Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

quan điểm đường kuznet đối với các nước công nghiệp trước đây và các nước đang phát triển hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.96 KB, 21 trang )

LỜI MỞ ĐẦU

Trong bài phát biểu năm 1954 với tư cách chủ tịch trước Hiệp hội kinh tế
Mỹ, Simon Kuznets đã cho rằng bất bình đẳng thu nhập đầu tiên gia tăng
nhưng sau đó giảm xuống khi đất nước công nghiệp hoá (1955). Trong những
năm sau đó, nhiều nghiên cứu học thuật xác nhận hiệu ứng Kuznets cho các
nước công nghiệp tiên tiến.
Trong khi cuộc tranh luận của các học giả gần như không có tầm quan
trọng bên ngoài giới học thuật, việc tìm hiểu các áp lực làm giảm tình trạng
bất bình đẳng có tiềm năng mang lại những ảnh hưởng âm vang trong cuộc
sống thực tế.
Việc tìm hiểu đầy đủ hơn về chữ U ngược quan trọng hơn bao giờ hết
ứng với sự chú trọng nhiều vào các chiến lược phát triển được chi phối bởi
tăng trưởng của chủ nghĩa tự do mới hiện đang ngự trị tại các nước đang phát
triển, ngay cả tại nhiều nước - như Costa Rica - vốn có truyền thống chú
trọng vào công bằng. Chính vì lý do đó, tôi xin chọn đề tài nghiên cứu
‘Quan điểm về đường Kuznet đối với các nước công nghiệp trước đây và
các nước đang phát triển hiện nay.’

1


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.1.

Lý thuyết đường cong Kuznet
Tại cuộc họp thường niên lần thứ 67 của Hiệp hội Kinh tế châu Mỹ vào

tháng 12/1954, Simon Kuznets lần đầu tiên giới thiệu về khái niệm đường


cong Kuznets, mô tả mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và vấn đề bất bình
đẳng thu nhập. Đến năm 1991, đường cong Kuznets trở thành một phương
tiện để mô tả mối quan hệ giữa chất lượng môi trường và thu nhập đầu người
theo thời gian. Các nhà kinh tế đã sử dụng các dữ liệu về môi trường cũng
như thu nhập đầu người ở các quốc gia để nghiên cứu về mối quan hệ này.
Nhiều bằng chứng đã cho thấy, mức độ suy thoái môi trường và mức thu
nhập đầu người cũng tuân theo quy luật đường cong U ngược Kuznets: suy
thoái môi trường sẽ gia tăng trong các giai đoạn đầu của phát triển, nhưng
cuối cùng sẽ đạt đến đỉnh hay ngưỡng chuyển đổi (turning point) và bắt đầu
giảm khi mức thu nhập vượt một ngưỡng nào đó. Đây được gọi là đường
cong Kuznets môi trường (EKC).
Logic của của đường cong EKC khá dễ hiểu. Vào thời kỳ đầu của quá
trình công nghiệp hóa, ô nhiễm gia tăng một cách nhanh chóng do đặt ưu tiên
cao cho việc gia tăng năng suất đầu ra, và người dân quan tâm nhiều đến việc
làm và thu nhập hơn là không khí hay nguồn nước sạch. Sự phát triển nhanh
chóng dẫn đến việc sử dụng nhiều hơn nguồn tài nguyên thiên nhiên và phát
thải nhiều hơn các chất ô nhiễm làm suy thoái môi trường trầm trọng. Ở các
thời kỳ sau của công nghiệp hóa, khi thu nhập tăng lên, người dân có ý thức
hơn về giá trị môi trường, luật pháp, chính sách môi trường cũng như các cơ
quan thi hành trở nên nghiêm khắc và hiệu quả hơn, các công nghệ sạch,


công nghệ tiên tiến được nghiên cứu và áp dụng rộng rãi tạo điều kiện cải
thiện chất lượng môi trường.
Rõ ràng, theo lý thuyết đường cong EKC, sự tăng ô nhiễm là không thể
tránh khỏi trong giai đoạn đầu của phát triển kinh tế. Tuy nhiên, sẽ rất nguy
hiểm nếu người làm chính sách nhầm hiểu ý nghĩa của đường cong EKC ở
chỗ ô nhiễm không là vấn đề gì bởi sự tổn hại sẽ tự động phục hồi sau này.
Sự phục hồi của chất lượng môi trường có xảy ra hay không, nhanh hay
chậm đòi hỏi người làm chính sách phải đưa ra những quyết sách đúng đắn

trong việc điều phối nguồn ngân sách tăng lên, nâng cao năng lực của hệ
thống quản lý môi trường, nghiên cứu chuyển giao và áp dụng công nghệ
sạch, công nghệ tiên tiến, nâng cao ý thức cộng đồng...
Ngoài ra, các nhà làm chính sách cũng cần phải chú ý đến ngưỡng phục
hồi của môi trường sinh thái. Nếu như tiếp tục phát triển mà không quan tâm
đúng mức đến công tác BVMT thì có thể sẽ vượt qua ngưỡng phục hồi của
hệ sinh thái trước khi đạt đến ngưỡng chuyển đổi của đường cong EKC. Khi
đó, chất lượng môi trường không những không thể phục hồi trở lại cho dù có
thực hiện bất cứ biện pháp nào mà còn có thể tác động tiêu cực trở lại sự phát
triển kinh tế.

