Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC HƯỚNG DẪN TRẺ 5 – 6 TUỔI KỂ CHUYỆN THEO ĐỒ VẬT, ĐỒ CHƠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 78 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH
KHOA SƯ PHẠM TIỂU HỌC - MẦM NON
-----------------

TRƯƠNG THỊ MỸ QUÝ

MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
VIỆC HƯỚNG DẪN TRẺ 5 – 6 TUỔI KỂ CHUYỆN
THEO ĐỒ VẬT, ĐỒ CHƠI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

NGÀNH: GIÁO DỤC MẦM NON
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: 2012 - 2016

Người hướng dẫn khoa học:
ThS. TRƯƠNG THỊ THANH THOÀI

QUẢNG BÌNH, NĂM 2016

i


ii


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu này là của riêng tôi, các số liệu và
kết quả trong khóa luận là trung thực và chưa được công bố trong bất kì công trình
nào khác.



Tác giả

Trương Thị Mỹ Qúy

iii


Lời Cảm Ơn
Tác giả khóa luận bày tỏ
lòng biết ơn sâu sắc tới
ThS. Trương Thò Thanh Thoài –
người đã hướng dẫn, giúp đỡ
tác giả hoàn thành khóa luận
này.
Tác giả xin chân thành cảm
ơn các Tiến só, Thạc só, các thầy
cô giáo giảng viên trong khoa Sư
phạm Tiểu học – Mầm non và
Trường đại học Quảng Bình đã
quan tâm đến đề tài nghiên cứu
và có những góp ý sâu sắc cho
khóa luận, cảm ơn giáo viên
trường Mầm non Nghóa Ninh đã
nhiệt tình ủng hộ và tạo điều
kiện cho tác giả trong quá trình
nghiên cứu đề tài.
Xin ghi nhận những tình cảm
của gia đình, bạn bè và người
thân đã quan tâm, động viên,

khích lệ tôi trong suốt thời gian
tôi hoàn thành khóa luận này.
iv


Mặc dù đã có nhiều cố gắng
song không thể tránh khỏi những
thiếu sót nhất đònh. Kính mong
nhận được ý kiến đóng góp của
hội đồng khoa học để đề tài
được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Đồng Hới, tháng 5
năm 2016
Tác giả: Trương Thò
Mỹ Qúy

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

TT

Viết tắt

Nghĩa đầy đủ

1

GD & ĐT

Giáo dục và đào tạo


2

GV

Giáo viên

3

MN

Mầm non

4

TL

Tỷ lệ

v


MỤC LỤC
Trang phụ bìa ................................................................................ Error! Bookmark not defined.
Lời cam đoan................................................................................................................................. iii
Lời cảm ơn ......................................................................................................................................iv
Danh mục các từ viết tắt .............................................................................................................. v
MỞ ĐẦU.......................................................................................................................................... 4
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC HƯỚNG DẪN
TRẺ 5 – 6 TUỔI KỂ CHUYỆN THEO ĐỒ VẬT, ĐỒ CHƠI ........................................11

1.1. Cơ sở lý luận của việc hướng dẫn trẻ 5 – 6 tuổi kể chuyện theo đồ vật, đồ chơi11
1.1.1. Về các loại đồ vật, đồ chơi được sử dụng trong chương trình phát triển ngôn
ngữ ở trường Mầm non ............................................................................................. 11
1.1.2. Kết luận sư phạm............................................................................................. 13
1.1.3. Đặc điểm sinh lý của trẻ 5 – 6 tuổi có ảnh hưởng đến khả năng kể chuyện .. 13
1.1.3.1. Đặc điểm tâm sinh lý ảnh hưởng đến khả năng kể chuyện của trẻ 5 – 6 tuổi13
1.1.3.2. Kết luận sư phạm ........................................................................................ 16
1.2. Cơ sở thực tiễn của việc hướng dẫn trẻ 5 – 6 tuổi kể chuyện theo đồ vật, đồ
chơi ............................................................................................................................ 17
1.2.1. Vài nét về chương trình phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 – 6 tuổi ...................... 17
1.2.2. Việc tổ chức hướng dẫn trẻ 5 – 6 tuổi kể chuyện theo đồ vật, đồ chơi ở trường
Mầm non trong giai đoạn hiện nay ........................................................................... 18
1.2.3. Khả năng kể chuyện theo đồ vật, đồ chơi của trẻ 5 – 6 tuổi ........................... 23
1.2.4. Kết luận sư phạm............................................................................................. 24
Chương 2: MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC HƯỚNG
DẪN TRẺ 5 – 6 TUỔI KỂ CHUYỆN THEO ĐỒ VẬT, ĐỒ CHƠI.............................25
2.1. Xác lập hợp lí mục tiêu việc làm quen đồ vật, đồ chơi ...................................... 25
2.2. Chuẩn bị đồ chơi phù hợp với nội dung dạy học ............................................... 28
2.3. Xây dựng quy trình tổ chức hoạt động làm quen đồ vật khoa học phù hợp với
nhận thức và năng lực của trẻ.................................................................................... 30
2.4. Đàm thoại có hệ thống về đồ vật, đồ chơi và mối quan hệ của đồ vật, đồ chơi
trong thực tiễn ........................................................................................................... 31
2.5. Lập lời kể của giáo viên sinh động ................................................................... 35
2.6. Tích hợp các nội dung giáo dục khác như múa, kịch, đọc thơ,…..................... 37
2.7. Hình thành ở trẻ những hiểu biết về các kĩ năng sống trong sinh hoạt hằng
ngày ........................................................................................................................... 41
1


Chương 3: THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM ..............................................................................44

3.1. Mục đích thực nghiệm ....................................................................................... 44
3.2. Đối tượng, địa bàn và thời gian thực nghiệm..................................................... 44
3.3. Phương pháp tiến hành thực nghiệm.................................................................. 45
3.4. Nội dung thực nghiệm ........................................................................................ 45
3.5. Kết quả thực nghiệm .......................................................................................... 46
3.6. Kết luận chung về kết quả thực nghiệm ............................................................. 49
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ..................................................................................................50
I. Kết luận .................................................................................................................. 50
II. Kiến nghị .............................................................................................................. 51
TÀI LIỆU THAM KHẢO .........................................................................................................53
PHỤ LỤC

2


DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1: Nhận thức của giáo GV về vai trò của đồ vật, đồ chơi trong hoạt động
cho trẻ kể chuyện .........................................................................................................................19
Bảng 1.2: Mức độ sử dụng đồ vật, đồ chơi của GV trong hoạt động hướng dẫn trẻ
5 – 6 tuổi kể chuyện sáng tạo ...................................................................................................20
Bảng 1.3: Thời gian tiến hành kể chuyện theo đồ vật, đồ chơi .......................................20
Bảng 1.4: Hình thức tổ chức cho trẻ 5- 6 tuổi kể chuyện theo đồ vật, đồ chơi ...........21
Bảng 1.5: Đánh giá mức độ phát triển ngôn ngữ mạch lạc của 60 trẻ 5 – 6 tuổi........22
Bảng 1.6: Bảng đánh giá kết quả hoạt động dạy trẻ 5 – 6 tuổi kể chuyện theo đồ
vật, đồ chơi ....................................................................................................................................47

