cũng như sự phát triển của ngân hàng. Với yêu
cầu như vậy, đòi hỏi pháp luật phải đề ra những quy định chặt chẽ hơn nữa để hạn
chế và giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực thi pháp luật tại
các ngân hàng.

19


KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Bảo đảm tiền vay bằng tài sản có nguồn gốc từ bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
nói chung trong pháp luật dân sự. Các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản đóng
vai trò quan trọng trong việc hạn chế rủi ro tín dụng cho ngân hàng, nâng cao trách
nhiệm của bên có nghĩa vụ, mang tính chất dự phòng để đảm bảo việc trả nợ vốn vay.
Và thế chấp tài sản là biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản có tính an toàn
cao và được các ngân hàng ưu tiên sử dụng. Thế chấp tài sản được hiểu là việc một
bên dùng tài sản thuộc sở hữu để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên kia
và không chuyển giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp. Sau khi thế chấp, bên có tài
sản vẫn tiếp tục chiếm giữ, quản lý, khai thác tài sản đó, các bên cũng có thể thỏa
thuận giao cho người thứ ba giữ tài sản thế chấp.
Pháp luật về thế chấp tài sản bảo đảm tiền vay là một chế định của pháp luật
dân sự, cùng với sự điều chỉnh của pháp luật chuyên ngành đối với lĩnh vực ngân
hàng. Theo đó, Nhà nước quy định các chủ thể tham gia quan hệ thế chấp tài sản,
các loại tài sản thế chấp, quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ thế chấp
tài sản, hợp đồng và hiệu lực của hợp đồng, xử lý tài sản thế chấp… Trên thực tế,
chế định pháp luật cũng chịu sự chi phối, tác động của nhiều yếu tố như các quy
định chung về biện pháp bảo đảm tiền vay thực hiện nghĩa vụ, nhu vầu về cấp tín

dụng ngân hàng của nền kinh tế, bảo đảm an toàn trong kinh doanh về ngân hàng.

20


×