Đường cong môi trường Kuznets (EKC)
1.2.

Khái niệm nước công nghiệp trước đây


Có thể giải thích một cách đơn giản rằng, nước công nghiệp là nước đã
hoàn thành quá trình công nghiệp hóa, hoặc ngược lại, công nghiệp hóa là
quá trình trở thành một nước công nghiệp, song rõ ràng là định nghĩa như
vậy không giải quyết được nguồn gốc của vấn đề. Tuy nhiên, câu trên cũng
có ý nghĩa ở chỗ, trong hai khái niệm “nước công nghiệp” và “công nghiệp
hóa” chỉ cần định nghĩa cụ thể một khái niệm, còn khái niệm kia có thể tự
suy ra được.Vì vậy, ở đây sẽ xuất phát từ một khái niệm là “công nghiệp
hóa”.
Các nhà kinh tế học phát triển đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về
công nghiệp hóa, dựa vào các tiêu chuẩn khác nhau như thu nhập quốc dân,
cơ cấu kinh tế, cơ cấu công nghiệp, cơ cấu lao động, mức độ phát triển công
nghiệp chế tác, loại công cụ sản xuất, các hàm sản xuất cơ bản, phương thức
sản xuất, v.v, song cách trình bày tương đối gọn ghẽ mà làm nổi rõ được đặc

trưng chính của khái niệm có thể phát biểu như sau:
Theo nghĩa hẹp, công nghiệp hóa được hiểu là quá trình chuyển dịch từ
kinh tế nông nghiệp (hay tiền công nghiệp) sang nền kinh tế lấy công nghiệp
làm chủ đạo, từ chỗ tỷ trọng lao động nông nghiệp chiếm đa số giảm dần và
nhường chỗ cho lao động công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn hơn. Theo nghĩa
rộng, công nghiệp hóa là quá trình chuyển dịch từ kinh tế nông nghiệp (hay
tiền công nghiệp) sang kinh tế công nghiệp, từ xã hội nông nghiệp sang xã
hội công nghiệp, từ văn minh nông nghiệp sang văn minh công nghiệp.
Định nghĩa trên dùng trong trường hợp từ “công nghiệp hóa” là danh từ,
chỉ một quá trình. Còn trong trường hợp tính từ, từ công nghiệp hóa là chỉ
một trạnh thái, trạng thái đã hoàn thành quá trình công nghiệp hóa, hay nói
gọn hơn, là đã công nghiệp hóa.
Quá trình công nghiệp hóa đã bắt đầu từ nửa cuối thế kỷ 18 tại Anh với
cuộc cách mạng công nghiệp (1770-1780), khoảng 50 năm sau lan sang
Pháp, Bỉ (1820-1830) và chuyển sang Mỹ, Đức với cuộc cách mạng công


nghiệp lần thứ hai (1870-1880), sau đó lan truyền đến Nhật, Nga khoảng năm
1890. Các nước khác ở châu Âu tiếp nối tiến hành vào thời gian liền theo.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất dựa vào nguồn tài trợ từ cuộc
cách mạng nông nghiệp trước đó và từ phát triển thương mại hàng hải từ thế
kỷ trước. Nguồn năng lượng cho cuộc cách mạng này là than chạy máy hơi
nước thúc đẩy phát triển ngành đường sắt và nhiều ngành khác. Các công
nghiệp đặc trưng là công nghiệp dệt (chủ yếu là sợi bông) và công nghiệp
luyện kim (chủ yếu là sắt).
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai đi đầu là Mỹ và Đức. Khác với
cuộc cách mạng trước, lần này tài trợ chủ yếu là do cuộc cách mạng lần thứ
nhất; nguồn năng lượng là điện và dầu lửa; các ngành công nghiệp mới là
công nghiệp hóa chất giúp cho nông nghiệp về phân bón và cho ngành dệt về
sợi nhân tạo. Công nghiệp mới về cơ khí tác động đến ngành chế tạo ô tô và

máy nông nghiệp. Sáu quốc gia nổi trội trong đợt này là Mỹ, Anh, Pháp,
Đức, Nga và Nhật.
Công nghiệp hóa cổ điển có những đặc điểm sau:
- Công nghiệp hóa cổ điển dựa vào cách mạng kỹ thuật với tiêu chí cơ
giới hóa, điện khí hóa, tự động hóa, luôn luôn theo đuổi hiệu quả và hiệu
suất, trình độ chuyên môn hóa ngày càng cao; đồng thời dựa vào mở rộng thị
trường với các cuộc chinh phục và khai thác thuộc địa, để lại những hậu quả
vô cùng bi thảm.
- Công nghiệp hóa cổ điển chú ý nhiều đến mặt kinh tế, trong kinh tế coi
trọng tăng trưởng hơn phát triển, trong tăng trưởng chú ý phương thức chiều
rộng hơn.
- Đi liền với công nghiệp hóa, biến đổi về mặt tổ chức xã hội là xu thế
đô thị hóa.
- Thời gian thực hiện rất dài, hàng trăm năm.