3


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
1.1. Mầm non là bậc học đầu tiên, đặt nền móng cho sự phát triển của con
người. Sự nghiệp trồng người cũng giống như sự nghiệp trồng cây vậy, gốc có chắc
thì ngọn mới bền, đầu tư vào mầm non là vun vào gốc của sự phát triển mỗi thế hệ.
Trong đó phát triển ngôn ngữ cho trẻ là một trong những mục tiêu quan trọng nhất
của giáo dục mầm non. Ngôn ngữ là công cụ để trẻ giao tiếp, học tập, vui chơi. Ngôn
ngữ giữ vai trò quyết định sự phát triển của tâm lí của trẻ, bên cạnh đó ngôn ngữ còn
là phương tiện để giáo dục trẻ một cách toàn diện bao gồm sự phát triển về đạo đức,
tư duy nhận thức và các chuẩn mực hành vi văn hóa.
Trẻ thơ là lứa tuổi bắt đầu của sự nhận thức và những tình cảm mãnh liệt, giữa
trẻ và các nhân vật trong những câu chuyện cổ tích có sự đồng điệu về tâm hồn và
tình cảm, trẻ thích nghe kể chuyện và thích được kể chuyện. Những câu chuyện là
một phần của cuộc sống gợi lên cho trẻ những xúc cảm lành mạnh, giúp trẻ nhận biết
thế giới xung quanh, những mối quan hệ giữa con người với con người... góp phần
giáo dục thẩm mỹ và phát triển ngôn ngữ nghệ thuật cho trẻ, nhờ đó trẻ nảy sinh năng
lực tự hoạt động nghệ thuật khi tiếp xúc với những câu chuyện.
Trong những năm gần đây ngành giáo dục nước ta đã có những bước chuyển
biến đáng kể đặc biệt là giáo dục mầm non. Sự đổi mới của ngành giáo dục mầm non
vừa tạo ra những cơ hội nhưng đồng thời cũng đặt ra những thách thức để bước đầu
tạo nên những con người của thời đại công nghiệp. Nội dung và phương pháp giáo
dục theo hướng hiện đại, tính tích cực hoá cá nhân nhằm giúp trẻ phát triển một cách
toàn diện.
Quyết định số 149/ 2006/QĐ – TTG phê duyệt đề án phát triển giáo dục Mầm
non giai đoạn 2006 – 2015 trong đó có đề cập “ Nâng cao chất lượng nuôi dưỡng,
chăm sóc và giáo dục trẻ trong các cơ sở giáo dục mầm non”. Ở đây cần tạo điều kiện
cho trẻ phát triển tư duy, sáng tạo thông qua quá trình học tập, vui chơi và làm quen
với cách học mới. Chương trình giáo dục mầm non do Bộ GD & ĐT vừa ban hành
thí điểm từ 2006 cũng được triển khai đại trà từ năm học 2009 – 2010, các nội dung
dạy học được phân bổ theo nguyên tắc đồng tâm phát triển.
Ở các trường Mầm non hiện nay đã áp dụng chương trình Mầm non mới và

không ngừng đổi mới về nội dung và hình thức dạy học nhằm tạo điều kiện cho trẻ
phát triển trên tất cả các lĩnh vực: Nhận thức, ngôn ngữ, thể lực, tình cảm – xã hội.
1.2. Đối với hoạt động hướng dẫn trẻ kể chuyện theo đồ vật, đồ chơi nhằm
bước đầu giáo dục các mặt đạo đức, trí tuệ, thể lực và thẩm mỹ cho trẻ. Nhưng làm
4


thế nào để trẻ hứng thú với hoạt động này đòi hỏi người giáo viên phải luôn sáng tạo
và đổi mới phương pháp dạy học nhằm tạo cho trẻ có tâm thế học mà chơi, chơi mà
học. Có nhiều cách thức để giáo viên lựa chọn cho trẻ kể chuyện như kể chuyện theo
tranh, kể chuyện sáng tạo, kể chuyện theo đồ vật, đồ chơi……Trong đó kể chuyện
theo đồ vật, đồ chơi là một trong những cách thức được trẻ đòn nhận và mang lại
hiệu quả giờ học cao.
Trẻ mầm non chưa biết chữ, năng lực và kinh nghiệm sống chưa đủ để tự
mình tiếp xúc với thế giới con người, chỉ có đồ chơi là người bạn thân thiết đối với
chúng. Đồ chơi là niềm vui nho nhỏ thân quen, là kho báu và niềm ao ước của hầu
như mọi đứa trẻ trên thế giới. Trẻ em cần nơi, cần chỗ để bày tỏ suy nghĩ và tình cảm
của mình. Đồ chơi quả là một nguồn lý tưởng để chúng có thể dễ dàng thể hiện, chơi
cùng, nổi giận, thậm chí ném đi bừa bãi. Thế nhưng, những loại đồ chơi đó lại là
những “dụng cụ học tập” đầu đời của trẻ, nghiên cứu đã chứng minh rằng tất cả mọi
sự phát triển đều được tăng cường thông qua hành vi chơi đùa của trẻ từ những tháng
đầu đời cho tới tận khi đã đi học. Và tùy vào từng loại đồ chơi, từng trò chơi lại có
những tác động khác nhau.
1.3. Thực tế hiện nay cho thấy nhiều trường Mầm non tuy đã có chú trọng đến
hoạt động hướng dẫn trẻ kể chuyện theo đồ vật, đồ chơi nhưng vẫn chưa mang lại
hiệu quả đáng kể. Các loại hình và việc tổ chức hoạt động hướng dẫn trẻ kể chuyện
theo đồ vật đồ chơi chỉ được tiến hành trong các giờ hoạt động góc chứ chưa đưa vào
một tiết dạy cụ thể, đồ chơi còn đơn giản và đặc biệt khi cho trẻ kể chuyện với đồ vật,
đồ chơi thì vẫn chưa phát huy hết khả năng của trẻ cũng như tác dụng của đồ chơi đối
với trẻ.

Xuất phát từ những lý do đó chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài “Một số biện
pháp nâng cao hiệu quả việc hướng dẫn trẻ 5 – 6 tuổi kể chuyện theo đồ vật, đồ
chơi” với mong muốn giúp các giáo viên Mầm non nâng cao hiệu quả trong các hoạt
động dạy trẻ kể chuyện.
2. Lịch sử nghiên cứu
Ngôn ngữ là sự sáng tạo kì diệu nhất của nền văn hóa con người. Ngôn ngữ
chỉ sinh ra với xã hội và vì xã hội. Ngôn ngữ là công cụ để tư duy, giao tiếp, là chìa
khóa để nhận thức, là vũ khí để chiếm lĩnh kho tàng trí thức của dân tộc và nhân loại.
Bởi vậy, giáo dục và phát triển ngôn ngữ giữ một vai trò đặc biệt quan trọng, nhất là
đối với lứa tuổi mầm non, là lứa tuổi diễn ra sự phát triển nhanh về nhiều lĩnh vực
trong đó đáng chú ý hơn cả là lĩnh vực ngôn ngữ và nhận thức. Đã từ lâu, ngôn ngữ
của trẻ trước tuổi học là vấn đề được nhiều nhà khoa học trên thế giới và trong nước
quan tâm nghiên cứu. Các nhà khoa học trên thế giới như: L.X.Vưgôtxki,
5


