Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng tỉnh Bình Dương (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (550.48 KB, 94 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

........../.......

...../....

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

TRẦN NGUYỄN THẢO NGUYÊN

QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ THI ĐUA, KHEN THƢỞNG
TỈNH BÌNH DƢƠNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ: QUẢN LÝ CÔNG

Chuyên ngành: Quản lý công
Mã số: 60 34 04 03

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS PHẠM MINH TUẤN

TP.HỒ CHÍ MINH - NĂM 2017

1


MỤC LỤC
Trang phụ bìa

trang


Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU

1

Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ THI ĐUA,
KHEN THƢỞNG

10

1.1. Một số vấn đề lý luận về thi đua, khen thƣởng

10

1.2. Nội dung quản lý nhà nƣớc về thi đua, khen thƣởng

20

1.3. Bài học kinh nghiệm từ lịch sử hình thành và phát triển của công tác
thi đua, khen thƣởng ở nƣớc ta qua các thời kỳ

35

Chƣơng 2: QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ THI ĐUA, KHEN THƢỞNG
TỈNH BÌNH DƢƠNG

42

2.1. Thực trạng quản lý nhà nƣớc về thi đua, khen thƣởng

tỉnh Bình Dƣơng

42

2.2. Đánh giá công tác thi đua, khen thƣởng ở tỉnh Bình Dƣơng

57

Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
VỀ THI ĐUA, KHEN THƢỞNG Ở TỈNH BÌNH DƢƠNG

68

3.1. Dự báo những yếu tố tác động đến công tác quản lý nhà nƣớc về
thi đua, khen thƣởng

68

3.2. Nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí và tầm quan trọng của công
tác thi đua, khen thƣởng trong giai đoạn hiện nay

69

3.3. Hoàn thiện cơ chế chính sách, bộ máy về thi đua, khen thƣởng 74
3.4. Nâng cao chất lƣợng và hiệu quả các phong trào thi đua

78

3.5. Nâng cao chất lƣợng công tác khen thƣởng


82

KẾT LUẬN

87

TÀI LIỆU THAM KHẢO

89

PHỤ LỤC

93
2


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngay từ khi Nhà nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, Bác Hồ đã
rất quan tâm đến thi đua khen thƣởng Ngƣời nói “Thi đua là yêu nƣớc, ai yêu
nƣớc thì phải thi đua. Và những ngƣời thi đua là những ngƣời yêu nƣớc
nhất”[10, tr. 475], và công việc hàng ngày chính là nội dung thiết thực của thi
đua. Phong trào thi đua yêu nƣớc do Ngƣời khởi xƣớng và lãnh đạo từ những
ngày đầu giành độc lập đã nhanh chóng phát triển thành phong trào sâu rộng
và liên tục qua nhiều thập kỷ, qua từng giai đoạn lịch sử của đất nƣớc. Thi
đua, khen thƣởng là động lực phát triển và là biện pháp quan trọng để xây
dựng con ngƣời mới, thi đua yêu nƣớc phải đƣợc tiến hành thƣờng xuyên, liên
tục hàng ngày.
Trong giai đoạn hiện nay, thi đua khen thƣởng lại càng có vai trò và tác
dụng đối với sự nghiệp đổi mới. Đó là động lực thúc đẩy những cá nhân, tập

thể năng động, sáng tạo tìm tòi các giải pháp thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ
chính trị của ngành, địa phƣơng, cơ quan, đơn vị, thúc đẩy công cuộc đổi mới
phát triển. Để phát huy vai trò thi đua, khen thƣởng trong những năm gần đây,
Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị 35-CT/TW ngày 3/6/1998 về đổi mới công
tác thi đua khen thƣởng trong giai đoạn mới; tiếp theo Chỉ thị số 39-CT/TW
ngày 21/5/2004 về tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nƣớc,
phát triển, bồi dƣỡng, tổng kết và nhân rộng điển hình tiên tiến. Gần đây nhất
Chỉ thị số 34-CT/TW ngày 07/4/2014 về tiếp tục đổi mới công tác thi đua
khen thƣởng và sự quan tâm của Quốc hội đã sửa đổi và ban hành Luật Sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi đua khen thƣởng có hiệu lực từ ngày 01
tháng 6 năm 2014.

3


Với những thay đổi mang tầm chiến lƣợc trên và sự chỉ đạo của Đảng
về tiếp tục đổi mới hoạt động thi đua, khen thƣởng một cách toàn diện, từ
nhận thức của cá nhân, tập thể đƣợc khen thƣởng đến cá nhân, tổ chức làm
công tác thi đua, khen thƣởng. Thực tiễn đã chứng minh qua quá trình xây
dựng và phát triển của tỉnh Bình Dƣơng. Từ một tỉnh non trẻ (đƣợc tái lập
năm 1997), nhƣng đã vƣơn lên trở thành một trong những tỉnh công nghiệp
phát triển nhất cả nƣớc. Điều đó càng cho thấy đƣợc vai trò, vị trí của công
tác thi đua, khen thƣởng trong mỗi bƣớc phát triển của tỉnh, dù ở lĩnh vực nào
và thời điểm nào đều có sự đóng góp quan trọng của công tác thi đua, khen
thƣởng.
Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn một số hạn chế nhƣ sự lãnh đạo, chỉ
đạo của Đảng với các phong trào thi đua bị buông lỏng, chƣa xứng tầm mang
tính hình thức, chƣa thực sự vực dậy tinh thần thi đua yêu nƣớc, tạo thành
phong trào sâu rộng trong toàn dân. Phần lớn các cơ quan, đơn vị, ban, ngành
từ trung ƣơng đến địa phƣơng chỉ chú trọng khen thƣởng hơn thi đua. Khen

thƣởng còn chạy theo thành tích, chƣa kịp thời, chƣa chính xác và chƣa có sự
gắn kết giữa thi đua với khen thƣởng, chƣa phát huy mạnh mẽ tác dụng
khuyến khích động viên, nhất là trong điều kiện kinh tế thị trƣờng và hội nhập
kinh tế quốc tế. Thực tế nhiều trƣờng hợp gần đây cho thấy thi đua, khen
thƣởng chƣa đúng ngƣời, đúng việc, mang tính chủ quan, hình thức. Để khắc
phục tình hình trên của công tác thi đua, khen thƣởng, một trong những vấn
đề đặt ra cần giải quyết phải đổi mới công tác thi đua, khen thƣởng mà trƣớc
hết là đổi mới quản lý nhà nƣớc đối với công tác này.
Là một công chức đang công tác tại Ban Thi đua - Khen thƣởng tỉnh
Bình Dƣơng, với thực tế sinh động đang diễn ra, học viên đã chọn đề tài
“Quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng trên địa bàn tỉnh Bình Dương”

