Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (659.57 KB, 75 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ THỊ BÌNH

HỆ THỐNG HÓA VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
TỪ THỰC TIỄN TỈNH PHÚ THỌ

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số

: 60.38.01.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. Vũ Thư

HÀ NỘI, 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đề tài luận văn “Hệ thống hoá văn bản quy phạm
pháp luật từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ” là công trình nghiên cứu của bản thân
tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn của Phó Giáo sư, Tiến sỹ Học viện
khoa học xã hội. Đề tài luận văn và các kết quả trình bày trong luận văn là
trung thực, chưa từng được công bố dưới bất kỳ hình thức nào.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính xác thực trong nghiên cứu của mình.

Tác giả luận văn



Đỗ Thị Bình


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
Chương 1: Những vấn đề lý luận về hệ thống hóa văn bản quy phạm
pháp luật............................................................................................................. 7
1.1. Khái niệm, đặc điểm và mục đích của hệ thống hóa văn bản quy phạm
pháp luật ............................................................................................................. 7
1.2. Nội dung cơ bản, hình thức và thủ tục hệ thống hóa văn bản quy phạm
pháp luật .............................................................................................................. 15
1.3. Các yếu tố tác động đến hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật................... 21
Chương 2: Thực trạng hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật ở tỉnh Phú
Thọ. ................................................................................................................................... 26
2.1. Tình hình ban hành văn bản quy phạm pháp luật và nhu cầu hệ thống hóa 26
2.2. Thực trạng pháp luật về hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật .......... 29
2.3. Thực tiễn hệ thống hóa Văn bản quy phạm pháp luật hiện nay................... 31
Chương 3: Quan điểm và tăng cường công tác hiệu quả hệ thống hóa
văn bản quy phạm pháp luật ở tỉnh Phú Thọ ................................................ 41
3.1. Các quan điểm nâng cao hiệu quả hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp
luật ...................................................................................................................... 41
3.2. Tăng cường công tác hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật .............. 49
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 62
Tài liệu tham khảo ......................................................................................................... 64
Phụ lục................................................................................................................ 67


MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài
Hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật có vai trò đặc biệt quan
trọng đối với hoạt động quản lý nhà nước, quản lý xã hội, nhất là trong giai
đoạn nhà nước ta đang thực hiện cải cách nền hành chính mà hướng đặc biệt
quan trọng được xác định là cải cách thể chế.
Thời gian qua các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đã ban hành rất
nhiều văn bản quy phạm pháp luật, chính điều đó đã thiết lập một hệ thống
pháp luật khá hoàn chỉnh với nhiều hình thức văn bản khác nhau do nhiều cơ
quan ban hành. Việc các cơ quan ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật
và do nhiều cơ quan nhà nước khác nhau có thẩm quyền ban hành khó tránh
khỏi dẫn đến tình trạng pháp luật chồng chéo, mâu thuẫn, đan xen giữa các
quy định, thậm chí tồn tại những văn bản đã hết hiệu lực nhưng vẫn được thực
hiện trên thực tế. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến những hạn chế, yếu kém
của hệ thống pháp luật, đó là: Cồng kềnh, khó tiếp cận, khó thực hiện, đồng
thời tạo ra nhưng mâu thuẫn, chồng chéo, lỗ hổng trong hệ thống pháp luật.
Vì vậy, hệ thống hóa pháp luật nói chung, hệ thống hóa hóa văn bản pháp luật
là hết sức cần thiết.
Hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật là hoạt động dựa trên những
nguyên tắc khoa học và tiến bộ để hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm tính
thống nhất, đồng bộ và được công khai, minh bạch, thuận tiện cho tổ chức, cá
nhân tra cứu, sử dụng. Hoạt động này nhằm thực hiện nhiệm vụ hết sức quan
trọng được đặt ra đối với Đảng và các cơ quan nhà nước ta trong mục tiêu thực
hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định
hướng đến năm 2020 đặt ra mục tiêu: “Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch...” [2, tr.3].

1



Thực tiễn công tác hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật trên địa
bàn tỉnh Phú Thọ thời gian qua chưa thật sự thống nhất, đồng bộ, đặc biệt là
hệ thống văn bản của các ngành tài chính, tài nguyên môi trường, nội vụ, xây
dựng, công thương. Do việc hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật ở một
số đơn vị còn chậm so với yêu cầu đặt ra; Cán bộ pháp chế ở các Sở, ban,
ngành làm việc theo chế độ kiêm nhiệm; Cán bộ công chức Tư pháp cấp xã
còn hạn chế về năng lực chuyên môn, mặt khác lại liên tục thay đổi, luân
chuyển, điều động, đồng thời phải kiêm nhiệm thêm nhiều nhiệm vụ khác nên
việc thực hiện nhiệm vụ tham mưu giúp UBND trong công tác văn bản nói
chung và hệ thống hóa văn bản nói riêng bị hạn chế; việc thống kê và liệt kê
loại văn bản thuộc hay không thuộc phạm vi rà soát còn nhầm lẫn. Cơ sở vật
chất phục vụ công tác hệ thống hóa văn bản chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Vì vậy, đối với tỉnh Phú Thọ, việc nâng cao hiệu quả hệ thống hóa văn bản
quy phạm pháp luật tại địa phương là vấn đề cấp bách và có ý nghĩa rất thiết
thực trong đòi hỏi chung về hoàn chỉnh hệ thống pháp luật ở nước ta hiện nay.
Từ những trình bày trên đây, tác giả chọn đề tài: “Hệ thống hóa văn bản
Quy phạm pháp luật từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ” làm luận văn thạc sỹ luật
học, chuyên ngành Luật Hiến pháp và Hành chính.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đã có nhiều đề tài, công trình khoa học nghiên cứu xung quanh vấn đề
liên quan đến hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật như: “Kiểm tra xử lý
văn bản quy phạm pháp luật hiện nay” Luận án tiến sỹ Đoàn Thị Tố Uyên Đại học Luật Hà Nội Hội thảo khoa học; “Quy trình xây dựng văn bản luật ở
Việt Nam hiện nay” Luận văn thạc sỹ của Hoàng Kim Liên - Đại học Quốc
Gia Hà Nội; “Công tác hệ thống hóa pháp luật của các cấp chính quyền địa
phương ở Việt Nam hiện nay” đề tài của Đào Trọng Giáp, Hà nội năm 2009;
“Một số nội dung quy định về rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp
luật” Sách của Lê Hồng Sơn - Bộ Tư pháp, năm 2013; “Một số tiêu chí cơ bản