- Tạo ra bất công xã hội, phân cực giầu nghèo và thất nghiệp.
- Lãng phí tài nguyên và hủy hoại môi trường.
1.3.

Khái niệm nước đang phát triển hiện nay
Nước đang phát triển là quốc gia có mức sống còn khiêm tốn, có nền

tảng công nghiệp kém phát triển và có chỉ số phát triển con người (HDI)
không cao. Ở các nước này, thu nhập đầu người ít ỏi, nghèo nàn phổ biến và
cơ cấu tư bản thấp. "Nước đang phát triển"gần nghĩa với Thế giới thứ
ba thường dùng trong Chiến tranh Lạnh .
Mức độ phát triển của một xã hội bao hàm cơ sở hạ tầng hiện đại (cả về
mặt vật chất và thể chế) và sự chuyển đổi ra khỏi những lĩnh vực sản xuất tạo
ra giá trị gia tăng thấp như nông nghiệp và khai thác tài nguyên tự nhiên.

Ở các quốc gia phát triển , hệ thống kinh tế dựa trên sự tăng trưởng mạnh mẽ
và bền vững ở những lĩnh vực dịch vụ, giáo dục, nghiên cứu phát triển, thông
tin, v.v..
Việc áp dụng thuật ngữ nước đang phát triển cho toàn thể các nước chưa
đạt trình độ nước phát triển trong nhiều trường hợp là không thích hợp,
không ít quốc gia nghèo không hề có những cải thiện tình hình kinh tế thậm
chí là suy giảm.
Các quốc gia có sự tiến bộ vượt trội các nước đang phát triển nhưng
chưa với tới trình độ các nước phát triển được đưa vào nhóm nước công
nghiệp hóa mới .
Sự phát triển của một đất nước được đo đạc bằng các chỉ số thống kê
như tổng sản phẩm quốc nội bình quân đầu người (GDP/người), tuổi thọ
trung bình , tỷ lệ người biết chữ , v.v. Liên hiệp quốc xây dựng Chỉ số phát
triển con người, một chỉ số tổng hợp của các thống kê trên để xác định mức
độ phát triển con người ở mỗi quốc gia.


Nước đang phát triển, nói chung, là các quốc gia có mức sống thấp, chưa
đạt được mức độ công nghiệp hóa tương xứng với quy mô dân số. Có một sự
tương quan chặt chẽ giữa mức thu nhập bình quân đầu người thấp với sự gia
tăng dân số nhanh chóng, kể cả giữa các quốc gia và giữa các nhóm dân cư
trong một quốc gia.
Thuật ngữ "nước đang phát triển" nhiều khi được thay thế bởi "nước
kém phát triển", "nước chậm phát triển", Thế giới thứ ba , Nam bán cầu, thậm
chí "nước kém phát triển nhất "...


CHƯƠNG 2
QUAN ĐIỂM VỀ ĐƯỜNG KUZNET ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC CÔNG
NGHIỆP VÀ CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

2.1. Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và ô nhiễm môi trường
Trên thế giới đã có rất nhiều nghiên cứu về mối quan hệ giữa kinh tế và
môi trường dựa trên nền tảng lý thuyết EKC. Các nghiên cứu thực nghiệm về
đường cong EKC chủ yếu tập trung vào hai chủ đề chính:
Liệu các chỉ thị của suy thoái môi trường có tuân theo mối quan hệ U
ngược với các mức thu nhập đầu người không.
Tính toán điểm ngưỡng chuyển đổi khi chất lượng môi trường cải thiện
theo sự tăng lên của thu nhập đầu người.
Trong thời gian gần đây cũng đã có nhiều quốc gia trên thế giới thực
hiện các nghiên cứu về mối quan hệ kinh tế và môi trường đặc thù cho riêng
quốc gia mình như Mỹ, Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc... Hầu hết các
nghiên cứu này cũng đều tìm ra được mối quan hệ theo quy luật EKC cũng
như xác định được mức ngưỡng thu nhập khi chất lượng môi trường bắt đầu
tăng theo thu nhập đầu người cho riêng quốc gia mình.
Đa số các nghiên cứu này tập trung vào lĩnh vực ô nhiễm không khí
(SO2, NOx, SPM, CO). Chỉ có một số ít nghiên cứu quan tâm đến lĩnh vực ô
nhiễm nước và chất thải rắn. Xin giới thiệu các kết quả nghiên cứu thực
nghiệm nêu trên cùng với một số bằng chứng thực tế về mối quan hệ EKC
giữa ô nhiễm môi trường và mức thu nhập đầu người.
2.2. Mối quan hệ giữa thu nhập đầu người và ô nhiễm không khí
Có thể nói, mối quan hệ giữa các chỉ tiêu ô nhiễm không khí và thu nhập
đầu người đã và đang được quan tâm nghiên cứu nhiều nhất. Các chỉ tiêu ô


nhiễm không khí được đề cập phổ biến có thể kể đến SO2, NOx, CO, bụi và
khói.
Tại Đài Loan, các nghiên cứu cho thấy mối quan hệ EKC cho 2 chất ô
nhiễm NO2 và CO. Ngưỡng chuyển đổi của NO2 nằm ở mức thu nhập đầu
người 384.000 đài tệ (tương đương 12.800 USD thời điểm 1996) và ngưỡng
chuyển đổi của CO ở mức thấp hơn là 205.000 đài tệ (tương đương 6.833