4


để nghiên cứu, mong rằng đề tài này có thể đóng góp một phần vào quản lý
công tác thi đua, khen thƣởng ở địa phƣơng.
2. Nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của xã hội và thực trạng của công tác thi
đua, khen thƣởng của nƣớc ta hiện nay, nội dung này đã trở thành một vấn đề
đƣợc nhiều nhà nghiên cứu về chính trị, xã hội và giáo dục quan tâm. Cho đến
nay đã có nhiều công trình nghiên cứu chung về thi đua, khen thƣởng đƣợc
công bố, nhiều hội thảo đã đƣợc tổ chức để nhằm mục tiêu thúc đẩy phát triển
của công tác thi đua, khen thƣởng. Có thể tập trung lại thành một số nhóm
công trình nhƣ sau:
- Nhóm các công trình, bài viết về công tác thi đua, khen thưởng nói
chung
Bài viết của tác giả Nguyễn Thế Thắng trên tạp chí Cộng sản năm 2012
về “Một số quan điểm cơ bản của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Chủ tịch
Hồ Chí Minh về thi đua, khen thưởng” đã phân tích, đi sâu tìm hiểu chỉ ra lý

luận của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác và tƣ tƣởng của của Chủ tịch Hồ
Chí Minh về thi đua, khen thƣởng có thể vận dụng vào tình hình thực tế ở
nƣớc ta.
Bài phát biểu của Thủ tƣớng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng - Chủ tịch
Hội đồng Thi đua - Khen thƣởng Trung ƣơng tại Đại hội Thi đua yêu nƣớc
toàn quốc lần thứ IX năm 2015 xác định nhiệm vụ trọng tâm của thi đua, khen
thƣởng cần tiếp tục đổi mới và phƣơng hƣớng trong giai đoạn 2016 - 2020.
Luận văn Thạc sỹ Quản lý Hành chính công của tác giả Nguyễn Thị
Thu Sƣơng, 2007, “Đổi mới công tác quản lý nhà nước trên lĩnh vực công tác
thi đua khen thưởng” đã phân tích đánh giá đƣợc thực trạng và đề ra giải pháp
đổi mới thi đua, khen thƣởng trong giai đoạn 2007 - 2010.

5


Đề tài khoa học cấp Nhà nƣớc của Trần Thị Hà, 2013, “Cơ sở lý luận
và thực tiễn đổi mới thi đua, khen thưởng trong giai đoạn hiện nay” đã
nghiên cứu, làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn công tác thi đua, khen thƣởng và
các quy định của pháp luật, đề xuất các quan điểm, phƣơng hƣớng và giải
pháp nhằm đổi mới hoạt động thi đua, khen thƣởng và quản lý Nhà nƣớc về
thi đua, khen thƣởng.
Luận án Tiến sỹ Khoa học chính trị của Nguyễn Khắc Hà, 2014, “Xây
dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chuyên trách công tác thi đua, khen
thưởng ở nước ta giai đoạn hiện nay” hệ thống hoá, nghiên cứu cơ sở lý luận
và pháp lý, giải pháp về đội ngũ cán bộ quản lý công tác thi đua, khen thƣởng
trong giai đoạn hiện nay.
Đề tài khoa học cấp tỉnh của Phạm Duy Hanh, 2012, “Đánh giá thực
trạng và đề xuất giải pháp đổi mới công tác thi đua, khen thưởng đối với các
doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Lào Cai” đã nêu thực trạng công tác thi đua
khen thƣởng tại các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Lào Cai; đồng thời đề xuất

một số giải pháp đổi mới công tác thi đua khen thƣởng tại các doanh nghiệp.
Cuốn sách Đảng, Bác Hồ với thi đua yêu nước và công tác thi đua khen
thưởng, 2008, Nhà xuất bản Lý luận chính trị Hà Nội đã phân tích quan điểm
chỉ đạo của Đảng và Nhà nƣớc về phong trào thi đua yêu nƣớc và công tác thi
đua, khen thƣởng.
- Nhóm các công trình, bài viết về tỉnh Bình Dương
Tỉnh Bình Dƣơng từ khi tái lập tỉnh đến nay, đã có khá nhiều công trình,
bài tham luận của các lãnh đạo cũng nhƣ các nhà khoa học viết về tỉnh Bình
Dƣơng đƣợc xuất bản, phản ánh về tốc độ phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh.
Đáng chú ý trong số này, có thể kể đến một số công trình nhƣ cuốn Thủ Dầu
Một - Bình Dương đất lành chim đậu của Vũ Đức Thành (chủ biên) Nxb Văn
nghệ, thành phố Hồ Chí Minh; Luận văn Thạc sĩ Quá trình hình thành và
6


phát triển các khu công nghiệp ở tỉnh Bình Dương (1993-2003) chuyên ngành
Lịch sử Việt Nam của Huỳnh Đức Thiện, đã phục dựng bức tranh khá hoàn
chỉnh về quá trình hình thành, phát triển của các khu công nghiệp trên địa bàn
tỉnh Bình Dƣơng và nêu bật đƣợc tác động của các khu công nghiệp đối với
sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh; Luận án Tiến sĩ về đề tài Những chuyển
biến kinh tế xã hội của tỉnh Bình Dương từ 1945-2005 của Nguyễn Văn Hiệp
khi xem xét những chuyển biến kinh tế xã hội của Bình Dƣơng đã đề cập một
số lĩnh vực có liên quan đến xây dựng phong trào thi đua và công tác khen
thƣởng.
Đây là những công trình có nội dung phản ánh, lý giải khái quát về quá
trình phát triển kinh tế - xã hội của Bình Dƣơng trong thời kỳ đổi mới, trong
đó có đề cập ít nhiều đến các phong trào thi đua và công tác khen thƣởng ở
Bình Dƣơng.
- Nhóm các bài viết về công tác thi đua, khen thưởng tỉnh Bình Dương
Bài viết của tác giả Cao Sơn “Phong trào thi đua yêu nước tại Bình

Dương đi vào chiều sâu, lan tỏa rộng khắp”, Báo Bình Dƣơng, 2015 đã tổng
hợp, đánh giá hiệu quả triển khai các phong trào thi đua và công tác khen
thƣởng trên địa bàn tỉnh Bình Dƣơng năm 2015 góp phần vào công cuộc xây
dựng kinh tế - xã hội ở địa phƣơng.
Nhìn chung các công trình trên đã khái quát về công tác thi đua, khen
thƣởng nói chung. Tuy nhiên, cho đến nay chƣa có công trình nghiên cứu về
Quản lý nhà nƣớc về thi đua, khen thƣởng trên địa bàn tỉnh Bình Dƣơng. Vì
vậy, việc lựa chọn đề tài tài “Quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng trên
địa bàn tỉnh Bình Dương” là phù hợp với tình hình thực tế và không trùng với
bất kỳ công trình khoa học nào trƣớc đó và đây cũng là đề tài cần đƣợc quan
tâm nghiên cứu, làm rõ.