A.M.Leusina, E.I.Tikhêêva, D.N.Ixtomina, Ph.A.Xôkhina, Kak Hainơ Dich,
A.M.Bôrôdich ... ở Việt Nam: Phan Thiều, Nguyễn Huy Cẩn, Nguyễn Xuân Khoa,
Tạ Thị Ngọc Thanh, Nguyễn Thị Oanh, Lưu Thị Lan .... Tất cả các nhà khoa học trên
thế giới hay trong nước, khi nghiên cứu về ngôn ngữ trẻ em dù ở lĩnh vực tâm lí học
hay giáo dục học đều rất quan tâm đến việc nghiên cứu xác định phương pháp, biện
pháp nào là tốt nhất nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Trong quá trình khảo sát,
nghiên cứu và tìm hiểu tôi có được tiếp xúc với một số công trình như:
1. “Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi thông qua chuyện kể”
của tác giả Hồ Lam Hồng đề cập đến ảnh hưởng của các biện pháp kể chuyện khác
nhau đến các hoạt động ngôn ngữ cũng như các đặc điểm tâm lí của trẻ. Tác giả đã
nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đưa chuyện kể vào trong giảng dạy nhằm phát
triển ngôn ngữ cho trẻ trước tuổi học.[10]
2. “Các biện pháp phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ 5 – 6 tuổi” – Tác giả
Nguyễn Thị Oanh coi kể chuyện như một biện pháp phát triển ngôn ngữ như một

biện pháp hữu hiệu đối với trẻ em trước tuổi học nói chung và trẻ em từ 5 – 6 tuổi nói
riêng.[18]
3. “Một số biện pháp dạy trẻ mẫu giáo lớn kể chuyện về sinh hoạt nhằm phát
triển lời nói mạch lạc” của tác giả Hoàng Thị Thu Hương đề cập đến vấn đề phát
triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ thông qua hoạt động kể chuyện về sinh hoạt và bà
cũng đã đưa ra một số biện pháp dạy trẻ 5 – 6 tuổi kể chuyện giúp phát triển lời nói
mạch lạc ở trẻ độ tuổi này.[11]
4. “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ 5 – 6 tuổi thông
qua kể chuyện sáng tạo” của tác giả Hoàng Thị Hồng Mát đưa ra một số biện pháp
dạy trẻ mẫu giáo kể chuyện sáng tạo nhằm phát triển lời nói mạch lạc ở trẻ.[15]
Ngoài ra còn rất nhiều các công trình nghiên cứu khác như: “Biện pháp phát
triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo 5 -6 tuổi thông qua hoạt động kể lại chuyện thần
thoại một cách sáng tạo ở trường mầm non Hạ Long” của Vũ Thị Lan – khóa luận
tốt nghiệp năm 2005, “ Một số biện pháp dạy trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi kể lại chuyện
diễn cảm ở trường mầm non Hạ Long” của Phạm Thị Hải – khóa luận tốt nghiệp
năm 2005.
Vốn từ, khả năng hiểu từ, ngữ pháp… của trẻ em ở các độ tuổi khác nhau
có các công trình nghiên cứu của Dương Diệu Hoa (1985), Nguyễn Minh Huệ
(1989), Hồ Minh Tâm (1989) v. v… Chẳng hạn Lưu Thị Lan (1996) trong công
trình nghiên cứu "Những bước phát triển ngôn ngữ trẻ em từ 1 - 6 tuổi" [14] đã
chỉ rõ các bước phát triển về ngữ âm của trẻ em Việt nam bắt đầu từ giai đoạn tiền
ngôn ngữ (0 - 1 tuổi) giai đoạn ngôn ngữ (1 - 6 tuổi), về mặt ngữ âm có những
6


bước tiến dài đặc biệt là giai đoạn 4 - 6 tuổi. Các bước phát triển về từ vựng được
tác giả thống kê từng lứa tuổi với số lượng từ tối thiểu và số lượng từ tối đa. Từ
18 tháng tuổi trở đi trẻ có sự nhảy vọt về số lượng từ và yếu tố văn hoá, xã hội
ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển vốn từ của trẻ. Các bước phát triển về ngữ
pháp trong ngôn ngữ của trẻ em Việt Nam được tác giả nghiên cứu rất cụ thể từng

lứa tuổi với loại câu đơn, câu phức, các loại câu phức như câu phức chính phụ,
câu phức đẳng lập. Câu phức chính phụ xuất hiện muộn và có số lượng ít hơn.
Đặc biệt ngôn ngữ mạch lạc của trẻ 5 - 6 tuổi, điều kiện cần thiết cho trẻ học tập ở
phổ thông được rất nhiều tác giả dày công nghiên cứu như: A.M.Leusina;
X.L.Rubinxtờin; D.N.Ixtomina; Nguyễn Xuân Khoa, Nguyễn Thị Oanh…
A. M. Leusina đã tiến hành nghiên cứu sự phát triển ngôn ngữ mạch lạc của
trẻ mẫu giáo và đi đến kết luận: Không phải là từ mà là câu và ngôn ngữ mạch lạc
là đơn vị của ngôn ngữ như một phương tiện giao tiếp. Trẻ càng lớn tính hoàn
cảnh của ngôn ngữ càng giảm dần chuyển sang hình thức nói mạch lạc gắn chặt
với sự lĩnh hội của vốn từ, lĩnh hội hệ thống ngữ pháp của tiếng mẹ đẻ.
X. L. Rubinxtêin cho rằng: Điều cơ bản trong phát triển lời nói mạch lạc
cho trẻ là chỉnh sửa và hoàn thiện kỹ năng sử dụng lời nói như một phương tiện
giao tiếp… Phát triển vốn từ cũng như việc nắm vững các hình thức ngữ pháp đã
ảnh hưởng đến lời nói mạch lạc ở từng thời điểm nhất định.
Nhìn chung việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở các độ tuổi được các nhà
nghiên cứu quan tâm nhiều mặt đa dạng và phong phú. Tuy nhiên các công trình
nghiên cứu này mới tập trung ở việc phát triển ngôn ngữ thông qua việc dạy trẻ kể
chuyện mà chưa chú ý đến khả năng sáng tạo ở trẻ, đặc biệt khi lứa tuổi trẻ 5 – 6 tuổi
đã hoàn toàn có khả năng thuộc chuyện, kể chuyện và sáng tạo trong kể chuyện.
Việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động kể chuyện sáng tạo hầu
như chưa có một công trình nghiên cứu nào cụ thể và chuyên sâu. Trong khóa luận
này, tôi nghiên cứu một số biện pháp nâng cao hiệu quả hướng dẫn trẻ kể chuyện
theo đồ vật, đồ chơi, với hy vọng thông qua đồ vật, đồ chơi xung quanh trẻ góp một
phần nhỏ vào việc chuẩn bị phương tiện ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi bước
vào lớp 1, giúp trẻ tham gia vào một hoạt động chủ đạo mới là hoạt động học tập
được thuận lợi hơn.
3. Mục đích nghiên cứu
Đề tài đưa ra một số biện pháp hướng dẫn trẻ 5 – 6 tuổi kể chuyện theo đồ vật ,
đồ chơi nhằm góp phần giúp các giáo viên tổ chức tốt các hoạt động kể chuyện ở
trường Mầm non.


7


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả việc
hướng dẫn trẻ kể chuyện theo đồ vật, đồ chơi giành cho trẻ Mẫu giáo 5 – 6 tuổi.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chủ yếu nghiên cứu các biện pháp phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ 5
– 6 tuổi trong hoat động kể chuyện theo đồ vật, đồ chơi.
Đề tài được tiến hành nghiên cứu thực nghiệm trên đối tượng trẻ Mẫu giáo
Thành phố Đồng Hới Trường Mầm non Nghĩa Ninh.
5. Giả thuyết khoa học
Nếu những biện pháp của đề tài đưa ra phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của
trẻ, phù hợp với nội dung, hình thức câu chuyện và được ứng dụng một cách khoa
học các phương tiện dạy học (đồ vật, đồ chơi) thì sẽ phát huy hiệu quả trong việc
hướng dẫn trẻ kể chuyện theo đồ vật, đồ chơi.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hướng dẫn trẻ 5 – 6 tuổi kể
chuyện theo đồ vật, đồ chơi. Cụ thể đề tài có nhiệm vụ nghiên cứu các lĩnh vực có
liên quan thuộc giáo dục học, tâm lý học, ngôn ngữ học… nhằm tạo cơ sở lý luận cho
đề tài. Nghiên cứu thực tiễn về mục tiêu giáo dục và chương trình phát triển ngôn
ngữ dành cho trẻ 5 – 6 tuổi, phương pháp hướng dẫn trẻ 5 – 6 tuổi kể chuyện theo đồ
vật, đồ chơi.
- Đưa ra một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc hướng dẫn trẻ 5 – 6
tuổi kể chuyện theo đồ vật, đồ chơi.
- Tổ chức thực nghiệm sư phạm, phân tích kết quả thực nghiệm nhằm đánh
giá khả năng đưa ra các biện pháp vào thực tế dạy học ở trường Mầm non.