2



để ban hành văn bản QPPL có chất lượng tốt” tạp chí của Đỗ Ngọc Hải - Tạp
chí Dân chủ và pháp luật, số 5 năm 2008; Tập bài giảng về nhà nước và pháp
luật năm 2013 của Học viện chính trị khu vực I …Nhìn chung các đề tài, luận
văn, sách, tạp chí mới đáp ứng những mục đích, yêu cầu nghiên cứu khác
nhau nên chỉ xem xét và giới hạn ở những khía cạnh nhất định. Một số đề tài,
sách được tác giả phân tích về vấn đề hệ thống hóa văn bản theo Nghị định số
16/2013/NĐ-CP ngày 06/02/2013 của Chính phủ về rà soát, hệ thống hóa văn
bản quy phạm pháp luật và Thông tư số 09/2013/TT-BTP ngày 15/6/2013 của
Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chi tiết thi hành Nghị định số 16/2013/NĐCP ngày 06/02/2013 của Chính phủ về rà soát, hệ thống hóa văn bản quy
phạm pháp luật. Bên cạnh đó còn một số văn bản của Trung ương, chỉ đạo,
hướng dẫn thực hiện xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, như: Nghị
quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010 và định hướng đến năm
2020; Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020.
Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có một nghiên cứu nào nghiên cứu một
cách hệ thống, tập trung, toàn diện về hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp
luật tại địa bàn tỉnh Phú Thọ. Do đó, việc nghiên cứu một cách đầy đủ về lý
luận và đặc biệt là thực tiễn hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật trên địa
bàn tỉnh Phú Thọ theo Nghị định 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính
Phủ (thay thế Nghị định số 16/2013/NĐ-CP ngày 06/02/2013 của Chính phủ)
là việc làm cần thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận về hệ thống hóa văn bản quy
phạm pháp luật và thực trạng hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật tại
tỉnh Phú Thọ, luận văn đề xuất các kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp

3



luật và hoàn thiện các cơ chế, biện pháp tổ chức thực hiện nhằm nâng cao
chất lượng công tác hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật trên địa bàn
tỉnh phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và chiến
lược xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam từ nay đến năm 2020.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện được mục đích trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu khái quát những vấn đề lý luận về hệ thống hóa văn bản
quy phạm pháp luật và áp dụng thực hiện hệ thống hóa trong Luật Ban hành
văn bản quy phạm pháp luật, làm rõ bản chất của hệ thống hóa văn bản quy
phạm pháp luật.
- Phân tích, đánh giá tình hình hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật ở
tỉnh Phú Thọ từ năm 2013 đến 2017, những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân.
- Đề xuất quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hệ thống hóa
văn bản quy phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu.
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn hệ
thống hóa văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương vùng nông thôn với cả
ba cấp chính quyền tỉnh, huyện, xã.
Khái niệm hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật trên được luận
văn sử dụng theo Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính
phủ. Thực chất đây là hình thức tập hợp hóa pháp luật chính thức.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng hệ thống hóa văn bản quy phạm
pháp luật trên địa bàn tỉnh Phú Thọ với các tài liệu liên quan và hồ sơ tập hệ
thống hóa lưu giữ tại UBND các cấp và Sở Tư pháp tỉnh Phú Thọ.
Các số liệu liên quan đến đề tài là số liệu thống kê, báo cáo hàng năm và
theo giai đoạn của UBND tỉnh Phú Thọ từ năm 2013 đến 2017.


4


5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Cơ sở lý luận của việc nghiên cứu luận văn dựa trên quan điểm của chủ
nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật XHCN,
các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật, các thành tựu khoa học pháp lý về hệ thống hóa pháp luật.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong luận văn là
phương pháp hệ thống, phân tích, tổng hợp, so sánh, logic, dự báo và phương
pháp thống kê…
Việc nghiên cứu luận văn còn dựa vào việc khảo sát thực tiễn hoạt
động áp dụng pháp luật cho hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật trên địa
bàn tỉnh Phú Thọ.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn làm rõ cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn và những giải pháp hoàn
thiện trong hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật ở giai đoạn hiện nay tại
địa phương. Kết quả nghiên cứu góp phần bổ sung, hoàn thiện lý luận về hệ
thống hóa văn bản quy phạm pháp luật và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu
quả hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật.
Kết quả nghiên cứu có thể là tài liệu tham khảo để các cơ quan trên địa
bàn tỉnh Phú Thọ và cả các địa phương khác sử dụng làm tài liệu tham khảo
trong quá trình nghiên cứu hoàn thiện các quy định pháp luật về hệ thống hóa
văn bản quy phạm pháp luật.
Kết quả nghiên cứu cũng đồng thời là tài liệu phục hữu ích cho việc
nghiên cứu và học tập.
7. Cơ cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn có cơ cấu ba chương như sau:

5


Chương 1: Những vấn đề lý luận về hệ thống hóa văn bản quy phạm
pháp luật
Chương 2: Thực trạng hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật ở tỉnh
Phú Thọ.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả hệ thống hóa
văn bản quy phạm pháp luật ở tỉnh Phú Thọ

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỆ THỐNG HÓA
VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT

1.1. Khái niệm, đặc điểm và mục đích của hệ thống hóa văn bản
quy phạm pháp luật
1.1.1. Nhận thức chung về văn bản quy phạm pháp luật
1.1.1.1. Khái niệm văn bản quy phạm pháp luật
Theo nhận thức chung về pháp luật hiện nay, hệ thống pháp luật nói
chung được chia ra thành các ngành luật. Ngành luật bao gồm tổng thể các
điều chỉnh một lĩnh vực quan hệ xã hội nhất định có các tính chất, đặc điểm
chung. Chẳng hạn, ngành luật hành chính, ngành luật dân sự, ngành luật tố
tụng dân sự, v.v. Mỗi ngành luật lại chứa đựng các chế pháp luật mà mỗi chế
định bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh nhóm quan hệ xã

hội cùng tính chất, đặc điểm, ví dụ, các chế định Ủy ban nhân dân, trách
nhiệm hành chính, chế định khiếu nại…trong ngành luật hành chính. Như thế,
trong hệ thống pháp luật, quy phạm pháp luật là tế bào cơ sở của hệ thống,
gồm các bộ phận cấu thành là giả định, quy định, chế tài, trong đó, quy định
là hạt nhân của quy phạm pháp luật.
Các quy phạm pháp luật này được ghi nhận trong các văn bản quy
phạm pháp luật và văn bản chứa đựng nó được gọi là văn bản quy phạm pháp
luật. Văn bản quy phạm pháp luật có thể bao gồm các quy phạm của một
ngành luật (ví dụ Bộ luật tố tụng dân sự), nhưng có thể chỉ là các quy định về
bộ phận hay phần nào đấy của một ngành luật, một chế định pháp luật. Khái
niệm văn bản quy phạm pháp luật đã được quy định lần đầu trong Luật Ban
hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996, sau đó tiếp tục được quy định
với một số điểm thay đổi trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2002; hai văn bản Luật ban hành

7


văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 và Luật ban hành văn bản quy phạm
pháp luật của HĐND và UBND năm 2004 và các nghị định hướng dẫn thi
hành. Mặc dù đã có một số sửa đổi, bổ sung qua các thời kỳ, nhưng về cơ bản,
khái niệm văn bản quy phạm pháp luật được xác định trong hai luật vừa nêu
với các đặc trưng: Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà
nước ban hành hoặc phối hợp ban hành theo thẩm quyền; Văn bản quy phạm
pháp luật chứa đựng các quy tắc xử sự có hiệu lực bắt buộc chung để điều
chỉnh các quan hệ xã hội; Hình thức, trình tự, thủ tục ban hành văn bản theo
quy định của luật; Văn bản quy phạm pháp luật được Nhà nước bảo đảm thực
hiện. Với những dấu hiệu đặc trưng trên, khái niệm văn bản quy phạm pháp
luật tưởng như đã rất rõ ràng, nhưng trong thực tế lại dẫn đến tình trạng nhiều
cơ quan nhà nước hiểu và vận dụng khái niệm thiếu thống nhất, thậm chí gặp

nhiều khó khăn, lúng túng như: việc nhận diện và phân biệt giữa văn bản quy
phạm pháp luật và văn bản khác không có tính quy phạm, nhiều chủ thể còn
nhầm lẫn giữa văn bản quy phạm pháp luật với các văn bản hành chính; có
văn bản tuy có hình thức (tên gọi) là văn bản quy phạm pháp luật nhưng
không chứa quy phạm pháp luật; có văn bản hành chính được coi là văn bản
áp dụng trong hoạt động quản lý nhà nước, nhưng lại chứa các quy tắc xử sự
chung có hiệu lực bắt buộc thực hiện đối với các cá nhân, cơ quan, tổ chức …
[10, tr.14 - 16].

Để phân biệt rõ hơn văn bản quy phạm pháp luật với văn bản hành
chính khác, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 đã làm rõ
khái niệm “quy phạm pháp luật” và “văn bản quy phạm pháp luật” tránh
những nhận thức sai trong thực tiễn như đã nêu ở trên, đồng thời để phân biệt
được văn bản quy phạm pháp luật với văn bản hành chính, các văn bản pháp
luật khác và văn bản áp dụng pháp luật. Theo đó, điều 2 Luật ban hành văn
bản quy phạm pháp luật năm 2015 ghi: Văn bản quy phạm pháp luật là văn
bản có chứa quy phạm pháp luật, được ban hành theo đúng thẩm quyền, hình

8


thức, trình tự, thủ tục quy định trong Luật này; Văn bản có chứa quy phạm
pháp luật nhưng được ban hành không đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự,
thủ tục quy định trong Luật này thì không phải là văn bản quy phạm pháp
luật. Trong đó, quy phạm pháp luật quy định tại Điều 3 Luật ban hành văn
bản quy phạm pháp luật năm 2015 được hiểu là: quy phạm pháp luật là quy
tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, được áp dụng lặp đi lặp lại
nhiều lần đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi cả nước hoặc đơn
vị hành chính nhất định, do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền quy định
trong Luật này ban hành và được Nhà nước bảo đảm thực hiện [14, tr.1].

Có thể nói các quy định trên đây là các khái niệm thể hiện tính khoa
học, là kết quả của sự tổng kết thực tiễn cũng như kết quả được thừa nhận
chung trong khoa học pháp lý nước ta từ hàng chục năm qua. Theo định nghĩa
trên, để xác định một văn bản pháp luật là văn bản quy phạm pháp luật cần
phải xác định dấu hiệu: Cơ quan có thẩm quyền ban hành, trình tự, thủ tục
ban hành, khẳng định quy phạm pháp luật được Nhà nước bảo đảm thực hiện,
được thực hiện nhiều lần với mọi đối tượng hoặc một nhóm đối tượng.
1.1.1.2. Đặc điểm và chức năng của văn bản quy phạm pháp luật
Với tính cách là văn bản quy phạm pháp luật, văn bản này khác với các
văn bản có tính quy phạm như văn bản chính trị ở nội dung hàm chứa trong
nó có các đặc điểm của pháp luật, nhưng, bản thân nó còn chứa đựng các đặc
điểm cơ bản:
Thứ nhất, là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành;
Thứ hai, là văn bản chứa đựng các quy tắc xử sự chung (các quy phạm
pháp luật);
Thứ ba, Được áp dụng nhiều lần trong đời sống, được áp dụng trong
mọi trường hợp khi có sự kiện pháp lí xảy ra;
Thứ tư, Tên gọi, nội dung và trình tự ban hành các loại văn bản QPPL
được quy định cụ thể trong pháp luật.