USD thời điểm 1996).
Kết quả nghiên cứu này cũng rất phù hợp với thực tế đã diễn ra tại Đài
Loan trong thập niên 90. Vào năm 1990, Cục BVMT Đài Loan bắt đầu áp
dụng quy định mới bắt buộc các xe ô tô mới phải lắp đặt bộ chuyển đổi xúc
tác giúp làm giảm đáng kể lượng phát thải NO2 và CO từ hoạt động giao
thông. Quy định này tỏ ra rất hiệu quả. Ngưỡng chuyển đổi của NO2 cao hơn
gấp đôi so với CO do thực tế là hoạt động giao thông tạo ra phần lớn lượng
phát thải CO trong khi chỉ tạo ra 1 nửa lượng phát thải NO2. Phải đến năm
1998, Cục BVMT Đài Loan mới bắt buộc các nguồn cố định phải kiểm soát
phát thải NO2 do chi phí xử lý khí này rất cao.
Các kết quả nghiên cứu cũng cho thấy ngưỡng thu nhập đầu người khi
chất lượng môi trường bắt đầu được cải thiện là rất cao, dao động trong
khoảng trên 3.000 USD - 15.000 USD. Các số liệu thực tế cũng đã chứng
minh cho các kết quả nghiên cứu này.
- Các thành phố có mức thu nhập đầu người dưới 1.000 USD/năm
thường có mức ô nhiễm rất cao và mức độ cải thiện ô nhiễm không đáng kể;
Các thành phố nằm trong mức thu nhập đầu người từ trên 3.000 -10.000
USD/năm đều có những cải thiện ô nhiễm đáng kể, tiêu biểu như Băng Cốc
(Thái Lan), Seoul (Hàn Quốc), Mexico City (Mêhicô); Các thành phố thuộc
nhóm nước phát triển có mức thu nhập trên 10.000 USD đều đã đạt được
chất lượng không khí rất tốt. Ví dụ, các TP như: London (Anh) hay Los


Angeles (Mỹ) nồng độ các chất ô nhiễm không khí đều đã đạt tiêu chuẩn của
WHO;
- Tại các nước phát triển, vấn đề ô nhiễm bắt đầu gia tăng từ cách mạng
công nghiệp và lên đến đỉnh điểm vào đầu thập niên 70 và sau đó bắt đầu
được cải thiện. Nhưng phải đến cuối thập niên 90, đầu thập niên 2000, tức là
sau 30 năm, chất lượng không khí mới đạt chất lượng tốt.
Trong khi đó, một số nước đang phát triển đã có những cải thiện ô nhiễm

đáng kể trong thời gian ngắn hơn và ở một mức thu nhập thấp hơn, tiêu biểu
là trường hợp của Thái Lan chỉ mất khoảng 10 năm (từ đỉnh điểm năm 1991 2000) đã giảm được nồng độ SPM xuống hơn 50%.
2.3. Mối quan hệ giữa thu nhập đầu người và ô nhiễm nước
So với lĩnh vực ô nhiễm không khí, mối quan hệ giữa phát triển kinh tế
và ô nhiễm nước ít được quan tâm nghiên cứu hơn.
Tại Hàn Quốc, các nghiên cứu đã tìm ra được mối quan hệ đường cong
EKC đối với nồng độ BOD của sông Hàn. Theo đó, nồng độ BOD trên sông
Hàn đạt đỉnh vào năm 1984, khi mức thu nhập đầu người của Hàn Quốc đạt
khoảng hơn 4.000 USD rồi sau đó giảm liên tục khi mức thu nhập tăng lên.
Các nghiên cứu dữ liệu trên 64 nguồn nước thuộc bang Louisiana (Mỹ)
cũng đã tìm được mối quan hệ EKC cho các chỉ tiêu ô nhiễm Nitơ và
Phopho. Ngưỡng chuyển đổi của Nitơ nằm ở mức thu nhập đầu người 11.375
- 12.981 USD/năm, của Phot pho là 6.773 — 14.312 USD/năm (tỉ giá năm
1996). Đây là mức thu nhập đầu người của Louisiana vào thập niên 80, hiện
này thu nhập bình quân đầu người của bang Louisiana đã đạt mức trên
37.000 USD/năm.
Như vậy, ngay cả đối với các chỉ tiêu ô nhiễm nước, mức thu nhập khi
đạt đến ngưỡng chuyển đổi cũng rất cao, đặc biệt là đối với các chỉ tiêu ô


nhiễm hữu cơ như N, P, BOD, COD, dao động từ mức 4.000 — trên 15.000
USD.