7


Kế thừa thành tựu của các tác giả đi trƣớc, luận văn này sẽ phục dựng lại
bức tranh toàn cảnh công tác thi đua, khen thƣởng của Bình Dƣơng về thực
trạng của công tác này, từ đó nêu lên một số thành tựu nổi bật của công tác thi
đua, khen thƣởng trên địa bàn tỉnh Bình Dƣơng giai đoạn 2005-2015, trên cơ
sở đó mạnh dạn phân tích và đƣa ra những nhận xét về công tác quản lý nhà
nƣớc về thi đua, khen thƣởng để rút ra một số bài học kinh nghiệm cho giai
đoạn phát triển trong những năm tiếp theo.
3. Nhiệm vụ của luận văn
Trên cơ sở xác định mục đích, đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu, đề tài giải
quyết những nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
- Bằng những tƣ liệu khai thác đƣợc qua sách, báo, các văn bản pháp
luật, tài liệu lƣu trữ…, luận văn làm rõ các vấn đề về lý luận và thực tiễn công
tác thi đua, khen thƣởng; nghiên cứu, đánh giá thực trạng pháp luật về thi đua,
khen thƣởng; những kiến nghị, đề xuất các giải pháp hoàn thiện công tác quản
lý nhà nƣớc về thi đua, khen thƣởng trong giai đoạn tiếp theo.

- Luận văn bƣớc đầu dựng lại bức tranh hoàn chỉnh toàn diện, có hệ
thống về công tác quản lý nhà nƣớc về thi đua, khen thƣởng trên địa bàn tỉnh
Bình Dƣơng. Đồng thời đi sâu phân tích những thành công, hạn chế của công
tác quản lý nhà nƣớc về thi đua, khen thƣởng trên địa bàn tỉnh.
- Luận văn cũng phân tích mối quan hệ giữa phong trào thi đua, công tác
khen thƣởng gắn với phát triển kinh tế - xã hội của Bình Dƣơng trong những
năm qua.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là hoạt động quản lý nhà nƣớc về thi
đua, khen của tỉnh Bình Dƣơng qua hai kỳ Đại hội thi đua (2005-2015).
- Phạm vi nghiên cứu
8


- Về nội dung: quản lý nhà nƣớc là một hoạt động rất rộng, luận văn chỉ
tập trung nghiên cứu nội dung quản lý nhà nƣớc về thi đua, khen thƣởng.
- Về không gian: luận văn nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Bình Dƣơng.
- Về thời gian: luận văn nghiên cứu thực trạng quản lý nhà nƣớc về thi
đua, khen thƣởng giai đoạn 2005-2015 và đề xuất giải pháp cho thời gian tới.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để khai thác tốt nguồn tƣ liệu hiện có và trình bày luận văn theo một hệ
thống hợp lý, tác giả đã sử dụng hai phƣơng pháp nghiên cứu chủ yếu là
phƣơng pháp lịch sử và phƣơng pháp logic, kết hợp chặt chẽ với các phƣơng
pháp nghiên cứu liên ngành khác nhƣ: so sánh, thống kê, đối chiếu, phân tích,
tổng hợp để làm sáng tỏ nội dung và ý nghĩa của đề tài; đồng thời còn sử dụng
phƣơng pháp điều tra khảo sát thực địa, phỏng vấn nhân chứng và thẩm định
tƣ liệu, làm phong phú thêm nguồn tài liệu nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Về mặt lý luận:

Luận văn góp phần luận giải tầm quan trọng, tính thiết yếu của công tác
quản lý nhà nƣớc về thi đua, khen thƣởng trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh Bình Dƣơng nói riêng và cả nƣớc nói chung.
Luận văn góp phần cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn cho những vấn đề lý
luận về quản lý nhà nƣớc về thi đua, khen thƣởng hiện nay.
- Đóng góp thực tiễn:
+ Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho sinh viên, các nhà quản lý
tiếp tục tìm hiểu đầy đủ và toàn diện hơn về quản lý nhà nƣớc về thi đua,
khen thƣởng trên địa bàn tỉnh Bình Dƣơng. Đồng thời kết quả nghiên cứu của
công trình có thể tham khảo trong việc thực hiện quản lý nhà nƣớc về thi đua,
khen thƣởng để phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa tỉnh
Bình Dƣơng.
9


+ Luận văn bƣớc đầu tổng kết thực tiễn của hoạt động quản lý nhà nƣớc
về thi đua, khen thƣởng của tỉnh Bình Dƣơng trong một chặng đƣờng phát
triển từ năm 2005 đến năm 2015 từ đó rút ra các bài học kinh nghiệm cũng
nhƣ khái quát một số vấn đề còn tồn tại từ đó làm cơ sở khoa học để ngành thi
đua, khen thƣởng Bình Dƣơng tham khảo trong xây dựng chiến lƣợc quản lý
nhà nƣớc về thi đua, khen thƣởng trong giai đoạn tiếp theo.
7. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn đƣợc kết cấu thành 3 chƣơng:
Chƣơng 1. Làm rõ một số nội dung về cơ sở lý luận quản lý nhà nƣớc về
thi đua, khen thƣởng, nội dung quản lý nhà nƣớc về thi đua, khen thƣởng;
khái quát về hệ thống cơ quan có chức năng quản lý nhà nƣớc về thi đua,
khen thƣởng từ trung ƣơng đến địa phƣơng.
Chƣơng 2. Đánh giá tổng quan về công tác thi đua, khen thƣởng qua các
thời kỳ xây dựng và bảo về Tổ quốc; đánh giá thực trạng quản lý nhà nƣớc về

thi đua, khen thƣởng ở tỉnh Bình Dƣơng
Chƣơng 3. Đề ra một số phƣơng hƣớng và giải pháp đổi mới công tác
quản lý nhà nƣớc về thi đua, khen thƣởng trong những năm tiếp theo.

10


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
VỀ THI ĐUA, KHEN THƢỞNG
1.1. Một số vấn đề lý luận về thi đua, khen thƣởng
1.1.1. Khái niệm thi đua
Nghiên cứu quá trình hợp tác giữa con ngƣời và con ngƣời trong lao
động sản xuất, thấy đƣợc hiện tƣợng diễn ra một cách khách quan trong quá
trình hợp tác lao động, C.Mác đánh giá cao vai trò của sự hiệp tác trong lao
động, bởi nó tạo ra sức mạnh tập thể lớn hơn sức mạnh của từng lao động cá
nhân cộng lại. Thi đua nảy nở trong quá trình hợp tác lao động, trong hoạt
động chung và kế hoạch của con ngƣời. Sự tiếp xúc xã hội tạo nên thi đua và
sự nâng cao theo lối đặc biệt nghị lực sinh động tăng thêm nghị lực cho riêng
từng ngƣời. Bàn về Ngày thứ Bảy lao động Cộng sản, V.I Lênin đã nói đến
thi đua xã hội chủ nghĩa là phong trào lao động tự nguyện, góp sức giải quyết
khó khăn, xây dựng xã hội mới của quần chúng lao động đƣợc giải phóng
khỏi ách áp bức bóc lột. V.I Lênin coi đây là một sáng kiến vĩ đại, chính
quyền cách mạng cần chăm lo, tổng kết, phổ biến sáng kiến kinh nghiệm.
Chính vì vậy “Thi đua xã hội chủ nghĩa trở thành một yếu tố quyết định đối
với việc giáo dục xã hội chủ nghĩa cho toàn dân trên cơ sở thế giới quan và
đạo đức của giai cấp công nhân” [21, tr. 21]
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chú trọng đến công tác thi đua. Theo chủ tịch
Hồ Chí Minh thi đua tồn tại khách quan trong xã hội, Ngƣời cho rằng: Tƣởng
lầm rằng thi đua là một việc khác với những công việc hàng ngày. Thật ra