7. Phương pháp nghiên cứu
Nhằm giải quyết các vấn đề đặt ra trong đề tài chúng tôi đã sử dụng các
phương pháp cơ bản sau:
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Sử dụng phương pháp thu nhập tài liệu, đọc sách, phân tích, so sánh, tổng hợp,
khái quát, hệ thống những nguồn tài liệu có liên quan đến đề tài nghiên cứu. Trong
đó phương pháp phân tích chúng tôi sử dụng chủ yếu nhằm xem xét, lý giải các vấn
8


đề lý luận để rút ra những nhận xét mang tính thời sự cũng như những việc làm được
và những việc chưa làm được của hệ thống tài liệu này để làm tiền đề xây dựng đề tài.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp quan sát
Quan sát hoạt động hướng dẫn trẻ 5 – 6 tuổi kể chuyện theo đồ vật, đồ chơi,
khả năng kể chuyện của trẻ ở trường Mầm non nhằm đánh giá thực trạng sử dụng các
biện pháp mà các giáo viên đã sử dụng để dạy trẻ kể chuyện theo đồ vật, đồ chơi.
7.2.2. Phương pháp điều tra bằng anket
- Sử dụng phiếu điều tra để tìm hiểu nhận thức của giáo viên Mầm non về việc
giúp trẻ Mẫu giáo 5 – 6 tuổi kể chuyện theo đồ vật, đồ chơi.
- Dự giờ, trao đổi với các giáo viên nhằm thu thập những kinh nghiệm quý báu
của các nhà chuyên môn về các biện pháp hướng dẫn trẻ 5 – 6 tuổi kể chuyện theo đồ
vật, đồ chơi và đưa ra kết luận sư phạm chính xác, khoa học đồng thời rút ra kinh
nghiệm cho bản thân.
7.2.3. Phương pháp đàm thoại
- Trao đổi, trò chuyện với giáo viên về việc tổ chức hoạt động hướng dẫn trẻ
kể chuyện theo đồ vật, đồ chơi mà các giáo viên đã tiến hành trước và sau khi chúng
tôi nghiên cứu. Qua đó thấy được các biện pháp khác nhau mà các giáo viên đã sử
dụng trong hoạt động này.
- Trò chuyện với trẻ Mẫu giáo 5 – 6 tuổi qua các hoạt động trong ngày cũng

như trong hoạt động kể chuyện theo đồ vật, đồ chơi để hiểu về mức độ nhận thức và
khả năng kể chuyện của trẻ.
7.2.4. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Phương pháp này được sử dụng trong khâu hoàn tất quá trình nghiên cứu
nhằm xem xét, xác nhận tính đúng đắn, hợp lí, tính khả thi của các biện pháp hướng
dẫn trẻ kể chyện theo đồ vật, đồ chơi mà khóa luận đề xuất. Các loại thực nghiệm
được khóa luận đề cập là:
- Thực nghiệm thăm dò nhằm thăm dò khả năng kể chuyện theo đồ vật, đồ
chơi của trẻ.
- Thực nghiệm kiểm tra, đánh giá (thực nghiệm dạy học) nhằm kiểm chứng,
đánh giá việc ứng dụng các đồ vật, đồ chơi vào trong hoạt động hướng dẫn trẻ 5 – 6
tuổi kể chuyện.

9


7.2.5. Nhóm phương pháp thống kê toán học
Trên cơ sở quan sát và điều tra bằng phiếu để thống kê lại mức độ nhận thức
của giáo viên và khả năng kể chuyện theo đồ vật, đồ chơi cho trẻ Mẫu giáo 5 – 6 tuổi.
8. Những đóng góp của đề tài
- Đề tài góp phần hệ thống các vấn đề lý luận về các biện pháp hướng dẫn trẻ
5 – 6 tuổi kể chuyện theo đồ vật, đồ chơi.
- Đề tài xây dựng một số giáo án cho trẻ 5 – 6 tuổi nhằm giúp trẻ kể chuyện
theo đồ vật, đồ chơi một cách hiệu quả nhất.
- Đề tài sẽ làm tài liệu tham khảo cho các giáo viên và phụ huynh trong việc
hướng dẫn trẻ 5 – 6 tuổi kể chuyện theo đồ vật, đồ chơi.
9. Bố cục của khóa luận
Khoá luận gồm những phần sau:
- Phần mở đầu: Lý do chọn đề tài, mục đích nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu,
đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài, giả thuyết khoa học, nhiệm vụ nghiên

cứu, phương pháp nghiên cứu, những đóng góp của đề tài, bố cục khoá luận.
- Phần nội dung gồm 3 chương
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về việc hướng dẫn trẻ 5 – 6 tuổi kể
chuyện theo đồ vật, đồ chơi.
Chương 2: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả việc hướng dẫn trẻ 5 – 6 tuổi
kể chuyện theo đồ vật, đồ chơi.
Chương 3:Thực nghiệm sư phạm
- Phần kết luận và kiến nghị: Những kết quả đạt được của khoá luận
- Tài liệu tham khảo: Thống kê 35 tài liệu đã sử dụng trong quá trình nghiên cứu
đề tài.
- Phần phụ lục: Giới thiệu phiếu tham khảo ý kiến của giáo viên về thực trạng
hoạt động hướng dẫn trẻ 5 – 6 tuổi kể chuyện theo đồ vật, đồ chơi ở trường Mầm non,
phiếu đánh giá kết quả hoạt động, giáo án mẫu.

10


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC HƯỚNG DẪN TRẺ
5 – 6 TUỔI KỂ CHUYỆN THEO ĐỒ VẬT, ĐỒ CHƠI
1.1. Cơ sở lý luận của việc hướng dẫn trẻ 5 – 6 tuổi kể chuyện theo đồ vật,
đồ chơi
1.1.1. Về các loại đồ vật, đồ chơi được sử dụng trong chương trình phát
triển ngôn ngữ ở trường Mầm non
Đồ chơi là những đồ vật được bởi trẻ em và thú cưng trong các hoạt động giải
trí. Chúng thường là những đồ vật, thú vật thu nhỏ, được tạo dáng đơn giản và
có màu sắc hấp dẫn. Đồ chơi có những nét tiêu biểu dưới dạng khái quát, bảo đảm tái
tạo các hoạt động tương ứng của đồ vật, thú vật. Ví dụ đồ chơi xe ô tô có thể chạy, đồ
chơi búp bê có hình dạng giống con người. Những dân tộc, những nền văn hóa hay
các thời kỳ khác nhau hình thành các đồ chơi khác nhau. Trong việc khảo cổ, người