2.4. Mối quan hệ giữa thu nhập đầu người và phát sinh chất thải rắn
Có rất ít nghiên cứu về phát triển kinh tế và vấn đề chất thải rắn. Trong
số các nghiên cứu tiên phong về đường EKC, chỉ sử dụng một dữ liệu đa
quốc gia đề cập đến vấn đề chất thải rắn sinh hoạt. Nghiên cứu này không
tìm thấy đỉnh của đường cong EKC, thay vào đó nghiên cứu này khẳng định
lượng chất thải sinh hoạt phát sinh tăng liên tục theo mức thu nhập. Có một
nghiên cứu tìm thấy mối quan hệ tuyến tính giữa thu nhập đầu người và chất

thải rắn công nghiệp của Hàn Quốc.
Đối với chất thải sinh hoạt, đường cong EKC đạt ngưỡng chuyển đổi vào
năm 1991, khi mà mức thu nhập đầu người tại Hàn Quốc đạt khoảng trên
7.500 USD/năm. Xu hướng giảm vẫn còn tiếp tục cho đến nay. Xu hướng
giảm chất thải sinh hoạt từ những năm 90 đến nay là do có sự đóng góp rất
lớn của chương trình cấp quốc gia “Hệ thống thu phí rác thải dựa vào thể
tích” bắt đầu vào đầu năm 1995. Chương trình này đã giúp giảm 31 % lượng
rác sinh hoạt trong năm 1995. Đối với chất thải rắn công nghiệp, lượng phát
thải tăng đều theo thu nhập đầu người được giải thích là do sự gia tăng liên
tục của các hoạt động công nghiệp, đặc biệt là do sự tăng lên nhanh chóng
của rác thải xây dựng.
Các nghiên cứu tiến hành trên 30 tỉnh/thành phố ở Trung Quốc, đã tìm ra
ngưỡng chuyển đổi đối với chất thải rắn công nghiệp ở mức thu nhập đầu
người là 34.040 tệ, tương đương 4.525 USD (tỷ giá năm 2000).
2.4. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng
Một là có quan điểm cho rằng tăng trưởng và công bằng có mâu thuẫn.
Hai là cũng co quan điểm cho rằng tăng trưởng và công bằng không có mâu


thuẫn. Trong dài hạn công bằng và tăng trưởng có thể hỗ trợ cho nhau chứ
không phải thay thế nhau. Xuất phát điểm của các nghiên cứu nhằm liên hệ
phát triển kinh tế với bất bình đẳng thu nhập gắn với các công trình nghiên
cứu nổi tiếng của hai tác giả được nhận giải thưởng Nobel, đó là W. Arthur
Lewis (1954) và Simon Kuznets (1955). Trong bài báo cáo kinh điển của
mình năm 1954 nhan đề “phát triển kinh tế với cung lao động vô hạn”, Lewis
đã xây dựng một mô hình lý thuyết trong đó tăng trưởng và tích luỹ trong
một nền kinh tế hai khu vực sẽ bắt đầu từ khu vực công nghiệp hiện đại, nơi
các nhà tư bản sẽ thuê công nhân ở mức lương cho trước và tái đầu tư phần
lời nhuận của họ. Số công nhân nông nghiệp truyền thống sẵn sàng chuyển
sang làm việc trong khu vực lương cao và năng suất cao này là vô hạn. Trong

quá trình phát triển, chừng nào giả định này còn có giá trị thì chừng đó sự bất
bình đẳng trong phân phối thu nhập còn làm tăng mức thu nhập trung bình.
Nhưng có một bước ngoặt mà sau điểm đó, sự bất bình đẳng sẽ giảm khi kết
thúc giai đoạn dư thừa lao động và nền kinh tế công nghiệp hoá hoàn toàn.
Tuy Kuznets không công khai xây dựng mô hình cho sự chuyển dịch
dân số từ ngành này sang ngành khác trong quá trình phát triển, nhưng ông
đã lựa dựa vào đó để trình bày ý tưởng cơ bản của ông về mối quan hệ giữa
tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng thu nhập (“Đường kuznets”). Trong bài
phát biểu ở cương vị chủ tịch tại cuộc họp thường niên Hiệp hội Kinh tế Hoa
Kỳ năm 1954, ông đã giả thuyết rằng trong quá trình tăng trưởng và công
nghiệp hoá, bất bình đẳng lúc nào đầu sẽ tăng lên do sự chuyển dịch từ nông
nghiệp và nông thôn sang công nghiệp và thành phố, rồi sau đó sẽ giảm
xuống khi lợi nhuận giữa tất cả được bình quân hoá. Số liệu mà Kuznets sử
dụng để đưa ra nhận đinh đó lấy ra từ chuỗi chỉ số bất bình đẳng dài hạn của
Anh, Đức và Mỹ, và từ một quan sát thời điểm của ba nước đang phát triểnẤn Độ, Xây Lan(Srilanca ngày nay) và Puéctô Rico. Đó là những số liệu sẵn
có vào thời điểm đó, và Kuznets hoàn toàn nhận thức được sự hạn chế của
những hậu thuẫn thực nghiệm đối với lập luận của ông, mà theo ngôn ngữ