11


công việc hàng ngày chính là nền tảng thi đua. Thi đua là một hiện tƣợng
khách quan, là quy luật phát triển tất yếu trong quá trình hợp tác lao động của
con ngƣời. Ở đâu có hợp tác lao động thì ở đó nảy sinh thi đua.
Nguyên tắc quan trọng nhất của thi đua xã hội chủ nghĩa là đoàn kết, hợp
tác cùng phát triển, phổ biến sáng kiến, kinh nghiệm; ngƣời tiên tiến thân ái
giúp đỡ ngƣời chậm tiến để đạt tới sự tiến bộ chung. Hoàn toàn không giống
với bí mật thƣơng nghiệp trong cạnh tranh. Thi đua xã hội chủ nghĩa chẳng
những nhằm mục tiêu kinh tế mà còn nhằm xây dựng con ngƣời mới, rèn
luyện nhân cách cao đẹp cho ngƣời lao động. Trong giai đoạn đất nƣớc ta
phát triển mạnh mẽ nền kinh tế thị trƣờng, thi đua yêu nƣớc bao giờ cũng là
phong trào thi đua tập thể của những công nhân, nông dân, trí thức, những
ngƣời lao động tự mình làm chủ vận mệnh của mình, không đối kháng về lợi
ích cá nhân, tập thể và xã hội; mọi ngƣời mang hết nhiệt tình và khả năng của
mình ra để xây dựng đất nƣớc.
Thông qua thi đua để giáo dục động viên mọi ngƣời, nâng cao lòng yêu
nƣớc, ý thức giác ngộ giai cấp, trách nhiệm công dân và tính cộng đồng xã
hội.
Công tác thi đua qua những chặng đƣờng lịch sử, đặc biệt thấy rõ vai trò
thi đua thời kỳ đổi mới. Luật Thi đua, khen thƣởng trong đó chỉ rõ: “Thi đua
là hoạt động có tổ chức với sự tham gia tự nguyện của các cá nhân, tập thể
nhằm phấn đấu đạt đƣợc thành tích tốt nhất trong xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc” [3, tr. 11]
1.1.2. Khái niệm khen thưởng
Khen thƣởng là công việc đã tồn tại khá lâu trong lịch sử xã hội, gắn
liền với thƣởng phạt của nhà nƣớc thuộc các chế độ xã hội khác nhau. Khen
thƣởng đƣợc quan tâm đúng mực khi Đảng và Bác Hồ đã biểu dƣơng khích lệ
động viên ngƣời tốt, việc tốt. Mỗi khi đọc báo, nghe đài, thấy có nghĩa cử đẹp

12


là Bác cho đi kiểm tra ngay để Bác khen thƣởng. Bác thƣờng nhắc nhở khen
thƣởng phải chính xác và kịp thời để động viên phát huy mặt ƣu điểm, tích
cực, khắc phục và đẩy lùi mặt khuyết điểm, tiêu cực nhằm xây dựng con
ngƣời mới vì mục tiêu dân giàu nƣớc mạnh xã hội dân chủ, công bằng văn
minh. Bác Hồ đã chỉ thị có công thì thƣởng, có lỗi thì phạt, khen thƣởng phải
có tác dụng giáo dục, động viên, nêu gƣơng... khen thƣởng còn là một chính
sách của nhà nƣớc để ghi công, tôn vinh các cá nhân, tập thể có thành tích
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Khen là sự nhận xét đánh giá tốt
về một con ngƣời nào đó; tổ chức nào đó, về cái gì, việc gì đó với ý nghĩa hài
lòng. Còn thƣởng là tặng cho bằng hiện vật hoặc bằng tiền... Khen thƣởng là
hình thức ghi nhận công lao, thành tích của Nhà nƣớc bằng quyết định của cơ
quan có thẩm quyền do luật định.
Trong giai đoạn hiện nay, khen thƣởng có vai trò quan trọng là động lực
thúc đẩy xã hội phát triển là biện pháp của ngƣời quản lý thực hiện nhiệm vụ
trọng tâm chính trị của cơ quan đơn vị mình nhằm khuyến khích động viên
mọi tầng lớp trong xã hội tích cực hăng hái lập thành tích trong lao động sản
xuất và công tác.
Theo Luật thi đua khen thƣởng thì “Khen thƣởng là việc ghi nhận, biểu
dƣơng, tôn vinh công trạng và khuyến khích bằng lợi ích vật chất đối với cá
nhân, tập thể có thành tích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [3, tr. 11].
1.1.3. Mối quan hệ giữa thi đua và khen thưởng
Trên cơ sở lý luận đó Luật Thi đua, khen thƣởng của Nƣớc Cộng hoà Xã
hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 26/11/2003 đã nêu rõ: Khen thƣởng là việc nghi
nhận, biểu dƣơng, tôn vinh công trạng và khuyến khích bằng lợi ích vật chất
đối với cá nhân, tập thể có thành tích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thi đua là động lực thúc đẩy cá nhân và cộng đồng hoàn thành nhiệm vụ
trên cơ sở đó thực hiện khen thƣởng, thực tế cho thấy ở đâu phong trào thi

13


đua thực sự là động lực thì ở đó xã hội phát triển quần chúng phấn khởi và
khen thƣởng chuẩn xác, ngƣợc lại ở đâu phong trào thi đua yếu, hoặc không
có phong trào thi đua ở đó xã hội trì trệ công tác khen thƣởng không chuẩn
xác, quần chúng kém phấn khởi, thậm chí còn nảy sinh tiêu cực.
Khen thƣởng vừa là kết quả của thi đua, vừa là yếu tố thúc đẩy phong
trào thi đua phát triển, thực tế cho thấy ở đâu làm tốt công tác khen thƣởng,
công tác này đƣợc đánh giá khách quan, công minh trên cơ sở phong trào thi
đua thì ở đó quần chúng phấn khởi, có đƣợc phong trào thi đua mới, tốt hơn
và ngƣợc lại.
Xét cả hai phƣơng diện lý luận và thực tiễn cho thấy thi đua, khen
thƣởng luôn bổ sung hỗ trợ cho nhau. Thi đua là động lực thúc đẩy mọi tầng
lớp nhân dân phát huy tinh thần sáng tạo, nỗ lực vƣợt mọi khó khăn vƣơn lên
hoàn thành các mục tiêu kinh tế - xã hội đề ra. Từ kết quả tổng kết thi đua mà
lựa chọn tập thể và cá nhân xứng đáng để khen thƣởng. Khen thƣởng chính là
việc đánh giá kết quả phong trào thi đua. Khen thƣởng chính xác kịp thời có
tác dụng động viên, giáo dục và nêu gƣơng tốt trong xã hội, đồng thời cổ vũ
phong trào thi đua phát triển sâu, rộng. Nếu khen thƣởng không đúng hoặc
không chuẩn xác sẽ làm mất tác dụng thậm chí còn ảnh hƣởng xấu đến phong
trào thi đua và dẫn đến tiêu cực trong phong trào thi đua, ảnh hƣởng đến công
tác khen thƣởng. Khen thƣởng phải gắn với thực hành phong trào thi đua yêu
nƣớc và nhiệm vụ chính trị của đất nƣớc, từng địa phƣơng, từng đơn vị. Thi
đua và khen thƣởng quan hệ chặt chẽ, tác động biện chứng lẫn nhau. Là hai
thành tố hữu cơ của một quá trình dẫn đến một hiệu quả chung, khen thƣởng
đúng kịp thời sẽ thúc đẩy, mở đƣờng cho phong trào thi đua sôi nổi, thiết thực
và ngƣợc lại.
Thi đua phải toàn dân, toàn diện, thƣờng xuyên, thi đua phải gắn với
khen thƣởng một cách xứng đáng; khen thƣởng phải có tác dụng động viên,