9


Với nội dung chứa đựng trong đó là các văn bản quy phạm pháp luật,
văn bản quy phạm pháp luật có các chức năng cơ bản đó là: Chức năng giáo
dục và Chức năng bảo vệ.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm và mục đích của hệ thống hóa văn bản
quy phạm pháp luật
1.1.2.1. Khái niệm hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật
Hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật là khái niệm được sử dụng

khá rộng rãi trong sách báo khoa học pháp lý ở trong nước và ngoài nước.
Trong tiếng Việt, hệ thống hoá hiểu là “làm cho nó trở nên có hệ thống”. Từ
đó có thể hiểu hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật là làm cho văn bản
pháp luật trở nên có hệ thống, hệ thống hoá có thể được tiến hành theo nhiều
cách thức khác nhau tùy theo mục đích của người hệ thống hoá. Song dù ở
cách nào thì người hệ thống cũng phải thu thập, sắp xếp các quy phạm pháp
luật theo một trật tự nhất định, làm chúng có hệ thống. Ở nước ta, hệ thống
hóa văn bản pháp luật được quy định tại Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày
14/5/2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành
Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Theo tinh thần và nội dung của
Nghị định thì có thể hiểu hệ thống hoá và hệ thống văn bản quy phạm pháp
luật như sau: Hệ thống hóa là sự sắp xếp các văn bản quy phạm pháp luật
thành một tổng thể hoàn chỉnh, trong đó các văn bản quy phạm pháp luật đơn
lẻ hoặc các quy phạm pháp luật nằm rải rác trong nhiều văn bản được sắp
xếp lại với nhau theo một trật tự trên dưới, trước sau, thể hiện tính thống nhất
nội tại, tính nhất quán, logic và khoa học [8, tr.18 - 20].
Về nội dung, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật là việc tập hợp,
sắp xếp các văn bản quy phạm pháp luật đã được rà soát, xác định còn hiệu
lực theo các tiêu chí sắp xếp văn bản lĩnh vực quản lý nhà nước, thứ bậc hiệu
lực của văn bản, trình tự thời gian ban hành văn bản và các tiêu chí khác phù
hợp với yêu cầu quản lý nhà nước được quy định.

10


Trong nhận thức lý luận chung trong khoa học pháp lý hiện nay, hệ
thống hóa pháp luật là một trong những mặt hoạt động cơ bản đặc thù của nhà
nước. Việc ban hành được các văn bản qui phạm pháp luật phản ánh đúng
những nhu cầu khách quan của toàn xã hội cần được điều chỉnh bằng pháp
luật là vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với chất lượng và hiệu quả của quản

lý nhà nước, từ đó hệ thống hóa pháp luật được hiểu là hoạt động nhằm sắp
xếp, hoàn thiện các quy phạm pháp luật, văn bản pháp luật thành hệ thống có
sự thống nhất nội tại theo một trình tự nhất định. Hệ thống hóa pháp luật có
hai cấp độ là tập hợp hóa và pháp điển hóa. Cụ thể như sau:
Tập hợp hóa là hình thức thu thập, sắp xếp các quy phạm pháp luật và các
văn bản quy phạm pháp luật theo một trật tự nhất định để làm hình thành nên một
tập hợp các quy định của pháp luật. Tập hợp hoá, pháp luật được hiểu theo hai
nghĩa là tập hợp hóa chính thức và tập hợp hóa không chính thức.
Tập hợp hóa chính thức tuy cũng có các đặc điểm như tập hợp hóa
không chính thức là không làm thay đổi nội dung và hình thức của quy phạm
pháp luật và các văn bản quy phạm pháp luật được thu thập không làm xuất
hiện các quy phạm pháp luật, chế định pháp luật và các khái niệm pháp lý
mới, nhưng việc tập hợp được thực hiện bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Kết quả của việc tập hợp hóa có thể là tập văn bản quy phạm. Việc tập hợp
hóa có thể để phục vụ việc áp dụng, thực hiện pháp luật, việc phổ biến, giáo
dục pháp luật, việc xây dựng pháp luật. Trong trường hợp để xây dựng pháp
luật thì tập hợp hóa chỉ là một công đoạn trong quá trình xây dựng và ban
hành một văn bản quy phạm pháp luật mới để thay thế các văn bản cũ. Tập
hợp hóa pháp luật chính thức có giá trị pháp lý.
Tập hợp hoá không chính thức được hiểu là tất cả các hoạt động thu
thập, sắp xếp các quy định của pháp luật theo trật tự nhằm phục vụ cho việc
áp dụng, phổ biến, nghiên cứu...pháp luật. Theo nghĩa này tập hợp hoá có các
đặc điểm như: Việc tập hợp hoá không làm thay đổi nội dung và hình thức

11


của quy phạm pháp luật và các văn bản quy phạm pháp luật được thu thập
không làm xuất hiện các quy phạm pháp luật, chế định pháp luật và các khái
niệm pháp lý mới. Bởi vì các quy định và các văn bản quy phạm pháp luật khi

đưa vào tập hợp các quy định của pháp luật phải được sao chép nguyên văn.
Kết quả của tập hợp hoá là hình thành nên một tập hợp các quy định của pháp
luật, nên chủ thể tiến hành tập hợp hoá pháp luật có thể là bất kỳ tổ chức cá
nhân nào trong xã hội.
Pháp điển hóa là hình thức cao nhất của hệ thống hoá pháp luật theo đó
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành tập hợp, sắp xếp những văn
bản đã có theo một trình tự nhất định; đồng thời loại bỏ những quy phạm
pháp luật lỗi thời, lạc hậu, chồng chéo, xây dựng những quy phạm pháp luật
mới; khắc phục những chỗ trống đã được phát hiện trong quá trình tập hợp
văn bản, sửa đổi các quy phạm pháp luật hiện hành nhằm nâng cao hiệu lực
pháp lý của chúng. Do vậy, kết quả của công tác pháp điển hoá để ra đời văn
bản pháp luật mới thường là Luật, bộ luật, trong đó thể hiện một cách cơ bản
nội dung của vấn đề mà pháp luật cần điều chỉnh. Nhờ đó, sau khi pháp điển
hoá, chúng ta có một văn bản không những lớn về phạm vi điều chỉnh mà còn
có cơ cấu bên trong hợp lý và khoa học. Việc pháp điển hoá sẽ tạo ra một hệ
thống pháp luật toàn diện, đồng bộ và thống nhất. Đây chính là những tiêu chí
quan trọng để đánh giá mức độ hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Tập hợp hoá và pháp điển hoá có mối liên hệ mật thiết với nhau: Tập
hợp hoá tạo cơ sở và điều kiện cho pháp điển hoá được tiến hành nhanh hơn
và hiệu quả hơn, xét ở góc độ của quá trình pháp điển hoá thì tập hợp hoá là
một giai đoạn của pháp điển hoá, ngược lại pháp điển hoá lại hỗ trợ cho tập
hợp hoá, làm cho tập hợp hoá tiến hành thuận lợi và đạt kết quả cao hơn. Hoạt
động hệ thống hoá pháp luật có ý nghĩa rất quan trọng. Vì vậy nó cần được
tiến hành thường xuyên, liên tục với việc sử dụng hài hoà cả hai phương pháp
trên mà không thể coi nhẹ một phương pháp nào.