của ông, “có 5% là thông tin thực nghiệm và 95% là sự suy đoán, trong đó có
thể có một số thông tin đã bị sai lệch do sự mơ tưởng.
Suy đoán của Kuznets được dựa chủ yếu trên các số liệu đơn tuyến và
cần có những tình huống nghiên cứu sâu về tăng trưởng kinh tế của các quốc
gia. Nhưng nhiều nghiên cứu sau đó lại đơn thuần sử dụng các số liệu tổng
hợp giữa các nước (thường không có chất lượng cao lắm) và các mô hình
giản tiện hoá để tìm hiểu và ủng hộ cho giả thuyết về một sự đánh đổi khó
tránh giữa phát triển kinh tế và bẩt bình đẳng. Đường cong Kuznets trở thành
một trong những sự kiện điển hình hoá và được nhiều người trích dẫn nhất
trong nghiên cứu về phân phối thu nhập trong suốt gần bốn thập kỷ.
Với việc xây dựng các số liệu lớn hơn nhiều, chẳng hạn như cơ sở dữ

liệu về bất bình đẳng quốc tế của Deininger and Squire (1996) (kế tiếp công
trình của Fields (1989)), các cuộc “kiểm định” thực nghiệm về đường cong
Kuznets đã được đông đảo các học giả thực hiện. Nhưng người ta dần hiểu ra
rằng, sử dụng số liệu quốc gia để phân tích cái về bản chất là những quá trình
độngcó thể dẫn đến sự sai đường khủng khiếp. Hơn nữa, rất nhiều nghiên
cứu đã chứng tỏ các bằng chứng hậu thuẫn cho đường Kuznets không phải
lúc nào cũng vững chắc theo các tiêu chuẩn kinh tế lượng, cơ cấu mẫu hay
thời gian quan sát. Tại sao đường Kuznets không đúng trong thực tế có lẽ còn
phải viện đến một điều là các nước đang phát triển nói chung không thoả
mãn giả định về quá trình di cư và phát triển ngành như trong giả thuyết của
Kuznets. Để giải thích sự khác khác biệt quốc tế trong bất bình đẳng về thu
nhập, điều quan trọng là mối liên hệ giữa bất bình đẳng kinh tế và các yếu tố
khác, chẳng hạn như tính chất hai khu vực kinh tếm đất đai,giáo dục, sự khác
biệt vùng…cần được phân tích kỹ lưỡng hơn.
Kết luận lại, ngày nay đã có sự đồng thuận nhất định rằng không thể
xác lập được một mối quan hệ đơn giản giữa thu nhập và bất bình đẳng. Như
Kanbur (2000) đã lập luận trong công trình đánh giá thấu đáo các nghiên cứu


về đường cong Kuznets được viết trong cuốn sổ tay về phân phối thu nhập:
“có lẽ tốt hơn hết là chúng ta nên tập trung trực tiếp vào các chính sách hoặc
sự kết hợp các chính sách điều đó sẽ tạo ra tăng trưởng mà không gây những
hiệu ứng phân phối bất lợi, chứ không nên dựa vào sự tồn tại hay không một
mối quan hệ tổng hợp, giản đơn hoá giữa thu nhập bình quân đầu người và
bất bình đẳng.”
2.5. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và chính sách giảm nghèo
Một nền kinh tế nếu chỉ co sự thị trường hoạt động riêng lẻ thì sẽ chỉ
như “vỗ tay trên một bàn tay” do vậy tính hiệu quả của nó sẽ giảm đi, nhiều
khi có thể dẫn dến phi hiệu quả và khủng hoảng kinh tế bởi vì chính thị
trường cũng có những khuyết tật của nó. Vì vậy mà cần phải có sự điều tiết

của chính phủ. Các chính sách vĩ mô điều tiết của chính phủ là một công cụ
quan trọng và cơ bản để nhà nước có thể thực hiện vai trò điều tiết của mình.
Nhưng bản thân nhà nước cũng có những hạn chế của mình vì vậy cần phải
có sự kết hợp một cách linh hoạt giữa nhà nước và thị trường. Các chính sách
phải làm những việc mà thị trường thất bại như chính sách công cộng, chính
sách pháp luật điều tiết vĩ mô. Và những chính sách XĐGN cũng không nằm
ngoài mục đích nhằm làm tăng tính hiệu quả và khắc phục những thất bại của
thị trường.
Như trên đã nêu thì tăng trưởng và giảm nghèo có thể hỗ trợ tích cực cho
nhau nên khi hoạch định các chính sách thì cần có sự cân nhắc chính sách để
có thể kết hợp tăng trưởng và giảm nghèo một cách hiệu quả và bền vững.
 Một chính sách hoặc một tập hợp các chính sách nhằm sửa chữa những
sai lệch trong giá cả. Có được mức giá hợp lý sẽ góp phần nâng cao hiệu quả
sản xuất , tạo công ăn việc làm và xoá đói giảm nghèo.
 Một chính sách hoặc một tập hợp các chính sách nhằm đem lại những
thay đổi về cơ cấu trong phân phối tài sản nguồn lực và khả năng được giáo
dục cùng các cơ hội có liên quan và tạo ra thu nhập. Những chính sách như