ta tìm thấy từ thời tiền sử con người đã làm ra các đồ chơi, đơn giản như mô hình nhà,
thú vật bằng đất nung, búp bê trẻ sơ sinh, chiến binh cũng như các công cụ được sử
dụng bởi người lớn. Những đồ chơi này được tìm thấy ở các khu vực nghiên cứu
khảo cổ học.
Đồ chơi không chỉ là thứ để trẻ em giải trí. Nó còn mang tính giáo dục do đó
ảnh hưởng tới sự hình thành tính cách của trẻ nhỏ. Những đồ chơi ngày nay rất đa
dạng, nhiều công ty đồ chơi lớn còn có những phòng thí nghiệm riêng, nghiên cứu sở
thích của trẻ em, sự ảnh hưởng của đồ chơi với trẻ em. Khoa học giáo dục cũng xem
đồ chơi là một phương tiện quan trọng trong việc giáo dục trẻ em. Đa số trẻ em có
thể chơi với bất cứ thứ gì chúng tìm thấy như quả thông hay đá.
Ở trường Mầm non đồ vật, đồ chơi bao gồm các loại:
- Đồ chơi mô phỏng
Đồ chơi mô phỏng là những đồ chơi mô phỏng lại các phương tiện, các đồ vật
có trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Ví dụ: Xe tải làm bằng nhựa, máy bay
làm bằng nhựa, búp bê… Những đồ chơi đó giúp trẻ liên tưởng đến các đồ vật, vật
dụng trong gia đình, trẻ sử dụng các đồ chơi đó để mô phỏng lại những công việc
thường ngày của bố mẹ hoặc các hoạt động của mọi người xung quanh. Chẳng hạn,
trẻ sử dụng các đồ chơi được làm bằng nhựa như soong, bếp, chảo, hoa quả, dĩa,
bát….để chơi các trò chơi nấu ăn, trò chơi mẹ con….

11


- Đồ chơi miếng ghép
Đồ chơi miếng ghép đã được chứng minh giúp phát triển tư duy cho trẻ ở mọi
độ tuổi.Tuy đơn giản nhưng chúng lại kích thích tư duy logic, sáng tạo, trí tưởng
tượng thông qua việc tạo những hình thù đa dạng. Với những mảnh ghép đơn giản,
các bé sẽ tập nghĩ ra những cách lắp ghép mới để thể hiện những sự vật nhìn thấy
xung quanh. Điều này khuyến khích trẻ chủ động quan sát, ghi nhớ và kích thích khả
năng sáng tạo từ khi còn nhỏ tuổi.

Các bé nhà trẻ đã có thể làm quen với những mảnh ghép ban đầu như ngôi nhà,
con vật dễ thương.... Từ 5 - 6 tuổi, đồ chơi lắp ghép lại phù hợp hơn cho bé do mang
nhiều tính thử thách và có những chủ đề vô cùng hấp dẫn và thú vị như “Bí mật dưới
đáy biển”, “Cuộc sống ngoài không gian” hay “Công trường phá dỡ”.Các bé sẽ vô
cùng thích thú khi được khám phá, suy luận cấu trúc sự vật xung quanh để tự tạo ra
một thế giới đồ chơi lắp ghép phong phú và những câu chuyện kì thú cúa riêng mình.
- Đồ chơi kỹ thuật
Loại đồ chơi này hiện nay có rất nhiều loại và mẩu mã với đặc trưng có thể di
chuyển, phát ra âm thanh, ánh sáng và tương tác… kích thích sự tò mò của bé. Cơ
chế hoạt động chủ yếu là bằng cót, pin và điện. Đồ chơi này thường mô phỏng những
chiếc xe đua, xe địa hình có động cơ hoặc robot… di chuyển linh hoạt nên các bé
thường rất thích. Trò chơi kĩ thuật có chức năng dẫn dắt, kích thích trẻ vận động, phát
triển hệ cơ và tăng cường thể chất, sức bền cho cơ thể.
- Đồ chơi năng khiếu
Trò chơi vẽ tranh giúp bé làm quen với màu sắc, thích thú và say mê khám
phá, bước đầu hình thành những cảm xúc tích cực về thế giới muôn màu xung quanh.
Trên cơ sở này, sức sáng tạo của trẻ sẽ được kích thích để phát triển, từ đó hình thành
năng khiếu thẩm mỹ về sau.
Qua đó ta thấy, đồ vật đồ chơi có tác dụng lớn đến việc hình thành và phát
triển nhân cách trẻ. Chính những đồ chơi này giúp trẻ được thao tác, được hoạt động,
trải nghiệm, được thể hiện những nhu cầu cá nhân, được phát triển cân đối hài hòa, từ
đó giúp trẻ phát triển toàn diện. Đồ chơi là yếu tố thúc đẩy trẻ em thực hiện nhiều
hành động và thao tác khác nhau có tác dụng rèn luyện thể lực cho trẻ.
Đồ chơi có vai trò hết sức cần thiết đối với trẻ, giúp trẻ tìm hiểu, khám phá thế
giới xung quanh, giúp các em làm quen với những đặc điểm, tính chất của nhiều đồ
vật, biết được công dụng của chúng trong sinh hoạt và trong lao động của con người.
Đồ chơi còn là phương tiện giúp trẻ phát hiện ra những mối quan hệ của người với
người trong xã hội dần dần biết gia nhập vào các mối quan hệ đó. Hoạt động với đồ
12



chơi vừa làm thỏa mãn nhu cầu vui chơi, vừa làm cho đôi bàn tay khéo léo, đôi chân
dẻo dai cơ thể mềm mại, hình dáng phát triển cân đối hài hòa, vừa chuẩn bị cho trẻ
vào học tiểu học vừa có thể tham gia tốt vào cuộc sống xã hội sau này.
1.1.2. Kết luận sư phạm
Đồ vật, đồ chơi là một trong những phương tiện trực quan có vai trò hết sức
quan trọng đối với sự phát triển ngôn ngữ của trẻ mầm non, đặc biệt là trẻ mẫu giáo
lớn 5 – 6 tuổi. Vì thế, cần phải phát triển ngôn ngữ cho trẻ bằng các đồ vật, đồ chơi
thông qua nhiều hoạt động khác nhau. Trong đó hoạt động hướng dẫn trẻ kể chuyện
theo đồ vật, đồ chơi là một hình thức giáo dục có nhiều ưu thế phát triển ngôn ngữ
hơn cả. Bởi cho trẻ kể chuyện theo đồ vật, đồ chơi sẽ giúp trẻ trau dồi vốn từ cho bản
thân, phát triển ngôn ngữ lời nói, hình thành các thói quen sử dụng ngôn ngữ mạch
lạc trong giao tiếp và thể hiện sự sáng tạo của mình trong khi kể chuyện.
Hướng dẫn trẻ kể chuyện theo đồ vật, đồ chơi phải được tiến hành bằng nhiều
phương pháp, biện pháp khác nhau, mỗi phương pháp và biện pháp có ưu và nhược
điểm riêng. Vì thế việc hướng dẫn giáo viên mầm non vận dụng, phát huy những ưu
điểm các hình thức, phương pháp đó để vừa cuốn hút trẻ đi vào bài học vừa giúp trẻ
cảm nhận được vẽ đẹp của những đồ vật, đồ chơi trong cuộc sống qua đó nhằm phát
triển ngôn ngữ và sự sáng tạo cho trẻ. Việc hướng dẫn trẻ 5 – 6 tuổi kể chuyện theo
đồ vật, đồ chơi là hoạt động khá phức tạp đòi hỏi năng lực tổ chức toàn diện của cô
giáo. Muốn đạt được hiệu quả cao người giáo viên phải biết lựa chọn, sử dụng các
phương pháp khoa học, linh hoạt, hợp lý nhằm giải quyết các mục tiêu giao dục, mục
tiêu phát triển ngôn ngữ kể chuyện cho trẻ. Để làm được điều đó người giáo viên phải
luôn học hỏi, tìm tòi, trau dồi kiến thức cho bản thân, chủ động trong công tác giáo
dục đặc biệt phải luôn tìm hiểu, nắm vững và thực hiện tốt chương trình giáo dục
mầm non mới hiện nay.
1.1.3. Đặc điểm sinh lý của trẻ 5 – 6 tuổi có ảnh hưởng đến khả năng kể
chuyện
1.1.3.1. Đặc điểm tâm sinh lý ảnh hưởng đến khả năng kể chuyện của
trẻ 5 – 6 tuổi

Ở giai đoạn này các đặc điểm tâm sinh lý của trẻ đã phát triển khá hoàn thiện
tạo điều kiện thuận lợi cho khả năng tham gia các hoạt động học tập, vui chơi. Các
đặc điểm của quá trình ghi nhớ, chú ý, trí tưởng tượng, tư duy, ngôn ngữ và các loại
tình cảm là cơ sở quan trọng để xây dựng các biện pháp nâng cao hiệu quả trong việc
hướng dẫn trẻ kể chuyện theo đồ vật, đồ chơi.

