Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

Phân tích bài thơ “vội vàng”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.14 KB, 4 trang )

Đề bài: Vội vàng là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ Xuân Diệu 
trước cách mạng tháng Tám năm 1945. Hãy phân tích bài thơ
“vội vàng” để thấy được điều đó.
BÀI LÀM
“Khó có thể nói được cái ngạc nhiên của làng thơ Việt Nam khi Xuân Diệu đến” Hoài Thanh đã mở 
đầu trang viết về Xuân Diệu trong cuốn “thi nhân Việt Nam” bằng một giọng điệu nghẹn ngùng và 
ngạc nhiên như thế. Xuân Diệu đã bước vào thi đàn Việt Nam như một cơn gió đầu mùa tươi trẻ, 
tràn đầy sức sống của một con người mới, một thế hệ mới. Ông bước đi trong dòng chảy thơ ca 
Việt những năm 32­45 với một cái tôi hoàn toàn nổi bật. Có chăng cái tôi ấy đã đã làm nên một hồn 
thơ rất mới mẻ, rất độc đáo, rất Xuân Diệu mà Vội Vàng là một trích dẫn tiêu biểu nhất?
Ông tên thật là Ngô Xuân Diệu, còn có bút danh là Trảo Nha, quê ở làng Trảo Nha, huyện Can Lộc, 
tỉnh Hà Tĩnh nhưng sinh tại Gò Bồi, xã Tùng Giản, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Phong cách 
sống và phong cách sáng tác của Xuân Diệu rất đáng để người đời học hỏi. Ông luôn cần cù kiên 
nhẫn trong học tập, rèn luyện va lao động sáng tạo nghệ thuật. Trong sự nghiệp sáng tác thơ của 
mình, Xuân Diệu được biết đến như là một nhà thơ lãng mạn trữ tình, là nhà thơ mới nhất của 
phong trào Thơ mới giai đoạn 1930­1945 với tư tưởng tiến bộ chi phối toàn bộ sự nghiệp văn học 
của mình­ niềm khát khao giao cảm với đời.
Vội vàng là được giới văn sĩ đánh giá là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ Xuân Diệu trước cách mạng 
tháng Tám, một hồn thơ bồng bột, khát khao giao cảm đến mãnh liệt, đến cuồng si. Bài thơ bộc lộ 
nét đẹp của một quan niệm nhân sinh mới : sống tự giác và tích cực, sống với niềm khao khát phát 
huy hết giá trị bản ngã, tận hiến cho cuộc đời và cũng là một cách tận hưởng cuộc đời. 
Sống vội vàng chỉ là một cách nói. Trong cốt lõi, đây là một quan niệm sống mới mang ý nghĩa tích 
cực nhằm phát huy cao độ giá trị của cái Tôi cá nhân trong thời hiện đại. Quan niệm sống nói trên 
được diễn giải qua một hệ thống cảm xúc và suy nghĩ mang màu sắc “ biện luận” rất riêng của tác 
giả. Với Xuân Diệu, cuộc đời như một thiên đường trên mặt đất.
Mở đầu bài thơ là một khổ ngũ ngôn thể hiện một ước muốn kì lạ của thi sĩ:
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.
Thức nhận được sự trôi chảy vô biên của thời gian, nhà thơ như cảm thấy sợ hãi và khao khát níu 


giữ được nó để tận hưởng vẻ đẹp đích thực của cuộc sống. Thi sĩ muốn đoạt quyền tạo hoá, muốn 
đi ngược lại sự vận động của thiên nhiên, muốn tự mình nắm giữ điều chỉnh thời gian, bởi một 
người như Xuân Diệu sống để yêu và yêu để sống thì thời gian mà tự nhiên định sẵn từ ngàn xưa 
đến nay không thể nào đủ. Bằng việc sử dụng những động từ mạnh “tắt”, “buộc”, Xuân Diệu như 
muốn lưu giữ lại cái khoảnh khắc của tuổi xuân, muốn thời gian ngưng đọng lại, muốn và muốn như
vậy mới có đủ thời gian để thỏa mãn lòng khao khát trong tâm hồn nhà thơ. Lần đầu tiên trong thơ 
ca hiện đại lại có một quan niệm về thời gian một cách ráo riết như Xuân Diệu. 
Thiên đường cuộc sống của Xuân Diệu nơi trần gian thật mới mẻ!Trong quan niệm của người xưa, 
đời là chốn bụi trần, cuộc đời là bể khổ. Đấy là lý do vì sao lánh đời nhiều khi đã trở thành một cách 
thế sống mà cả tôn giáo cũng như văn chương đều chủ trương vẫy gọi con người trên hành trình đi 
tìm sự an lạc tâm hồn. Cũng chẳng phải ngẫu nhiên, đạo Phật tô đậm vẻ đẹp của cõi Tây Phương 
cực lạc; văn học cổ Trung Quốc cũng như văn học trung đại Việt Nam đều đề cao tâm lý hoài cổ, 
phục cổ, khuyến khích xu hướng tìm về với những giá trị trong quá khứ vàng son một đi không trở 