vậy vượt ra ngoài phạm vi hạn hẹp của kinh tế học và động chạm tới toàn bộ
cơ cấu xã hội, thể chế, văn hoá, chính trị của các nước đang phát triển khác
nhau. Nhưng nếu không có những thay đổi triệt để về cơ cấu và phân phối lại
tài sản như vậy dù là đặt hiệu quả ngay tức thời ( chẳng hạn như thông qua
các trình diễn chính trị) thì những thay đổi nhằm cải thiện đáng kể điều kiện
sống của người nghèo ở nông thôn và thành thị , thậm chí không thể thực
hiên được.
 Chính sách hoặc tập hợp các chính sách nhằm điều chỉnh phân phối
thu nhập theo quy mô ở các tầng lớp trên bằng cách áp dụng chế độ thuế luỹ
tiến theo luật định đánh vào thu nhập tài sản, còn đối với các tầng lớp dưới
thì mở rộng cung cấp hàng tiêu dùng và dịch vụ công cộng.

 Một chính sách hoặc một tập hợp các chính sách nhằm thúc đẩy
nghiên cứu và triển khai công nghệ trong nước phù hợp với các vấn đề thế
giới thứ 3, trong đó chú trọng vào việc tìm kiếm các phương pháp hiệu quả
(mà hầu hết là sử dụng nhiều lao động) để cung cấp các dịch vụ y tế, nhà ở
và đào tạo với chi phí thấp , cải thiện nông nghiệp ở quy mô nhỏ và mở rộng
các cơ hội tìm kiếm công ăn việc làm ở nông thôn và thành thị.
2.6. Quan điểm của Kuznet đối với các nước công nghiệp trước đây và
các nước đang phát triển hiện nay
Hơn 2.500 năm trước đây, Khổng Tử từng nhận định “Người ta than
khóc cho tình trạng bất bình đẳng còn nhiều hơn là cho tình trạng khan
hiếm.” Trong khi tình trạng khan hiếm đã được khắc phục trong phần lớn thế
giới hiện đại và các kệ chất đầy hàng hoá từ Tegucigalpa cho đến Calcutta,
vấn đề bất bình đẳng vẫn còn tồn tại. Bốn mươi năm trước đây, Kuznets đề
xuất rằng bất bình đẳng thu nhập thoạt tiên gia tăng rồi sau đó giảm xuống
khi các nước phát triển kinh tế. Các nghiên cứu so sánh theo quốc gia trước
đây xác nhận giả thiết chữ U ngược của Kuznets, và đối với nhiều nước, một
hệ tư tưởng đã được xây dựng. Những nghiên cứu khác nghi ngờ hiệu ứng


chữ U ngược và sự tranh cãi phát sinh về việc liệu sau cùng tình trạng bất
bình đẳng có giảm hay không. Randolph và Lott (1993) xác nhận hiệu ứng
này đối với các nước đang phát triển và trình bày “điểm ngoặt” trong quá
trình phát triển được đo lường bằng RGDP; khi một đất nước đạt đến điểm
ngoặt này, tình trạng bất bình đẳng sẽ giảm xuống đi kèm với sự tăng trưởng
kinh tế tiếp theo.
Các bằng chứng đã thách thức hiệu ứng Kuznets ở các nước kém phát
triển và đặt nghi vấn về việc áp dụng chính sách “điểm ngoặt.” Trong nghiên
cứu bước ngoặt của Kuznets, cả ba trường hợp phát triển trước Chiến tranh
thế giới II đều cho thấy mối quan hệ hình chữ U ngược rõ ràng. Ngược lại,
trong tám trường hợp nghiên cứu chủ yếu sau năm 1950 của chúng ta, chỉ có

Malaysia thể hiện mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng thu
nhập có hình chữ U ngược rõ ràng. Đỉnh chữ U ngược gần tương ứng với
điểm ngoặt 1200 USD. Tuy nhiên, căn cứ theo công trình nghiên cứu riêng
của Randolph, việc giảm bất bình đẳng thu nhập ở Malaysia không phải là
kết quả của hiệu ứng chữ U ngược, mà đúng hơn là bất chấp hiệu ứng chữ
Ungược. Sự can thiệp đại trà của chính phủ nhằm giảm đói nghèo và bất bình
đẳng khu vực giữa các nhóm sắc tộc, thể hiện qua Chương trình kinh tế mới,
đã có công tạo ra những cải thiện về phân phối thu nhập. Malaysia là một
trường hợp ngoại lệ làm sáng tỏ qui tắc. Trong sáu trường hợp khác, cả hiệu
ứng Kuznets chữ U ngược và điểm ngoặt đều không được xác nhận. Trong
những trường hợp thiếu số liệu về trạng thái bất bình đẳng ứng với các mức
RGDP thấp hơn điểm ngoặt (Costa Rica, Hi Lạp, và Nhật Bản), các chuyên
gia về bất bình đẳng quốc gia đã bổ sung số liệu và xác nhận xu hướng tăng
trưởng cùng với công bằng hay công bằng rồi mới tăng trưởng trong từng
trường hợp. Đối với Brazil, Hàn Quốc, và Đài Loan, cả số liệu và ý kiến
chuyên gia đều bác bỏ hiệu ứng Kuznets chữ U ngược và điểm ngoặt. Trường
hợp duy nhất có thể giải thích để ủng hộ hiệu ứng Kuznets là trường hợp Thổ
Nhĩ Kỳ. Xét chung, các trường hợp nghiên cứu chủ yếu này chứng minh