14


giáo dục nêu gƣơng; Bác khái quát bản chất của mối quan hệ giữa thi đua và
khen thƣởng là: “thi đua là gieo trồng, khen thƣởng là thu hoạch”. Nhƣ vậy có
tổ chức tốt phong trào thi đua thì kết quả khen thƣởng mới chính xác, mới có
tác dụng giáo dục, nêu gƣơng, động viên khuyến khích, hơn nữa còn tạo điều
kiện cho đợt thi đua sau đạt kết quả cao hơn. Do vậy, không coi nhẹ khen
thƣởng trong thi đua, ngƣợc lại không có thi đua thì không có căn cứ đánh giá
thành tích để khen thƣởng, thiếu chính xác, ít tác dụng.
Nhiều hình thức khen thƣởng không phản ánh kết quả thi đua nhƣ:
khen thƣởng theo công trạng, khen thƣởng đột xuất nhƣ: Khen thƣởng tổng
kết thành tích kháng chiến, khen thƣởng ngƣời có quá trình cống hiến lâu dài
trong cơ quan, tổ chức, đoàn thể; khen thƣởng đối với những cá nhân tổ chức
trong nƣớc và ngoài nƣớc có công lao, đóng góp cho xã hội, cho đất nƣớc
trong quá trình hội nhập, phát triển kinh tế, những cá nhân dũng cảm cứu
ngƣời, tài sản của nhà nƣớc của tập thể, của công dân... song việc khen
thƣởng này cũng có quan hệ nhất định đối với thi đua, nó cũng bị ảnh hƣởng
nhất định từ phong trào thi đua, từ truyền thống thi đua yêu nƣớc của dân tộc,
nó phản ánh một góc của các phong trào thi đua.
Mối liện hệ giữa thi đua và khen thƣởng đã đƣợc chứng minh không
thể từng rời từng cái, vì nếu chỉ có một cái thì không giải quyết đƣợc bản chất
của vấn đề. Nếu làm tốt thi đua nhƣng không khen thƣởng thì không tạo đƣợc
sức mạnh, động viện đƣợc mọi ngƣời tham gia. Nếu khen thƣởng mà không
xuất phát từ thi đua thì sẽ tạo ra tiêu cực trong xét khen thƣởng, dẫn đến hiện
tƣợng mọi ngƣời không cần đẩy mạnh phong trào thi đua. Lúc đó chỉ mnag
tính hình thức.
1.1.4. Sự cần thiết phải quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng
Đảng ta hết sức coi trọng công tác thi đua, khen thƣởng thông qua việc
ban hành các văn bản chỉ đạo định hƣớng cụ thể nhƣ: Chỉ thị số 35/CT-TW

15


ngày 03/5/1998 và Chỉ thị 39/CT-TW ngày 21/5/2004; Kết luận số 83KL/TW ngày 30/9/2010 của Ban Bí thƣ Trung ƣơng và Chỉ thị 34/CT-TW
ngày 07/4/2014 của Bộ chính trị về tiếp tục đổi mới công tác thi đua, khen
thƣởng đã chỉ rõ vị trí, vai trò quan trọng của công tác thi đua, khen thƣởng
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn cách mạng mới,
khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng và quản lý nhà nƣớc đối với công tác
thi đua, khen thƣởng; kiện toàn và đổi mới tổ chức cán bộ của cơ quan tham
mƣu thi đua, khen thƣởng, đổi mới nội dung và hình thức thi đua, khen
thƣởng. Thi đua, khen thƣởng là một lĩnh vực hoạt động rộng lớn của hàng
triệu quần chúng nhân dân thông qua phong trào thi đua; huy động các tổ
chức trong hệ thống chính trị tham gia các phong trào thông qua đó phát huy
đƣợc nội lực của mỗi ngƣời, mỗi đơn vị, địa phƣơng trong cả nƣớc góp phần
thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển.
Đây là hoạt động rộng khắp ở tất cả các lĩnh vực, các ngành, các cấp, rất
đa dạng hình thức, phong phú nội dung; đồng thời mục tiêu, hình thức, biện
pháp thi đua phải thƣờng xuyên thay đổi để phù hợp với sự phát triển kinh tế
xã hội. Kết quả thi đua cần có sự đánh giá đúng, khách quan, có thƣởng phạt
kịp thời, rõ ràng để động viên khuyến khích mọi tầng lớp trong xã hội tham
gia vào phong trào thi đua.
Nhà nƣớc cần nhận thức rõ vị trí, vai trò và tầm quan trọng của công tác
thi đua, khen thƣởng thì mới có đƣợc sự quan tâm, xây dựng hệ thống pháp
luật, đội ngũ cán bộ tạo đƣợc sức mạnh để thi đua trở thành động lực thúc đẩy
xã hội phát triển. Qua đó cho thấy công tác thi đua, khen thƣởng đã có đóng
góp không nhỏ vào sự phát triển của nhà nƣớc, chính vì vậy nhà nƣớc phải
quản lý công tác này.
1.2. Nội dung quản lý nhà nƣớc về thi đua, khen thƣởng

16



Luật thi đua, khen thƣởng đã đƣợc Quốc hội Nƣớc Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khoá XI kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 26/11/2003 và đã đƣợc
sửa đổi, bổ sung năm 2013. Điều 90 quy định nội dung quản lý nhà nƣớc về
thi đua, khen thƣởng bao gồm 8 nội dung: Ban hành các văn bản pháp luật về
thi đua, khen thƣởng; xây dựng chính sách về thi đua, khen thƣởng; tuyên
truyền, phổ biến, hƣớng dẫn và tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật
về thi đua, khen thƣởng; đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ, công chức làm công tác
thi đua, khen thƣởng; sơ kết, tổng kết, tặng thƣởng các hình thức khen
thƣởng; đánh giá hiệu quả công tác thi đua, khen thƣởng; hợp tác quốc tế về
thi đua, khen thƣởng; thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định pháp luật
về thi đua, khen thƣởng; giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm pháp luật
về thi đua, khen thƣởng.[3, tr. 58]
Những nội dung quản lý nhà nƣớc về công tác thi đua, khen thƣởng có ý
nghĩa rất quan trọng trong quản lý nhà nƣớc công tác thi đua, khen thƣởng ở
địa phƣơng. Do vậy luận văn tập trung làm rõ những nội dung chủ yếu quản
lý nhà nƣớc đã đƣợc nêu trong Luật Thi đua, khen thƣởng.
1.2.1. Ban hành các văn bản pháp luật về thi đua, khen thưởng
Hệ thống văn bản pháp luật là công cụ quan trọng nhất để nhà nƣớc
quản lý xã hội nói chung và quản lý công tác thi đua, khen thƣởng nói riêng.
Nó tạo ra hành lang pháp lý để các tổ chức, các tầng lớp nhân dân và các cá
nhân dựa vào đó mà tham gia các phong trào thi đua và đƣợc khen thƣởng;
hành lang đó tạo ra sự thống nhất công tác thi đua, khen thƣởng ở các ngành,
các cấp trong cả nƣớc.
Từ xƣa đã có các văn bản quy định nhƣng với những tên gọi khác nhua
nhƣ: quốc lệnh, sắc lệnh, quyết nghị, pháp lệnh và hiện nay là Luật, nghị định,
thông tƣ, chỉ thị để tổ chức thực hiện công tác thi đua, khen thƣởng. Suốt
chiều dài xây dựng đất nƣớc công tác thi đua, khen thƣởng đã bám sát đƣợc
17