lại như đi tìm một thiên đường đã mất. Xuân Diệu thuộc thế hệ những người trẻ tuổi ham sống và 
sống sôi nổi, họ không coi lánh đời là một xu thế mang ý nghĩa tích cực mà ngược lại, họ không 
ngần ngại lao vào đời. Và thật ngạc nhiên, nhờ tuổi trẻ, họ phát hiện ra cuộc đời thực chất không 
phải là một cõi mông lung, mờ mờ nhân ảnh, cũng chẳng phải là cái bể khổ đầy đoạ con người 
bằng sinh, lão, bệnh, tử … những định mệnh đã hàng ngàn năm ám ảnh con người mà trái lại, là cả 
một thế giới tinh khôi, quyến rũ. Tất cả đều hiện hữu, tất cả đều gần gũi, đầy ắp, ngay trong đời 
thực và trong tầm tay với:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm thần vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.
Bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp và tràn đầy sức sống được tác giả cảm nhận bằng mọi 

giác quan, bằng cả tâm hồn của một thi sĩ. Trong cái nhìn mới mẻ, say sưa thi nhân vồn vã liệt kê 
bao vẻ đẹp của cuộc đời bằng hàng loạt đại từ chỉ trỏ này đây làm hiện lên cả một thế giới thật sống
động. Hơn thế, cõi sống đầy quyến rũ ấy như đang vẫy gọi, chào mời bằng vẻ ngọt ngào, trẻ trung: 
đây là tuần tháng mật để dành cho ong bướm, đây là hoa của đồng nội (đang) “xanh rì, đây là lá của
cành tơ phơ phất và khúc tình si kia là của những lứa đôi. Có lẽ trước Xuân Diệu trong thơ Việt 
Nam chưa có cảm giác “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”. Nó là cảm giác của ái ân tình tự. 
Cảm giác ấy đã làm cho người ta thấy tháng giêng mơn mởn non tơ đầy một sức sống thanh tân kia
mà sao quyến rũ – tháng giêng mang trong nó sức quyến rũ không thể cưỡng được của một người 
tình rạo rực đắm say. Thế giới này được Xuân Diệu cảm nhận theo một cách riêng. Nó bày ra như 
một thiên đường trên mặt đất, như một bữa tiệc lớn của trần gian. Được cảm nhận bằng cả sự tinh 
vi nhất của một hồn yêu đầy ham muốn, nên sự sống cũng hiện ra như một thế giới đầy xuân tình. 
Cái thiên đường sắc hương đó hiện ra trong Vội vàng vừa như một mảnh vườn tình ái, vạn vật 
đương lúc lên hương, vừa như một mâm tiệc với một thực đơn quyến rũ, lại vừa như một người 
tình đầy đắm say. Xuân Diệu hưởng thụ thiên nhiên như hưởng thụ ái tình. Yêu thiên nhiên mà thực
chất là tình tự với thiên nhiên.
Tuy nhiên, trong ý thức mới của con người thời đại về thời gian, khi khám phá ra cái đẹp đích thực 
kia của đời cũng là lúc người ta hiểu rằng điều tuyệt diệu này có số phận thật ngắn ngủi, mong 
manh và sẽ nhanh chóng tàn phai vì theo vòng quay của thời gian có cái gì trên đời là vĩnh viễn?
Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!
Niềm ám ảnh về sự chảy trôi vô tình của thời gian khiến cái nhìn của thi nhân về thế giới bỗng đổi 
khác, tất cả đều nhuốm màu của âu lo, bàng hoàng, thảng thốt. Đấy là lý do vì sao mạch cảm xúc 
trong đoạn thơ bỗng liên tục thay đổi : từ việc xuất hiện các kiểu câu định nghĩa, tăng cấp : “nghĩa là
(3lần/3dòng thơ), để định nghĩa về mùa xuân và tuổi trẻ, mà thực chất là để cảm nhận về hiện hữu 
và phôi pha, đến ý tưởng ràng buộc số phận cá nhân mình với số phận của mùa xuân, tuổi xuân 

nhằm thổ lộ niềm xót tiếc cái phần đẹp nhất của đời người, cuối cùng cất lên tiếng than đầy khổ não

Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất!
Con người thời trung đại hình như yên trí với quan niệm thời gian tuần hoàn với cái chu kỳ bốn 