12


Xét về bản chất, hệ thống hóa văn bản pháp luật theo Nghị định

34/2016/NĐ-CP của Chính phủ đang có hiệu lực thi hành là tập hợp hóa
chính thức. Đó là việc tập hợp, sắp xếp các văn bản quy phạm pháp luật đã
được rà soát, xác định còn hiệu lực theo các tiêu chí như: Lĩnh vực quản lý
nhà nước của cơ quan hoặc lĩnh vực do cơ quan hệ thống hóa quyết định; Thứ
tự văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn đến văn bản có hiệu lực pháp lý thấp
hơn; Thứ tự thời gian ban hành văn bản từ văn bản được ban hành trước đến
văn bản được ban hành sau; Tiêu chí khác phù hợp với yêu cầu quản lý nhà
nước chính là hình thức tập hợp hóa chính thức.
1.1.2.2. Đặc điểm của hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật
Thứ nhất, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật là hoạt động chú
trọng vào việc liên kết và sắp xếp các văn bản quy phạm pháp luật theo các
dấu hiệu bên ngoài của chúng mà không làm thay đổi nội dung của các văn
bản quy phạm pháp luật.
Thứ hai, việc tập hợp, sắp xếp văn bản quy phạm pháp luật còn hiệu lực
đã được công bố theo các tiêu chí: Lĩnh vực quản lý nhà nước của cơ quan
hoặc lĩnh vực do cơ quan hệ thống hóa quyết định; Thứ tự văn bản có hiệu lực
pháp lý cao hơn đến văn bản có hiệu lực pháp lý thấp hơn; Thứ tự thời gian
ban hành văn bản từ văn bản được ban hành trước đến văn bản được ban hành
sau. Đồng thời phân loại từng nhóm văn bản quy phạm pháp luật theo các
danh mục: Danh mục các văn bản quy phạm pháp luật còn hiệu lực thi hành;
Danh mục các văn bản quy phạm pháp luật đang còn hiệu lực, nhưng trong
các văn bản đó có những quy định cần sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ; Danh
mục văn bản quy phạm pháp luật ban hành sai thẩm quyền; Danh mục văn
bản quy phạm pháp luật đã hết hiệu lực, đã bị bãi bỏ hoặc phải thay thế.
Trong các danh mục thì những văn bản còn hiệu lực được phân theo lĩnh vực,
theo thẩm quyền ban hành hoặc theo thời gian.

13



Thứ ba, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật là hoạt động được
chính thức quy định trong văn bản pháp luật và được tiến hành bởi cơ quan có
thẩm quyền theo các thủ tục pháp lý nhất định.
1.1.2.3. Phân loại hệ thống hóa
Các văn bản được thu thập, tập hợp cần lập danh mục và phân loại một
cách khoa học, hợp lý để tiếp tục thực hiện quy trình rà soát, hệ thống hoá là
đọc, nghiên cứu và xử lý văn bản. Việc phân loại phải dựa vào các tiêu chí:
Tiêu chí thứ nhất: Lĩnh vực quản lý nhà nước của cơ quan hoặc lĩnh vực
do cơ quan hệ thống hóa quyết định. Đây là tiêu chí quan trọng nhất. Căn cứ
vào tiêu chí này có thể phân chia các văn bản quy phạm pháp luật theo lĩnh
vực. Tuy nhiên, sự phân chia này cũng chỉ có tính chất tương đối.
Tiêu chí thứ hai: Thứ tự văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn đến văn
bản có hiệu lực pháp lý thấp hơn, bởi vì trong mỗi lĩnh vực của đời sống xã
hội có nhiều văn bản của các cấp khác nhau ban hành. Ví dụ: Trong lĩnh vực
quản lý đất đai có Luật đất đai do Quốc hội ban hành; Nghị định của Chính
phủ; Thông tư hướng dẫn của Tổng cục Địa chính; các văn bản khác của
ngành, ban liên quan; các quyết định của UBND tỉnh, của UBND huyện về
vấn đề đất đai... Vì vậy, các văn bản trong lĩnh vực quản lý đất đai phải sắp
xếp theo thứ tự Luật, Nghị định, Nghị quyết, Chỉ thị , Thông tư...
Tiêu chí thứ ba: Thứ tự thời gian ban hành văn bản từ văn bản được ban
hành trước đến văn bản được ban hành sau theo năm, theo tháng trong năm
(từ tháng 1 đến tháng 12), theo ngày trong một tháng (từ ngày 1 đến ngày cuối
cùng của tháng) hoặc theo số văn bản trong một ngày (nếu một cơ quan ban
hành nhiều văn bản trong một ngày về cùng một lĩnh vực). Về trật tự thời gian
đa số văn bản đều ghi ngày, tháng, năm ngay ở trang đầu của văn bản, nhưng
có một số văn bản lại ghi ngày, tháng, năm ở phần kết thúc. Có trường hợp
ngày ra văn bản đồng thời là ngày văn bản có hiệu lực, nhưng lại có văn bản
mà hiệu lực thi hành lại được quy định sau. Ngoài ra, có trường hợp ngày ban