chủ trƣơng, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc, kịp thời đề ra những phƣơng
pháp tổ chức thực hiện phù hợp với yêu cầu của từng giai đoạn cách mạng; đã
khơi dậy và phát huy cao độ lòng yêu nƣớc, ý chí quật cƣờng, tinh thần hy
sinh cao cả, chủ nghĩa Anh hùng cách mạng của toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân góp phần bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, giải phóng miền Nam, cả
nƣớc đi lên chủ nghĩa xã hội.
Trải qua một giai đoạn lịch sử lâu dài, có thời gian dài công tác thi đua,
khen thƣởng bị buông lỏng. Ngày 03/5/1998 Bộ chính trị đã ban hành Chỉ thị
số 35 về đổi mới công tác thi đua, khen thƣởng trong giai đoạn mới. Ngày
21/5/2004 Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 39 về tiếp tục đổi mới, đẩy
mạnh phong trào thi đua yêu nƣớc, phát hiện, bồi dƣỡng, tổng kết và nhân
rộng điển hình tiên tiến. Nhận thức tầm quan trọng của công tác thi đua, khen
thƣởng, ngày 30/9/2010 Ban Bí thƣ Trung ƣơng đảng ra Kết luận số 83KL/TW về chỉ đạo tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 39-CT/TW ngày 21/5/2004
của Bộ Chính trị về việc tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu
nƣớc, phát hiện, bồi dƣỡng, tổng kết, nhân điển hình tiên tiến và đến ngày
07/4/2014 Bộ chính trị tiếp tục ban hành Chỉ thị 34 về tiếp tục đổi mới công
tác thi đua, khen thƣởng. Một lần nữa khẳng định vai trò của công tác thi đua,
khen thƣởng trong giai đoạn mở cửa và hội nhập quốc tế.
Luật Thi đua khen thƣởng ra đời cùng các văn bản pháp quy của nhà
nƣớc nhƣ Nghị định số 121/2005/NĐ-CP ngày 30/9/2005 của Chính phủ,
Nghị định số 42/2010/NĐ-CP ngày 15/4/2010 của Chính phủ; Nghị định số
65/2014/NĐ-CP ngày 01/7/2014 của Chính phủ Quy định chi tiết thi hành
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi đua, khen thƣởng năm 2013;
Nghị định số 39/2012/NĐ-CP ngày 02 tháng 4 năm 2012 của Chính phủ,
Nghị định số 122/2005/NĐ-CP ngày 04/10/2005 của Chính phủ quy định tổ
chức làm công tác thi đua, khen thƣởng đã từng bƣớc thực hiện đổi mới công
18



tác thi đua, khen thƣởng, đƣa công tác này vào nề nếp đáp ứng yêu cầu của
nền kinh tế thị trƣờng và hội nhập quốc tế.
Trên cơ sở quy định của Luật Thi đua, khen thƣởng và các văn bản
hƣớng dẫn thi hành luật, các địa phƣơng, đơn vị đã đề ra những quy định cụ
thể về công tác khen thƣởng của địa phƣơng, đơn vị mình theo chức năng
nhiệm vụ và điều kiện thực tế để từng bƣớc đƣa Luật Thi đua, khen thƣởng
vào cuộc sống, góp phần đẩy mạnh công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa và
bảo vệ Tổ quốc mà ở đó thi đua, khen thƣởng là biện pháp đòn bẩy đƣợc áp
dụng thống nhất trong phạm vi cả nƣớc.
1.2.2. Xây dựng chính sách về thi đua, khen thưởng
Việc xây dựng chính sách về công tác thi đua, khen thƣởng đƣợc Đảng
và Nhà nƣớc ta đặc biệt quan tâm. Luật Thi đua, khen thƣởng, các văn bản
quy phạm pháp luật, thông tƣ hƣớng dẫn thi hành luật đề cập một cách toàn
diện các mặt của công tác thi đua, khen thƣởng; đây là chủ trƣơng chính sách
lớn của Đảng và Nhà nƣớc. Cuộc sống phát triển rất sinh động phong phú,
phong trào thi đua, khen thƣởng cũng không ngừng phát triển phong phú đa
dạng nhất là ở các ngành, các địa phƣơng cho đến cơ sở. Do vậy vấn đề đặt ra
trong quản lý nhà nƣớc về công tác thi đua, khen thƣởng là xây dựng chính
sách về thi đua, khen thƣởng, chính sách này phải đáp ứng kịp thời sự phát
triển cuộc sống xã hội thậm chí của mỗi ngành, mỗi cấp đặc biệt của địa
phƣơng và cơ sở.
Trong thời kỳ kháng chiến các danh hiệu thi đua, hình thức khen
thƣởng chỉ nhằm động viên tinh thần là chủ yếu; đến nay, nền kinh tế đang
phát triển, với cơ chế thị trƣờng và hội nhập quốc tế, Đảng và nhà nƣớc ta đặc
biệt quan tâm đến quyền lợi và chế độ đối với ngƣời lao động nói chung và
đối với những cá nhân, tập thể có thành tích cống hiến đƣợc khen thƣởng nói
riêng. Do vậy khi xây dựng chính sách về thi đua, khen thƣởng phải chú trọng
19