rằng: (a) ban giám khảo vẫn sai lầm về hiệu ứng chữ U ngược đối với các
nước kém phát triển; và (b) khái niệm điểm ngoặt nên bị bác bỏ và do đó,
hiệu ứng Kuznets không nên có các hàm ý đối với chính sách chính phủ hay
dự báo các thể chế cho vay quốc tế.
Các trường hợp nghiên cứu chủ yếu này mang lại một vài đề xuất về
công việc nghiên cứu trong tương lai. Số liệu bổ sung về bất bình đẳng thu
nhập tại các nước kém phát triển ngày càng sẵn có hơn vào mọi thời điểm.
Trong nhiều năm, người ta từng lập luận rằng các nghiên cứu thống kê theo
dạng dữ liệu chéo là cách duy nhất để đánh giá hiệu ứng chữ U ngược cho
các nước kém phát triển do không có số liệu. Bây giờ các nghiên cứu theo

chiều dọc có tính so sánh hay tương thích hơn nên được thực hiện cho các
nhóm nước kém phát triển đang trải qua tăng trưởng kinh tế dài hạn. Một
trong những nhược điểm của nghiên cứu này là chỉ có hai nước, Brazil và
Thổ Nhĩ Kỳ, chủ trương xem công bằng là một sản phẩm của tăng trưởng.
Trong những năm gần đây, những nước khác như Chile đã trải qua tăng
trưởng đáng kể với chính sách phân phối nhỏ giọt. Khi số liệu về thay đổi
phân phối thu nhập trở nên sẵn có trong những trường hợp như vậy, các
nghiên cứu theo chiều dọc cho nhiều trường hợp có thể giúp xác minh những
kết luận có tính chất thăm dò của tôi.


KẾT LUẬN

Có thể thấy mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và chất lượng môi
trường dựa trên nền tảng lý thuyết đường cong EKC. Ô nhiễm môi trường
tăng dần là không tránh khỏi trong giai đoạn đầu của tăng trưởng kinh tế. Khi
thu nhập tăng lên, ô nhiễm đạt đến đỉnh cao nhất rồi giảm dần xuống, do
người dân có ý thức hơn về giá trị môi trường, luật pháp, chính sách môi
trường cũng như các cơ quan thi hành nghiêm khắc và hiệu quả hơn, các
công nghệ sạch, công nghệ tiên tiến được nghiên cứu và áp dụng rộng rãi tạo
điều kiện cải thiện chất lượng môi trường.
Trong khi đó, ngưỡng chuyển đổi tìm thấy của các loại chỉ tiêu ô nhiễm
ở các quốc gia đều nằm ở mức thu nhập GDP đầu người rất cao từ 3.000 trên 15.000 USD.
Mức thu nhập GDP bình quân của Việt Nam còn cách khá xa ngưỡng
chuyển đổi tối thiểu để đạt được những thành tựu đáng kể trong công tác
kiểm soát ô nhiễm, cải thiện chất lượng môi trường. Tuy nhiên, thực tế cho
thấy xu hướng giảm ô nhiễm vẫn có thể xảy ra nếu chúng ta học tập kinh
nghiệm của các nước đi trước, từ đó, đưa ra được những quyết sách đúng đắn
trong công tác bảo vệ môi trường. Dựa vào quan điểm Kuznet để có thể xây
dựng và phát triển đất nước.



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Khương Ninh (2009), Giáo trình kinh tế học, NXB Thống kê.
2. Hung, M.F., và Shaw, D (2009), Economic Growth and the Environmental
Kuznets Curve in Taiwan, Tạp chí Quản lý kinh tế.
3. Vũ Đình Bách, (2006), Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Bộ Công thương, (2010), Bảo vệ doanh nghiệp trong thương mại quốc tế,
Nxb Công thương, Hà Nội.

19


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU....................................................................................................1
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN......................................................................2
1.1.

Lý thuyết đường cong Kuznet.............................................................2

1.2.

Khái niệm nước công nghiệp trước đây.............................................3

1.3.

Khái niệm nước đang phát triển hiện nay..........................................6

CHƯƠNG 2. QUAN ĐIỂM VỀ ĐƯỜNG KUZNET ĐỐI VỚI CÁC

NƯỚC CÔNG NGHIỆP VÀ CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN..............8
2.1. Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và ô nhiễm môi trường.................8
2.2. Mối quan hệ giữa thu nhập đầu người và ô nhiễm không khí...............8
2.3. Mối quan hệ giữa thu nhập đầu người và ô nhiễm nước......................10
2.4. Mối quan hệ giữa thu nhập đầu người và phát sinh chất thải rắn........11
KẾT LUẬN.......................................................................................................18
TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................19




×