14



hành văn bản khác với ngày công bố văn bản đó. Vì vậy, khi sắp xếp cần có
một tiêu chí thống nhất: lấy ngày ban hành văn bản làm tiêu chí sắp xếp. Việc
sắp xếp văn bản theo trật tự thời gian ngoài mục đích tìm và phân loại dễ dàng
khi rà soát, còn có ý nghĩa quan trọng trong việc đặt “mốc” đối chiếu với các
văn bản khác để xem xét hiệu lực về thời gian của các văn bản có liên quan.
Tiêu chí khác: sắp xếp văn bản theo Alfabet, tức là theo thứ tự trong
bảng chữ cái tiếng Việt (A. B. C). Trong trường hợp một cơ quan có thẩm
quyền ban hành hai hay nhiều văn bản về cùng một lĩnh vực, thì sắp xếp văn
bản có chữ cái đứng trước, rồi đến văn bản có chữ cái đứng sau [7, tr.84].
1.1.2.4. Mục đích của hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật
Việc hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật có thể nhằm các mục
đích khác nhau, trong quá trình xây dựng pháp luật việc hệ thống hoá văn bản
ngày càng đầy đủ, đồng bộ, hoàn thiện thì mục đích cơ bản của hệ thống hóa
văn bản quy phạm pháp luật là:
Tạo ra một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật cân đối, hoàn chỉnh,
thống nhất, trong đó các văn bản luật giữ vai trò đặc biệt, quan trọng của hệ thống
văn bản quy phạm pháp luật và đối với sự điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Khắc phục tình trạng trùng lặp, chồng chéo mâu thuẫn, lạc hậu, thiếu hoặc
thừa quy phạm pháp luật. Làm cho nội dung của văn bản pháp luật phù hợp với
những yêu cầu của đời sống, có hình thức rõ ràng dễ hiểu, tiện sử dụng.
Công bố Tập hệ thống hóa văn bản còn hiệu lực và các danh mục văn
bản quy phạm pháp luật.
1.2. Nội dung cơ bản, hình thức và thủ tục hệ thống hóa văn bản
quy phạm pháp luật
1.2.1. Nội dung cơ bản của hệ thống hóa Văn bản quy phạm pháp luật
Theo quy định tại Điều 165 NĐ 34/2016/NĐ-CP, muốn hệ thống hóa
Văn bản quy phạm pháp luật cần:


15


1.2.1.1. Tập hợp các văn bản thuộc đối tượng hệ thống hóa
Văn bản và kết quả rà soát văn bản để phục vụ hệ thống hóa phải được
tập hợp đầy đủ để làm cơ sở xác định văn bản thuộc đối tượng, phạm vi hệ
thống hóa. Việc thu thập và tập hợp văn bản được tiến hành trên cơ sở mục
đích yêu cầu, đối tượng và phạm vi của công tác hệ thống hóa văn bản quy
phạm pháp luật. Nhiệm vụ của công đoạn này là tìm kiếm và thu thập tất cả
các văn bản thuộc đối tượng rà soát để hệ thống hóa đã được xác định với các
yêu cầu cụ thể là: thu thập đúng những văn bản quy phạm pháp luật cần rà
soát; Không để sót văn bản hoặc để sót các quy phạm pháp luật trong từng
văn bản; Tập hợp các văn bản quy phạm pháp luật theo những tiêu chí đã xác
định có sự phối hợp, kết hợp chặt chẽ giữa người thu thập với người lưu trữ
văn bản dưới sự chỉ đạo thống nhất của cơ quan có thẩm quyền.
Việc thu thập và tập hợp văn bản cần được tiến hành trên cơ sở nguồn
chính thức của văn bản quy phạm pháp luật và các nguồn khác.
Nguồn chính thức của văn bản quy phạm pháp luật gồm:
- Văn bản ở bộ phận lưu trữ của cơ quan ban hành - bản gốc (hay bản
chính), tức là văn bản có dấu và chữ ký của người có thẩm quyền. Ví dụ
Quyết định số 09/2017/QĐ-UBND ngày 12/4/2017 của UBND tỉnh Phú Thọ
về việc ban hành cơ chế đặc thù thu hút đầu tư tại Khu công nghiệp Phú Hà,
thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ có chữ ký và dấu đỏ của Chủ tịch UBND tỉnh ở
phần chức vụ của người ký, ban hành văn bản.
- Công báo (công báo in, công báo điện tử), Phụ lục Công báo tỉnh đã
đăng văn bản quy phạm pháp luật.
- Các văn bản lữu giữ ở Cơ sở dữ liệu Quốc gia về pháp luật.
- Bản gốc (bản chính) ở bộ phận lưu trữ của các cơ quan, tổ chức có
liên quan đến việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật của ngành mình,
đã tham mưu cho HĐND và UBND tỉnh ban hành.

- Văn bản lưu giữ trong mạng của Bộ Tư pháp và các cơ quan khác.

16


- Văn bản trong các Tập hệ thống hoá văn bản của tỉnh.
Các nguồn khác bao gồm:
- Văn bản đăng trên các báo chí của tỉnh (nguồn văn bản này đôi khi
cũng cần được sử dụng như là nguồn chính thức vì không phải lúc nào cũng
có thể có được đầy đủ bản gốc do lưu trữ kém, do thiên tai lũ lụt, hỏa hoạn mà
các văn bản của nguồn chính thức không còn lưu giữ được).
- Đĩa CD do Sở Tư pháp phát hành về danh mục và văn bản quy phạm
pháp luật từ năm 1945 đến thời điểm tiến hành rà soát, hệ thống hóa. Các đĩa
CD này cần được coi là nguồn chính thức của văn bản.
Lưu ý :
- Khi thu thập văn bản cần tập hợp cả các văn bản mà xét về hình thức,
không phải là văn bản quy phạm pháp luật, nhưng lại chứa đựng các quy
phạm pháp luật do các cơ quan có thẩm quyền ban hành và thực tiễn được áp
dụng như là văn bản quy phạm pháp luật, ví dụ: Quyết định số 3356/QĐUBND ngày 25/10/2010 Về mức trợ giúp cho các đối tượng thuộc diện bảo
trợ xã hội trên địa bàn tỉnh Phú Thọ; Quyết định số 4035/QĐ-UBND ngày
30/12/2008 Về việc quy định các khu vực khi xây dựng, lắp đặt trạm thu, phát
sóng thông tin di động loại 2 trên địa bàn tỉnh Phú Thọ phải xin giấy phép
xây dựng …
- Cần tìm văn bản gốc (bản chính) là văn bản hoàn chỉnh đúng thể thức
và đầy đủ hiệu lực pháp lý, là chứng cứ lịch sử tin cậy, là bản cơ sở (bản gốc)
để làm ra các bản sao. Công báo có thể lấy ở Thư viện, Tủ sách của các cơ
quan, tổ chức, Tủ sách pháp luật xã, phường, thị trấn. Hàng năm, Công báo có
đăng Tổng mục lục văn bản theo thứ tự thời gian, vì vậy, cần đối chiếu tổng
mục lục đó với toàn bộ số Công báo trong năm. Việc tìm kiếm, tập hợp văn
bản quy phạm pháp luật trên mạng điện tử cũng cần tiến hành như vậy.