đến chế độ khen thƣởng nhằm khuyến khích, động viên những cá nhân, tập
thể hăng hái trong phong trào thi đua yêu nƣớc. Thực tiễn cho ta thấy rõ tác
dụng to lớn của chính sách trong công tác thi đua, khen thƣởng khi kết hợp
giữa động viên tinh thần, gắn với quyền lợi vật chất, có chính sách đãi ngộ
thỏa đáng trong khen thƣởng sẽ là động lực cho thi đua, động lực phát triển
kinh tế xã hội, là động lực để vƣợt qua những khó khăn, thử thách. Nhƣ khen
thì phải thƣởng, thƣởng bằng tiền và hiện vật. Hay khen thƣởng còn dùng làm
tiêu chí để xét thăng tiến hay nâng bậc lƣơng. Đó chính là các chính sách
đang đƣợc thực thi trong thi đua khen thƣởng.
Xây dựng một chính sách tốt mới tạo ra động lực cho mọi ngƣời thi đua,
có động lực mọi ngƣời mới thi đua tốt. Thi đua tốt thì xã hội ngày càng phát
triển, đất nƣớc ngày càng giàu mạnh.
1.2.3. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức làm công tác thi đua, khen
thưởng
Đội ngũ cán bộ, công chức là yếu tố quan trọng quyết định việc thực thi
các văn bản pháp luật, các chính sách về công tác thi đua đúng, đạt hiệu quả.
Hiện nay đội ngũ cán bộ công chức nói chung, cán bộ công chức là công
tác thi đua nói riêng vẫn chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu trong tình hình mới. Chất
lƣợng cán bộ còn chƣa đồng đều nhƣng nhận thấy tầm quan trọng của đội ngũ
cán bộ thì phải chú ý công tác quy hoạch cán bộ, đào tạo, bồi dƣỡng, quản lý,
đánh giá cán bộ chuyên trách công tác thi đua- khen thƣởng phải đƣợc chú
trọng và đƣợc coi là công việc thƣờng xuyên của cấp ủy. Các cấp phải đặc
biệt quan tâm và coi đây là một nhiệm vụ ngang tầm với phát triển kinh tế,
văn hóa, xã hội... Vì nó tác động trực tiếp đến hiệu quả năng suất lao động
không chỉ trực tiếp đối với công tác thi đua, khen thƣởng mà còn đối với
phong trào lao động sản xuất, xây dựng đời sống mới ở mọi cấp, mọi ngành
và trong nhân dân. Việc quy hoạch cán bộ, đào tạo, bồi dƣỡng, quản lý, đánh
20



giá cán bộ chuyên trách công tác thi đua, khen thƣởng cần đƣợc thực hiện
đồng bộ từ chủ trƣơng, giải pháp đến các biện pháp chỉ đạo thực hiện, từng
bƣớc nâng cao chất lƣợng cán bộ, đủ về số lƣợng, đồng bộ về cơ cấu, đảm
bảo sự chuyển tiếp liên tục giữa các thế hệ cán bộ, tránh tình trạng hẫng hụt
cán bộ.
Cần phải đổi mới chƣơng trình, nội dung đào tạo, bồi dƣỡng về nghiệp
vụ thi đua, khen thƣởng, kết hợp trang bị kiến thức nghiệp vụ mới, kỹ năng
nghề nghiệp với việc nâng cao phẩm chất chính trị tƣ tƣởng, đạo đức, tác
phong, kiến thức pháp luật và kỹ năng thực hành cho đội ngũ cán bộ, công
chức và cán bộ lãnh đạo, quản lý. Đào tạo cán bộ, công chức theo hƣớng toàn
diện, trang bị kiến thức cơ bản và kiến thức chuyên ngành thi đua, khen
thƣởng, gắn việc ứng dụng khoa học và công nghệ tiên tiến với thực tiễn
phong phú, đa dạng ở các bộ, ngành, địa phƣơng và ở cơ sở, kết hợp với đào
tạo, bồi dƣỡng ở nƣớc ngoài.
Chú trọng công tác tuyển dụng và từng bƣớc kiện toàn, nâng tầm đội ngũ
cán bộ làm công tác thi đua thì mới nâng cao đƣợc chất lƣợng trong công tác
thi đua khen thƣởng, xứng với sự quan tâm chỉ đạo, lãnh đạo của Đảng và nhà
nƣớc.
1.2.4. Tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn và tổ chức thực hiện các quy
định của pháp luật về thi đua, khen thưởng
Điều 12 và Điều 13 Luật Thi đua khen thƣởng có nêu: “Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và các tổ chức xã hội
khác trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm: tuyên
truyền, động viên các thành viên của mình tham gia với các cơ quan chức
năng tuyên truyền, động viên nhân dân thực hiện pháp luật về thi đua, khen
thƣởng; Tổ chức hoặc phối hợp với cơ quan nhà nƣớc tổ chức các cuộc vận
động, các phong trào thi đua; Giám sát việc thực hiện pháp luật về thi đua,
21



khen thƣởng. Các cơ quan thông tin đại chúng có trách nhiệm thƣờng xuyên
tuyên truyền, phổ biến, nêu gƣơng các điển hình tiên tiến, ngƣời tốt việc tốt,
cổ động phong trào thi đua, khen thƣởng.” [3, tr. 14]
Mặt trận Tổ quốc và các thành viên có trách nhiệm tuyên truyền, phổ
biến, giám sát; tổ chức nhà nƣớc có trách nhiệm tổ chức và phối hợp tuyên
truyền, phổ biến, giám sát; cơ quan thông tin đại chúng có trách nhiệm thƣờng
xuyên trong công tác tuyên truyền cho thi đua và các gƣơng điển hình. Đây
cũng là nhiệm vụ của các cấp, các ngành, các địa phƣơng đơn vị khi tiến hành
công tác thi đua, khen thƣởng phải thực hiện. Tuy nhiên, ở mỗi ngành, mỗi
cấp tổ chức thực hiện nhiệm vụ này có những yêu cầu, đối tƣợng, nội dung cụ
thể khác nhau. Tuyên truyền là một khâu rất quan trọng vì thế Luật Thi đua,
khen thƣởng cũng quy định rõ và đó là một vấn đề mà nhà nƣớc cần phải
quản lý.
Đối với cấp Trung ƣơng, đây cũng là một trong những nội dung phải
thực hiện thƣờng xuyên và lâu dài. Có kế hoạch tuyên truyền, phổ biến,
hƣớng dẫn để các ngành, các địa phƣơng quán triệt mục đích, yêu cầu, nội
dung của các quy định pháp luật đồng thời có sự hƣớng dẫn các ngành, các
địa phƣơng tổ chức thực hiện các quy định pháp luật ấy. Trên cơ sở đó, các
ngành, các cấp trong cả nƣớc thống nhất nhận thức và hành động.
Đối với địa phƣơng sau khi đƣợc quán triệt và hƣớng dẫn tổ chức thực
hiện, chính quyền cấp tỉnh vận dụng vào đặc điểm cụ thể của địa phƣơng từ
đó có kế hoạch tuyên truyền, phổ biến hƣớng dẫn và tổ chức thực hiện các
quy định pháp luật đối với cấp huyện và các ban, ngành, đoàn thể ở địa
phƣơng.
Đối với cấp huyện cũng tƣơng tự nhƣ vậy. Một khi toàn bộ các cấp, các
ngành thực hiện nhiệm vụ này sẽ tạo ra đƣợc sự thống nhất nhận thức, hành