13


- Khả năng ghi nhớ chú ý: Trẻ 5 – 6 tuổi đã có khả năng ghi nhớ các câu
chuyện rất lâu và đem câu chuyện này kể lại cho người khác, có những câu chuyện
trẻ mới nghe một đến hai lần nhưng vẫn có thể kể lại đôi lúc trật tự câu chuyện hơi
lộn xộn chút ít. Thậm chí có những câu chuyện với tình tiết hấp dẫn, các lời thoại
sinh động thì trẻ còn nhớ rất lâu.
- Khả năng chú ý của trẻ phát triển mạnh như sức tập trung chú ý, sức bền
vững chú ý, sự phân phối chú ý, sự di chuyển chú ý. Như vậy ở độ tuổi này trẻ có tập
trung chú ý hay phân phối chú ý thì trẻ mới tiếp thu các tri thức hay hoạt động nghệ
thuật được linh hoạt. Đặc biệt là sự di chuyển chú ý được chuyển từ hoạt động này
sang hoạt động khác rất phù hợp trong việc kể chuyện theo đồ vật, đồ chơi của trẻ dù
trẻ kể chuyện với bất cứ đồ vật, đồ chơi nào đi nữa thì sự di chuyển chú ý sẽ giúp trẻ
gợi mở các tác dụng mới của đồ vật, đồ chơi.
- Trí tưởng tượng: Trí tưởng tượng được nảy sinh khi trẻ bắt đầu tham gia vào
trò chơi với các đồ vật, đồ chơi thay thế đặc biệt là trong trò chơi đóng vai theo chủ
đề. Việc thay thế đồ vật này bằng đồ vật khác như dãy ghế gọi là đoàn tàu, cái gối
xem là em bé…trong trò chơi làm nảy sinh khả năng bổ sung, thay thế các sự vật, các
tình huống, các sự kiện hiện thực băng việc xây dựng nên biểu tượng mới từ biểu
tượng đã tích lũy được tức là nảy sinh trí tưởng tượng. Trong khi chơi trẻ thả sức
tưởng tượng rất phong phú nào là lái máy bay, chữa bệnh thậm chí là bay vào vũ trụ.
Với trí tưởng tượng đó trong khi chơi không những trẻ có thể làm được mọi việc mà
còn có thể có tất cả những gì mình muốn. Chẳng hạn muốn có nồi để nấu thì lấy nắp

chai, muốn cưỡi ngựa thì dùng cán chổi…
Trí tưởng tượng của trẻ gắn với niềm thơ ngây và cảm xúc mãnh liệt nên khi
gặp sự tưởng tượng trong các loại hình phát triển ngôn ngữ thì trí tưởng tượng của trẻ
phát triển mạnh mẽ, nhất là khi trẻ được trò chuyện với những đồ vật, đồ chơi mà trẻ
yêu thích, được kể cho mọi người nghe về những loại đồ chơi hằng ngày của
mình…..Trẻ say sưa hòa mình vào câu chuyện với những món đồ chơi yêu thích của
mình, hiểu được những công dụng của đồ chơi đối với đời sống con người. Chẳng
hạn xe dùng để chở người, xe có nhiều loại nào là xe tải, xe ô tô, xe máy… Nhờ vậy
mà trí tưởng tượng của trẻ ngày càng được phát huy.
- Tư duy: Lứa tuổi này trẻ thường chọn và biểu đạt ý tưởng của mình qua cách
đặt tên chuyện. Trình tự diễn đạt sự việc thể hiện khả năng suy luận, suy diễn và kết
luận của trẻ. Điểm nổi bật về trình tự diễn giải vấn đề ở trẻ thường bám theo trình tự
xảy ra sự việc, theo trình tự thời gian, cái gì xảy ra trước nói trước, cái gì xảy ra sau
nói sau và theo trình tự không gian thường từ ngoài vào trong, từ điểm chính nổi bật
ở vị trí trọng tâm đến chi tiết phụ. Nội dung trình bày câu chuyện của trẻ đảm bảo
14


cấu trúc ba phần. Phần mở đầu thường là sự bao quát chung về không gian, thời gian
hay là giới thiệu khái quát chung về sự vật hiện tượng. Sự triển khai vấn đề thường là
sự trình bày tiến trình sự việc, những điều vướng mắc và cách giải quyết, nêu những
đặc điểm của sự vật, đôi lúc có lồng thêm vào đó cảm xúc, tình cảm, thái độ chủ quan
của người kể chuyện. Nội dung chuyện được chọn lọc và xây dựng nên từ những
hình ảnh cụ thể về sự việc, hoạt động của con người, đặc điểm cụ thể của sự vật. Trẻ
thường chủ yếu miêu tả vật, tường thuật lại sự việc. Quá trình phân tích – tổng hợp ở
trẻ vẫn dựa trên những hình ảnh là chủ yếu. Do đó khi dạy trẻ kể chuyện theo đồ vật,
đồ chơi, yếu tố trực quan giúp trẻ mở rộng câu chuyện có ý tưởng.
Mặt khác, trẻ mẫu giáo lớn đã xuất hiện kiểu tư duy trực quan hình tượng mới
và những yếu tố của kiểu tư duy logic. Sự phát triển này giúp trẻ lĩnh hội những tri
thức, kí hiệu ngôn ngữ toán học, âm nhạc, đặc biệt là phát triển vốn từ trong văn

học…Với kiểu tư duy trực quan hình tượng trẻ có khả năng phản ánh lại những mối
liên hệ tồn tại khách quan, không bị phụ thuộc vào hành động hay ý muốn chủ quan
của bản thân đứa trẻ. Sự phản ánh của những mối liên hệ khách quan là điều kiện cần
thiết để lĩnh hội những tri thức vượt ra ngoài khuôn khổ của việc tìm hiểu từng vật
riêng lẻ với thuộc tính sinh động của chúng để đạt tới tri thức khái quát. Đó chính là
bước trung gian của sự chuyển tiếp từ tư duy trực quan hình tượng đến tư duy logic.
Nhờ đó một số yếu tố của tư duy logic xuất hiện tạo cho trẻ khả năng khái quát hóa,
phán đoán, suy luận và hình thành được một số khái niệm đơn giản. Khi tham gia kể
chuyện theo đồ vật, đồ chơi trẻ học được cách nhận xét, hiểu được các công dụng của
nó để trẻ có thể suy luận được đâu là công dụng cần thiết từ đó có cách vận dụng phù
hợp.
- Ngôn ngữ: Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ diễn ra trong mối quan hệ với sự
phức tạp hóa hoạt động của trẻ và sự biến đổi của quan hệ với những người xung
quanh, đặc biệt là trong giao tiếp. Trẻ trong độ tuổi này có thể sử dụng tiếng mẹ đẻ
một cách thành thạo trong sinh hoạt hằng ngày. Lúc này ngôn ngữ của trẻ đã thực sự
trở thành một phương tiện chủ yếu để giao tiếp với mọi người xung quanh và là cơ sở
để cải tổ lại quá trình tâm lý, giúp cho đời sống của trẻ có một chất lượng mới. Trẻ có
khả năng nắm được ý nghĩa của một số từ vựng thông dụng, phát âm gần đúng với sự
phát âm của người lớn, biết dùng ngữ điệu phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp và đặc
biệt bước đầu nắm được ngữ pháp phức tạp. Trẻ mẫu giáo lớn đã biết sử dụng ngữ
điệu một cách phù hợp với nội dung câu chuyện mà trẻ kể. Trẻ thường dùng ngữ điệu
êm ái để biểu thị tình cảm yêu thương trìu mến của mình đối với mọi vật xung quanh.
Ngược lại khi giận giữ hay không thích một vật gì đó trẻ lại dùng ngữ điệu thô và
mạnh. Khả năng này được thể hiện khá rõ khi trẻ kể những câu chuyện về đồ vật, đồ
chơi mà mình yêu thích cho người khác nghe. Tính sáng tạo ra những từ ngữ, tính
15