- Bản sao là bản sao lại nguyên văn bản chính, trong đó cần phần
biệt sao y , sao lục và trích sao.

17


+ Sao y là bản sao lại nguyên văn bản chính do cơ quan làm ra văn bản
đó thực hiện. Ví dụ Chánh văn phòng UBND tỉnh ký sao y bản chính Quyết
định số 3356/QĐ-UBND ngày 25/10/2010 của UBND tỉnh Phú Thọ Về mức
trợ giúp cho các đối tượng thuộc diện bảo trợ xã hội trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
+ Sao lục là văn bản sao lại nguyên văn bản chính của cơ quan khác do
cơ quan nhận văn bản thực hiện. Ví dụ: Sở Tư pháp sao lục Quyết định số
1977/QĐ-UBND ngày 15/4/2015 của UBND tỉnh Phú Thọ về chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Sở Tư pháp.
+ Trích sao : là sao lại một phần của văn bản (sao đúng nguyên văn của
đoạn cần trích sao của văn bản).
- Việc sao văn bản dù dưới hình thức nào cũng phải thể hiện đầy đủ thể
thức quy định của một văn bản, phải có số, ngày, tháng, cơ quan sao, chữ ký
của người có thẩm quyền và dấu của cơ quan sao văn bản.
- Việc tìm kiếm, thu thập văn bản rất cần đến sự phối hợp với các cơ
quan ban hành văn bản, các bộ phận lưu trữ để được cung cấp đầy đủ các văn
bản cần thiết. Khi đã tập hợp được đầy đủ các văn bản cần thiết, thì tiến hành
tổng hợp, phân loại.
1.2.1.2. Kiểm tra lại kết quả rà soát văn bản và rà soát bổ sung
Kết quả rà soát văn bản quy phạm pháp luật để hệ thống hóa phải được
kiểm tra lại để bảo đảm tính chính xác về hiệu lực của văn bản tính đến thời
điểm hệ thống hóa. Trường hợp kết quả rà soát văn bản phản ánh không cập
nhật tình trạng pháp lý của văn bản hoặc phát hiện văn bản chưa được rà soát
theo quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền rà soát phải tiến hành rà soát
ngay để đưa vào tập hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật. Trên cơ sở kết

quả rà soát văn bản đã được kiểm tra lại và được rà soát bổ sung, người thực
hiện hệ thống hóa văn bản xác định các văn bản thuộc đối tượng hệ thống
hóa, gồm: văn bản trong Tập hệ thống hóa của kỳ hệ thống hóa trước đã được
rà soát xác định còn hiệu lực, văn bản được ban hành trong kỳ hệ thống hóa

18


hiện tại đã được rà soát xác định còn hiệu lực, văn bản được ban hành trong
kỳ hệ thống hóa hiện tại nhưng chưa có hiệu lực tính đến thời điểm hệ thống
hóa được đưa vào danh mục văn bản để thực hiện hệ thống hóa.
1.2.1.3. Sắp xếp các văn bản còn hiệu lực theo các tiêu chí
Trên cơ sở Danh mục văn bản còn hiệu lực sắp xếp các văn bản thành
Tập hệ thống hóa văn bản theo các tiêu chí:
Lĩnh vực quản lý nhà nước của cơ quan hoặc lĩnh vực do cơ quan hệ
thống hóa quyết định.
Thứ tự văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn đến văn bản có hiệu lực
pháp lý thấp hơn.
Thứ tự thời gian ban hành văn bản theo từng loại từ văn bản được ban
hành trước đến văn bản được ban hành sau.
Việc sắp sếp văn bản và danh mục văn bản theo các tiêu chí cụ thể trên
nhằm đảm bảo tính khoa học, tính hệ thống, thuận lợi trong tìm kiếm, tra cứu,
khai thác, sử dụng, thiết thực trong công tác chuyên môn nghiệp vụ và phù
hợp với yêu cầu quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực.
1.2.1.4. Công bố các danh mục văn bản và tập hệ thống hóa văn bản
còn hiệu lực
- Kết quả hệ thống hóa văn bản được trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân
các cấp công bố bằng Quyết định hành chính kèm theo danh mục văn bản:
Danh mục văn bản quy phạm pháp luật còn hiệu lực, gồm cả văn bản
quy phạm pháp luật hết hiệu lực một phần và văn bản chưa có hiệu lực tính

đến thời điểm hệ thống hóa;
Danh mục văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực, ngưng hiệu lực
toàn bộ;
Danh mục văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực, ngưng hiệu lực
một phần;