22



động trong cả nƣớc từ Trung ƣơng đến cơ sở đối với các quy định pháp luật
về thi đua, khen thƣởng.
Nội dung về hƣớng dẫn và tổ chức thực hiện có ý nghĩa rất đặc biệt, vì
có tổ chức thực hiện luật, các văn bản quy định của pháp luật mới trở thành
hiện thực trong cuộc sống, nhà nƣớc mới thực sự quản lý đƣợc công tác thi
đua, khen thƣởng. Từ đó công tác thi đua, khen thƣởng tạo sự quản lý thống
nhất từ Trung ƣơng đến cơ sở. Mới trở thành động lực phát triển kinh tế xã
hội.
1.2.5. Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm
việc thực hiện các quy định pháp luật về thi đua, khen thưởng
Dù ở lĩnh vực nào thì để đảm bảo nó đúng quy định thì việc thanh tra,
kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm đều phải đƣợc thực hiện
thƣờng xuyên, liên tục. Trong thực tế, không phải đơn vị, địa phƣơng, cá nhân
nào cũng thực hiện tốt, đầy đủ những quy định của Luật Thi đua, khen thƣởng
và các văn bản hƣớng dẫn thi hành luật.
Điều 96 Luật Thi đua, khen thƣởng. Quản lý nhà nƣớc ở bất kỳ lĩnh
vực nào, ngành nào cũng đều phải có thanh tra, kiểm tra, nếu không thanh tra,
kiểm tra sẽ bị buông lỏng công tác quản lý nhà nƣớc.
Những nội dung của công tác thanh tra, kiểm tra: Việc thực hiện Luật
Thi đua, khen thƣởng, các văn bản hƣớng dẫn thi hành luật, các quy định,
chính sách của nhà nƣớc về thi đua, khen thƣởng không đúng tiêu chuẩn,
không đúng đối tƣợng, tiêu cực,...v.v…Việc thanh tra, kiểm tra diễn ra định
kỳ hàng quý, hàng năm hoặc theo đợt phát động phong trào thi đua, kết thúc
phong trào thi đua, hoặc thanh tra đột xuất khi thấy có vấn đề về công tác thi
đua, khen thƣởng.
Việc xét thi đua, khen thƣởng vẫn còn những hiện tƣợng không khách
quan, cảm tình, nể nang, chủ quan có những động cơ không trong sáng. Một
23



số cá nhân, đơn vị lợi dụng những sai sót trong phƣơng pháp, tinh thần trách
nhiệm của ngƣời thực hiện nhiệm vụ, các cá nhân, tập thể khai man thành tích
để đƣợc khen thƣởng. Nhiều bằng chứng các vụ án xảy ra gần đây đã cho thấy
công tác thanh tra, kiểm tra không đảm bảo thì sẽ có sai xót nhƣ: vụ án Trịnh
Xuân Thanh,… đã có nhiều tập thể, cá nhân bị thu hồi các quyết định khen
thƣởng. Nhiều đơn thƣ khiếu nại của quần chúng nhân dân về khen sai, khen
không đúng tiêu chuẩn, tố giác những ngƣời khai man thành tích, thực hiện
không đúng chính sách về khen thƣởng của Đảng và nhà nƣớc. Vì vậy, cơ
quan quản lý phải giải quyết để thực hiện tốt Luật Khiếu nại, tố cáo đảm bảo
quyền lợi, chính sách trong thi đua, khen thƣởng.
Việc đánh giá, kết luận ở từng đơn vị từng ngành, từng cấp sau khi
thanh tra, kiểm tra là cần thiết, vì qua đó đánh giá đƣợc công tác thực hiện
chính sách khen thƣởng ở cơ quan, đơn vị đó. Từ đó rút ra đƣợc những bài
học, kinh nghiệm để thực hiện tốt hơn. Công tác quản lý nhà nƣớc trong việc
thanh tra, kiểm tra giải quyết các khiếu nại tố cáo và đặc biệt là xử lý những
vi phạm pháp luật về thi đua, khen thƣởng phải đƣợc quan tâm thƣờng xuyên
để đảm bảo đƣợc nguyên tắc của thi đua là tự nguyện, tự giác, nguyên tắc của
khen thƣởng là chính xác, công khai, công bằng và kịp thời. Có nhƣ vậy thi
đua, khen thƣởng mới thực sự là động lực cho mỗi cá nhân, tập thể trong lao
động, sản xuất, công tác, học tập tốt hơn và có tác dụng thúc đẩy sự phát triển
kinh tế xã hội của địa phƣơng cũng nhƣ của đất nƣớc.
Việc xây dựng các chƣơng trình thanh tra, kiểm tra; hoàn thiện các nội
dung thanh kiểm tra; thời gian thanh kiểm tra; việc giải quyết khiếu nại, tố
cáo và tiếp công dân về công tác thi đua khen thƣởng đang rất đƣợc quan tâm.
Cụ thể là nó trở thành tiêu chí để xét đánh giá bình xét thi đua cuối năm của
một tỉnh.
1.2.6. Hợp tác quốc tế về thi đua, khen thưởng
24



Hợp tác quốc tế là nội dung không mới nhƣng gần đây trong Chỉ thị số
39/CT-TW chú trọng đổi mới công tác thi đua khen thƣởng , trong đó tăng
cƣờng hợp tác quốc tế về thi đua khen thƣởng với nội dung sau:
Trao đổi học tập kinh nghiệm quản lý của các nƣớc bạn về khen thƣởng
và về các chính sách khuyến khích ngƣời dân tham gia vào công việc của xã
hội. Đồng thời giới thiệu hình thức thi đua, khen thƣởng của Việt Nam với
các nƣớc bạn. Theo dõi phát hiện những cá nhân, tổ chức nƣớc ngoài có đóng
góp đối với Việt Nam trong các ngành, lĩnh vực và các địa phƣơng để từ đó
đề xuất những hình thức khen thƣởng đối với những cá nhân tổ chức nƣớc
ngoài đã có những đóng góp hiệu quả trong việc giúp Việt Nam xây dựng,
phát triển kinh tế hoặc giúp các ngành, các địa phƣơng giải quyết đƣợc những
vấn đề cần ghi công và khen thƣởng.
Với điều kiện nƣớc ta hiện nay, để đạt đƣợc mục tiêu có 1 triệu doanh
nghiệp hoạt động hiệu quả đến năm 2020 theo tinh thần Nghị quyết 35/NQCP ngày 16/5/2016 của Chính phủ, nội dung hợp tác quốc tế về thi đua, khen
thƣởng càng cần đƣợc quan tâm hơn cùng với sự phát triển, hội nhập kinh tế
quốc tế, kêu gọi sự hợp tác đầu tƣ của các cá nhân, tổ chức nƣớc ngoài. Qua
đó có những hình thức động viên phù hợp để khuyến khích các nhà đầu tƣ
nƣớc ngoài đầu tƣ và Việt Nam, cũng nhƣ gắn chặt tình hữu nghị. Hiện nay
cấp nhà nƣớc có Huân chƣơng Hữu nghị là hình thức tặng thƣởng cao quý
cho các cá nhân, tổ chức ngƣời nƣớc ngoài có đóng góp cho Việt Nam.
1.2.7. Sơ kết, tổng kết, và đánh giá hiệu quả công tác thi đua
Hoạt động nào theo thời gian cũng phải sơ kết, tổng kết đánh giá mặt
làm đƣợc, mặt chƣa làm đƣợc để từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho những
hoạt động tiếp theo. Chính vì thực tế đó công tác thi đua khen thƣởng cũng
cần nghiêm túc tổ chức sơ kết, tổng kết để thấy đƣợc ƣu, khuyết điểm trong
công tác tổ chức, triển khai thực hiện phong trào thi đua và khen thƣởng.
25



×