tích cực cao đối với ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo lớn diễn đạt có biểu cảm đặc biệt
được thể hiện rõ ràng trong khi trẻ tham gia trò chuyện, kể chuyện với các loại đồ

vật, đồ chơi mà trẻ yêu thích.
- Tình cảm, hành động, cảm xúc: Ở độ tuổi này tình cảm chi phối tất cả các
mặt. Trong hoạt động tâm lý, đời sống tình cảm đã có một sức chuyển biến mạnh mẽ,
vừa phong phú vừa sâu sắc hơn những lứa tuổi trước đó. Quan hệ của trẻ với những
người xung quanh được mở rộng ra một cách đáng kể khiến cho tình cảm của trẻ
cũng được phát triển về nhiều mặt. Có thể coi đây là nguồn tình cảm mạnh mẽ và
quan trọng nhất trong đời sống tinh thần của trẻ. Các loại tình cảm bậc cao đã được
hình thành, đặc điểm chính là những rung cảm, trẻ thể hiện thái độ hành động các
nhân rõ ràng, dứt khoát đúng hoặc sai. Trẻ đã biết kìm nén những cảm xúc và hành
động bộc phát để làm chủ hành vi của mình. Những biểu hiện bên ngoài của tình cảm
được biến đổi căn bản, trẻ biết kiềm chế những biểu hiện mạnh mẽ và đột ngột trong
tình cảm của mình như có thể kiềm chế nước mắt hay những lời kêu ca sợ hãi. Trẻ
cũng nắm được hình thức thể hiện sắc thái tình cảm một cách tế nhị bằng ánh mắt,
nụ cười, nét mặt điệu bộ, cử chỉ, ngữ điệu, giọng nói,…..
Cảm xúc của trẻ thể hiện ở nhu cầu muốn được tham gia hoạt động, muốn
được kể về những điều mình đã trải nghiệm, những điều mắt thấy tai nghe, những
hiểu biết, suy nghĩ và những cảm xúc của mình trước sự vật, hiện tượng. Cảm xúc
ngôn ngữ của trẻ được thể hiện qua ngữ điệu giọng nói, nét mặt, ánh mắt và cử chỉ,
điệu bộ, tư thế trong quá trình kể chuyện. Cảm xúc ngôn ngữ của của trẻ cũng được
thể hiện qua cách sử dụng từ ngữ, câu nói thể hiện cảm xúc, tình cảm hay thái độ của
cá nhân trước sự việc đang được nói tới.
1.1.3.2. Kết luận sư phạm
Tâm sinh lý của trẻ 5 – 6 tuổi được phát triển cả về nội dung và hình thức, các
loại tình cảm và vai trò của tình cảm ngày càng phát triển chi phối rõ nét hơn đời
sống sinh hoạt của trẻ theo hướng làm chủ các hành vi cảm xúc của mình. Dựa vào
điều đó giáo viên khi tổ chức hoạt động hướng dẫn trẻ kể chuyện theo đồ vật, đồ chơi
cho trẻ cần chú ý tới sự chi phối các đặc điểm tâm sinh lý của trẻ vào các hoạt động
và phát huy khả năng của trẻ một cách tích cực. Đặc biệt giáo viên cũng phải dựa vào
các đặc điểm tâm sinh lý của trẻ để định hướng cho mình, lựa chọn các biện pháp
phù hợp khi hướng dẫn trẻ kể chuyện theo đồ vật, đồ chơi nhằm đảm bảo tính vừa

sức cho trẻ.

16


1.2. Cơ sở thực tiễn của việc hướng dẫn trẻ 5 – 6 tuổi kể chuyện theo đồ
vật, đồ chơi
1.2.1. Vài nét về chương trình phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 – 6 tuổi
Chương trình phát triển ngôn ngữ cho trẻ bao gồm:
- Có khả năng lắng nghe, hiểu lời nói trong giao tiếp hằng ngày.
- Có khả năng biểu đạt bằng nhiều cách khác nhau (lời nói, nét mặt, cử chỉ,
điệu bộ…)
- Diễn đạt rõ ràng và giao tiếp có văn hoá trong cuộc sống hàng ngày.
- Có khả năng nghe và kể lại sự việc, kể lại truyện.
- Có khả năng cảm nhận vần điệu, nhịp điệu của bài thơ, ca dao, đồng dao phù
hợp với độ tuổi.
- Có một số kĩ năng ban đầu về việc đọc và viết
* Về giáo dục phát triển ngôn ngữ
a. Nghe
- Nghe các từ chỉ người, sự vật, hiện tượng, đặc điểm, tính chất, hoạt động và
các từ biểu cảm, từ khái quát. Hiểu các từ chỉ người, tên gọi đồ vật, sự vật, hành động,
hiện tượng gần gũi, quen thuộc, các từ chỉ đặc điểm, tính chất, công dụng và các từ
biểu cảm, các từ khái quát, từ trái nghĩa. Hiểu và làm theo yêu cầu đơn giản, làm theo
được 2, 3 yêu cầu liên tiếp.
- Nghe hiểu nội dung các câu đơn, câu mở rộng, câu phức. Nghe hiểu nội dung
truyện kể, truyện đọc phù hợp với độ tuổi. Nghe các bài hát, bài thơ, ca dao, đồng
dao, tục ngữ, câu đố, hò, vè phù hợp với độ tuổi.
-Nghe lời nói trong giao tiếp hằng ngày.
b. Nói
-Phát âm rõ các tiếng trong tiếng Việt. Phát âm các tiếng có chứa các âm

khó.Phát âm các tiếng có phụ âm đầu, phụ âm cuối gần giống nhau và các thanh điệu.
Bày tỏ tình cảm, nhu cầu và hiểu biết của bản thân bằng các câu đơn, câu đơn mở
rộng. Bày tỏ tình cảm, nhu cầu và hiểu biết của bản thân bằng các câu đơn, câu ghép.
Bày tỏ tình cảm, nhu cầu và hiểu biết của bản thân rõ ràng, dễ hiểu bằng các câu đơn,
câu ghép khác nhau. Trả lời và đặt các câu hỏi: Ai? Cái gì? Ở đâu? Khi nào? Trả lời
và đặt các câu hỏi: Ai? Cái gì? Ở đâu? Khi nào? Để làm gì?. Trả lời các câu hỏi về
nguyên nhân, so sánh: Tại sao? Có gì giống nhau? Có gì khác nhau? Do đâu mà có?.
Đặt các câu hỏi: Tại sao? Như thế nào? làm bằng gì?. Sử dụng các từ biểu thị sự lễ
17