19


Danh mục văn bản quy phạm pháp luật cần đình chỉ thi hành, ngưng
hiệu lực, sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc ban hành mới.
Sau khi công bố, phát hiện các danh mục văn bản và Tập hệ thống hóa
văn bản còn hiệu lực có sai sót thì tiến hành rà soát lại và đính chính.
- Quyết định công bố các danh mục văn bản và tập hệ thống hóa văn
bản còn hiệu lực được gửi đến các cơ quan, đơn vị và đăng trên Cổng thông
tin hoặc Trang thông tin điện tử của cơ quan hệ thống hóa văn bản, đồng thời
bản phát hành Tập hệ thống hóa văn bản bằng hình thức văn bản giấy.
- Danh mục văn bản hết hiệu lực, ngưng hiệu lực cấp tỉnh phải được
đăng Công báo. Danh mục văn bản hết hiệu lực, ngưng hiệu lực ở cấp huyện
và cấp xã phải được niêm yết tại trụ sở UBND nơi rà soát [7, tr.81].
1.2.2. Hình thức thể hiện và thủ tục của hệ thống hóa văn bản quy
phạm pháp luật
Kết quả hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật thể hiện dưới các
hình thức sau đây:
- Tập hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật được phát hành bằng
hình thức văn bản giấy để tiện tra cứu, sử dụng lâu dài. Tuy nhiên, đòi hởi
thực hiện được bằng hình thức này thì phải có nguồn kinh phí lớn.
- Cơ quan ban hành nén tập văn bản vào đĩa DVD cấp phát đến cơ
quan, người sử dụng. Hình thức này được sử dụng không phổ biến vì các cơ
quan, tổ chức ít sử dụng đầu đĩa.

- Đăng trên các trang, cổng thông tin điện tử hoặc Trang thông tin điện
tử của cơ quan hệ thống hóa văn bản. Hình thức này là tiện sử dụng nhất và
đang được các cơ quan, tổ chức, cá nhân khai thác sử dụng nhiều nhất.
- Đăng trên hệ thống công báo. Đây là nguồn văn bản được nhiều cơ
quan, ban ngành khai thác sử dụng, tuy nhiên với hệ thống công báo lớn như
vậy đòi hỏi nguồn kính phí phải đảm bảo thực hiện.

20


Để có được kết quả trên đây, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật
phải được tiến hành theo các thủ tục dưới đây:
- Lập kế hoạch hệ thống hóa văn bản, trong kế hoạch cần quy định cụ
thể nội dung phân công trách nhiệm, thời gian thực hiện, thời gian hoàn
thành, thời gian phát hành tập hệ thống hóa văn bản, đối tượng phát hành.
- Tập hợp văn bản quy phạm pháp luật còn hiệu lực đã được công bố
văn bản còn hiệu lực đến thời điểm hệ thống hóa, văn bản được ban hành
trong kỳ hệ thống hóa nhưng chưa có hiệu lực tính đến thời điểm hệ thống hóa.
- Lập danh mục, đính kèm văn bản còn hiệu lực, danh mục văn bản
phải cập nhật đầy đủ, chính xác các văn bản còn hiệu lực đến thời điểm hệ
thống hóa và văn bản được ban hành trong kỳ hệ thống hóa hiện tại nhưng
chưa có hiệu lực tính đến thời điểm hệ thống hóa.
- Tập hệ thống văn bản quy phạm pháp luật còn hiệu lực và các danh
mục văn bản được biên tập, sắp xếp một cách khoa học, có tính hệ thống theo
từng lĩnh vực cụ thể, theo thứ bậc hiệu lực, thời gian ban hành [7, tr.82 - 83].
1.3. Các yếu tố tác động đến hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật
1.3.1. Yêu cầu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền
Nhà nước pháp quyền là một trong những thành tựu của loài người
trong việc tổ chức và vận hành xã hội, trong đó mọi hoạt động của nhà nước
đều phải chịu sự kiểm soát, sự chế ngự của pháp luật. Việc xây dựng nhà

nước pháp quyền là yêu cầu tất yếu khách quan của sự nghiệp đổi mới, xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Xuất phát từ yêu cầu đó thì Hiến
pháp và luật giữ vai trò tối thượng, Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật,
coi pháp luật là công cụ hữu hiệu để thực hiện vai trò quyền lực của mình,
mọi hoạt động của các cơ quan nhà nước phải trên cơ sở tuân thủ pháp luật.
Theo đó, nhà nước pháp quyền đặt ra yêu cầu không chỉ người dân mà cả các
cơ quan nhà nước và công chức cũng phải “Sống và làm việc theo pháp luật”.

21


Yêu cầu này đòi hỏi pháp luật phải được ban hành đầy đủ để điều chỉnh các
quan hệ xã hội làm cơ sở để cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức dựa vào đó
mà thực hiện nhiệm vụ của mình; người dân dựa vào đó mà thực hiện nghĩa
vụ và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Có như vậy mới bảo đảm
được tiêu chí xây dựng nhà nước pháp quyền, trong đó Hiến pháp là tối
thượng, tất cả các văn bản quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật phải
triệt để phù hợp với quy định của Hiến pháp.
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước ta bao gồm các
văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền từ trung
ương đến địa phương ban hành gồm nhiều văn bản có giá trị pháp lý khác
nhau với phạm vi điều chỉnh rộng lớn, toàn diện về mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội, vì vậy để pháp luật được mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện, tuân
thủ nghiêm chỉnh và thống nhất trên phạm vi cả nước thì trước hết hệ thống
văn bản quy phạm pháp luật phải bảo đảm được tính thống nhất trong chính
nội tại của nó. Nếu một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật không thống
nhất, giữa các bộ phận cuả nó chứa đựng các quy định mâu thuẫn, chồng chéo
thì hệ thống ấy không thể tạo ra sự điều chỉnh pháp luật một cách toàn diện,
đồng bộ và hiệu quả. Vì vậy, đòi hỏi phải kịp thời phát hiện ra những mâu

thuẫn, chồng chéo giữa các quy định của pháp luật để loại bỏ ra khỏi hệ thống
văn bản quy phạm pháp luật.
1.3.2. Nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế
Xuất phát từ yêu cầu của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Quá trình
này dẫn đến những thay đổi nhanh chóng trong đời sống kinh tế - xã hội của
đất nước, kéo theo sự đòi hỏi sửa đổi luật pháp cho phù hợp và đáp ứng với
yêu cầu của thực tiễn đặt ra. Sự sửa đổi luật pháp vì thế rất dễ tạo nên những
mâu thuẫn, chồng chéo, trùng lắp giữa các quy định mới với các quy định khá
trong hệ thống pháp luật. Vì vậy, để đáp ứng những yêu cầu về mặt thể chế

22


×