mùa, cũng như cái chu kì ba vạn sáu ngàn ngày của kiếp người. Con người hiện đại sống với quan 
niệm thời gian tuyến tính, thời gian như một dòng chảy mà mỗi một khoảnh khắc qua là mất đi vĩnh 
viễn. Cho nên Xuân Diệu đã nồng nhiệt phủ định “còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi”.
Thi sĩ lại cảm nhận về không gian và thời gian đầy sự lạ hóa:
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt
Là người đã tiếp thu ở mức nhuần nhuyễn phép “tương giao” của lối thơ tượng trưng, Xuân Diệu đã
phát huy triệt để sự tương giao về cảm giác để cảm nhận và mô tả thế giới. Thời gian được cảm 
nhận bằng khứu giác: “Mùi tháng năm” – thời gian của Xuân Diệu được làm bằng mùi hương, bằng 
mùi vị. Niềm xót tiếc cứ thế tuôn chảy miên man trong hàng loạt câu thơ và khắc nghiệt với bất công
đã trở thành một quan hệ định mệnh giữa tự nhiên với con người. Nỗi cay đắng trước sự thật đó 
được triển khai trong những hình ảnh và ý niệm sắp xếp theo tương quan đối lập giữa : lòng người 
rộng” mà lượng trời chật; Xuân của thiên nhiên thì tuần hoàn” mà tuổi trẻ của con người thì chẳng 
hai lần thắm lại. Cõi vô thuỷ vô chung là vũ trụ vẫn còn mãi vậy mà con người, sinh thể sống đầy 
xúc cảm và khao khát lại hoá thành hư vô. Điều “ bất công” này thôi thúc cái tôi cá nhân đi tìm sức 
mạnh hoá giải.
Từ nỗi ám ảnh về số phận mong manh chóng tàn lụi của tuổi xuân, tác giả đề ra một giải pháp táo 
bạo. Con người không thể chặn đứng được bước đi của thời gian, con người chỉ có thể phải chạy 
đua với nó bằng một nhịp sống mới mà nhà thơ gọi là vội vàng.
Mau đi thôi! Màu chưa ngã chiều hôm
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu

Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê hương sắc của thời tươi
­hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi
Ta có thể nghe thấy giọng nói, nghe thấy cả nhịp đập của con tim Xuân Diệu trong đoạn thơ ấy. Nó 
hiện ra trong những làn sóng ngôn từ đan chéo nhau, giao thoa và song song vỗ vào tâm hồn người
đọc. Cái điệp ngữ “ta muốn” được lặp đi lặp lại với mật độ thật dày và cũng thật đích đáng. Nhất là 
mỗi lần điệp lại đi liền với một động thái yêu đương mỗi lúc một mạnh mẽ, mãnh liệt, nồng nàn: ôm 
– riết – say – thâu – cắn. Những chữ “và” hiện diện cần cho sự thể hiện nguyên trạng cái giọng nói, 
cái khẩu khí của nhà thơ. Nó thể hiện đậm nét sắc thái riêng của cái tôi Xuân Diệu. nghĩa là thể hiện
một cách trực tiếp, tươi sống cái cảm xúc tham lam đang trào lên mãnh liệt trong lòng ngực yêu đời 
của thi sĩ !
Không phải ngẫu nhiên mà Xuân Diệu được Hoài Thanh nhận xét là “nhà thơ mới nhất của phong 
trào thơ Mới”. Ngoài những sự mới lạ trong nội dung đề tài, Xuân Diệu còn có những bước đi táo 
baojtrong việc cách tân nghệ thuật. Với “Vội Vàng”, bài thơ có sự kết hợp giữa hai yếu tố trữ tình , 
chính luận. Yếu tố trữ tình được bộc lộ ở những rung động mãnh liệt bên cạnh những ám ảnh kinh 
hoàng khi phát hiện vè số phận mong manh của cái đẹp, của tình yêu và tuổi trẻ trước sự hủy hoại 
của thời gian. Mạch chính luận là hệ thống lập luận, lí giải về lẽ sống vội vàng , thông ddiejp mà 
Xuân Diệu muốn gửi đến cho độc giả được trình bày theo lối quy nạp từ nghịch lí mâu thuẫn đến 
giải đáp. Bên cạnh đó, Xuân Diệu còn thành công trong việc tạo ra cú pháp mới của câu thơ, cách 
diễn đạt mới, hình ảnh và ngôn từ mới.
Có thể nói Xuân Diệu qua bài thơ này không chỉ “sống” hay “ham sống” mà là “say sống”. Sống 
mãnh liệt sống hối hả, sống gấp để tận hưởng vẻ đẹp của trần gian. Đó là một nhân sinh quan lành 
mạnh. tuy chưa phải là lối sống cao đẹp nhất, nhưng đó là một lối sống tích cực, sống trong ý thức 


phát huy hết giá trị của tuổi trẻ và cũng là của cái tôi. Bài thơ là nhịp đập gấp gáp trước thanh sắc 
trần gian một ngày xuân của một trái tim chưa bao giờ chán sống!
Nhà thơ Thế Lữ trong lời tựa cho tập “Thơ Thơ” của Xuan Diệu đã có nhận xét khá tinh tế: “Xuân 

Diệu là một người của đời, một người ở giữa loài người. lầu thơ của ông xây dựng trên đất của một 
tấm lòng trần gian”. Đã mấy mươi năm Xuân Diệu giã từ chúng ta vào cõi hư vô, nhưng tấm lòng 
trần gian của ông thì vẫn còn lưu mãi với các thế hệ. Hẳn những ai yêu cuộc sống, yêu thơ Xuân 
Diệu chắc không khỏi những rung động trước những cảm xúc mãnh liệt tâm tình của tác giả qua bài
thơ “Vội vàng” gắn với những niềm khát khao giao cảm với trời đất, với con người trong mùa xuân 
diệu kì!
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi...



×