phép. Sử dụng các từ biểu thị sự lễ phép. Sử dụng các từ biểu cảm, hình tượng.Nói và
thể hiện cử chỉ, điệu bộ, nét mặt phù hợp với yêu cầu, hoàn cảnh giao tiếp. Đọc thơ,
ca dao, đồng dao, tục ngữ, hò vè. Kể lại truyện đã được nghe có sự giúp đỡ. Kể lại
truyện đã được nghe. Kể lại truyện đã được nghe theo trình tự. Mô tả sự vật, tranh
ảnh có sự giúp đỡ. Mô tả sự vật, hiện tượng, tranh ảnh. Kể chuyện theo đồ vật, theo
tranh. Kể lại sự việc có nhiều tình tiết, trình tự. Đóng vai theo lời dẫn chuyện của
giáo viên.
- Bày tỏ nhu cầu, tình cảm và hiểu biết của bản thân bằng các loại câu khác
nhau.
- Sử dụng đúng từ ngữ và câu trong giao tiếp hằng ngày. Trả lời và đặt câu hỏi.
- Đọc thơ, ca dao, đồng dao và kể chuyện.
- Lễ phép, chủ động và tự tin trong giao tiếp.
c. Làm quen với việc đọc, viết
- Làm quen với một số ký hiệu thông thường trong cuộc sống (nhà vệ sinh, lối
ra, nơi nguy hiểm, biển báo giao thông: Đường cho người đi bộ,...) Tiếp xúc với chữ,
sách truyện. Nhận dạng một số chữ cái.Tập tô, tập đồ các nét chữ. Sao chép một số kí
hiệu, chữ cái, tên của mình. Xem và nghe đọc các loại sách khác nhau. Làm quen với
cách đọc và viết tiếng việt. Hướng đọc, viết: Từ trái sang phải, từ dòng trên xuống
dòng dưới. Hướng viết của các nét chữ, đọc ngắt nghỉ sau các dấu. Cầm sách đúng

chiều, mở sách, xem tranh và đọc truyện. Phân biệt phần mở đầu, kết thúc của sách,
đọc truyện qua các tranh vẽ, giữ gìn sách, bảo vệ sách.
1.2.2. Việc tổ chức hướng dẫn trẻ 5 – 6 tuổi kể chuyện theo đồ vật, đồ chơi ở
trường Mầm non trong giai đoạn hiện nay
Trong quá trình đi dự giờ, kiến tập, thực tập và tham quan tại một số trường
Mầm non trong địa bàn Thành phố Đồng Hới tôi nhận thấy rằng việc tổ chức hướng
dẫn trẻ kể chuyện theo đồ vật, đồ chơi ở các trường Mầm non đang còn rất hạn chế.
Một mặt do khả năng và trình độ của giáo viên chưa cao, rất nhiều giáo viên chưa có
nhiều kinh nghiệm trong việc hướng dẫn trẻ kể chuyện theo đồ vật, đồ chơi. Mặt
khác, do điều kiện cơ sở vật chất của các trường Mầm non hiện nay đang còn thiếu
thốn đặc biệt là ở các trường đóng ngoài thành phố nên dẫn đến chất lượng hoạt động
chưa cao.
Qua việc khảo sát thực tế tôi nhận thấy rằng việc tổ chức dạy trẻ kể chuyện
theo đồ vật, đồ chơi còn mắc phải những khó khăn sau:

18


- Về phía giáo viên: Nhiều giáo viên chưa sử dụng được các biện pháp thích
hợp để tổ chức một hoạt động hướng dẫn trẻ kể chuyện theo đồ vật đồ chơi một cách
có hiệu quả. Phần lớn giáo viên chỉ cho trẻ kể chuyện sáng tạo theo tranh hoặc kể lại
câu chuyện cô đã kể chứ kể chuyện theo đồ vật đồ chơi chỉ được dạy trẻ trong hoạt
động góc nên sự sáng tạo của trẻ trong kể chuyện với đồ vật, đồ chơi chưa được thể
hiện nhiều.
Kết quả điều tra trên GV:
* Nhận thức của giáo viên về vai trò của đồ vật, đồ chơi đối với sự phát triển
ngôn ngữ của trẻ thông qua hoạt động kể chuyện
Sau khi phát phiếu điều tra cho 20 cán bộ, GV trường MN Nghĩa Ninh, chúng
tôi tổng hợp và thu được kết quả các mức độ nhận thức của GV MN về vai trò của đồ
vật, đồ chơi đối với sự phát triển ngôn ngữ của trẻ thông qua hoạt động kể chuyện

như sau:
Bảng 1.1: Nhận thức của giáo GV về vai trò của đồ vật, đồ chơi trong hoạt động cho
trẻ kể chuyện
TT

MỨC ĐỘ

SỐ LƯỢNG

TỶ LỆ %

1

Rất quang trọng

6

30%

2

Quan trọng

13

65%

3

Không quan trọng


1

5%

Nhận xét: Từ kết quả điều tra trên cho thấy 30% GV đã nhận thấy được mức
độ rất quan trọng và 65% GV nhận thức được mức độ quan trọng của việc sử dụng
đồ vật, đồ chơi trong hoạt động cho trẻ kể chuyện nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Qua đó chúng tôi có thể khẳng định mức độ quan trọng đối với đồ vật, đồ chơi
đối với sự rèn luyện và phát triển ngôn ngữ cho trẻ (đặc biệt là ngôn ngữ mạch lạc)
thông qua hoạt động kể chuyện và trong việc nâng cao hiệu quả dạy học.

19


* Mức độ sử dụng đồ vật, đồ chơi của GV trong hoạt động hướng dẫn trẻ kể
chuyện sáng tạo.
Bảng 1.2: Mức độ sử dụng đồ vật, đồ chơi của GV trong hoạt động hướng dẫn trẻ
5 – 6 tuổi kể chuyện sáng tạo
TT

MỨC ĐỘ

SỐ LƯỢNG

TỶ LỆ %

1

Thường xuyên


0

0%

2

Thỉnh thoảng

15

75%

3

Không bao giờ

5

25%

Nhận xét:Dựa vào bảng 2 cho chúng ta thấy đa số giáo viên chưa có ý thức tốt
trong việc sử dụng đồ vật, đồ chơi trong kể chuyện nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Cụ thể là chưa có giáo viên nào thường xuyên sử dụng đồ vật, đồ chơi để dạy cho trẻ
kể chuyện. Có 75% GV đã dạy trẻ kể chuyện theo đồ vật, đồ chơi nhưng thỉnh thoảng.
Có tới 25% GV không bao giờ sử dụng đồ vật, đồ chơi để dạy trẻ kể chuyện. Như
vậy, có thể khẳng định thực tế sử dụng đồ vật, đồ chơi đê phát triển ngôn ngữ cho trẻ
thông qua hoạt động kể chuyện ở trường Mầm non còn hạn chế và không được ý thức,
chủ động.
Bảng 1.3: Thời gian tiến hành kể chuyện theo đồ vật, đồ chơi

TT

THỜI GIAN

SỐ LƯỢNG

TỶ LỆ %

1

Hoạt động học có chủ đích

3%

15%

2

Hoạt động góc

9%

45%

3

Thông qua các buổi tham quan, ngoại
khóa

2%


10%

4

Kết hợp nhiều thời gian khác nhau

5%

25%

Nhận xét: Qua bảng trên, chúng ta cũng nhận thấy phần lớn các GV (45%) sử
dụng đồ vật, đồ chơi để dạy trẻ kể chuyện thông qua hoạt động góc. Khi được hỏi vì
sao cô lại sử dụng đồ vật, đồ chơi để dạy trẻ kể chuyện thông qua hoạt động góc là
nhiều nhất thì hầu như chúng tôi đều nhận được câu trả lời là do dễ lồng ghép vào các
hoạt động cho trẻ khám phá và trẻ sẽ hứng thú hơn. Đây là một nhận thức chưa phù
hợp, bởi nếu dạy trẻ kể chuyện theo đồ vật, đồ chơi thông qua hoạt động góc thì cô
20


×