Tải bản đầy đủ (.pdf) (124 trang)

PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH PHÚ YÊN (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.62 MB, 124 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

............…/…………

……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

LÊ THỊ LANH

PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
TỪ THỰC TIỄN TỈNH PHÚ YÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT HIẾN PHÁP - LUẬT HÀNH CHÍNH
Mã số: 60 38 01 02
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. LÊ THỊ HƢƠNG
THỪA THIÊN HUẾ-NĂM 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được
ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Học viên


Lê Thị Lanh


Lời Cảm Ơn
Với lòng kính trọng và sự tri ån såu sắc, trước tiên tôi xin gửi lời
câm ơn chån thành đến quý Thæy, Cô Học viện Hành chính Quốc
gia đã trang bị cho tôi nhiều kiến thức quý báu trong suốt thời gian qua.
Đặc biệt, tôi xin chån thành câm ơn PGS. TS. Lê Thị
Hương đã hết lòng giúp đỡ, hướng dẫn tận tình từ lúc định hướng chọn
đề tài cũng như quá trình hoàn thiện nghiên cứu, cô luôn động viên và
täo mọi điều kiện thuận lợi để giúp tôi có thể hoàn thành luận văn này.
Tôi cũng xin câm ơn các bän bè, đồng nghiệp đã luôn quan tåm
giúp đỡ, cung cçp rçt nhiều số liệu, chia sẻ nhiều kinh nghiệm thực tế để
giúp tôi có thể hoàn thành nghiên cứu này.
Trån trọng!
Thừa Thiên Huế, tháng năm 2017
Học viên

Lê Thị Lanh


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ THI
HÀNH ÁN DÂN SỰ ........................................................................................ 7

1.1. Quan niệm về thi hành án dân sự ....................................................................... 7
1.1.1. Khái niệm thi hành án dân sự.................................................................7
1.1.2. Đặc điểm của thi hành án dân sự ........................................................11
1.1.3. Vai trò của thi hành án dân sự.............................................................13
1.1.4. Phân biệt thi hành án dân sự với thi hành án hình sự ......................15
1.2. Pháp luật về thi hành án dân sự ........................................................................16
1.2.1. Khái niệm pháp luật về thi hành án dân sự ........................................16
1.2.2. Nội dung của pháp luật về thi hành án dân sự ..................................18
Chương 2: THỰC TRẠNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VÀ PHÁP LUẬT
VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở TỈNH PHÚ YÊN..................................... 40
2.1. Thực trạng thi hành án dân sự tại tỉnh phú yên ...............................................40
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của cơ quan Thi hành án dân sự
tỉnh Phú Yên ......................................................................................................40
2.1.2. Kết quả thi hành án dân sự ở tỉnh Phú Yên từ năm 2011 đến nay ..46
2.1.3. Nhận xét về tình hình thi hành án dân sự ở tỉnh Phú Yên ................51
2.2. Thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự ở tỉnh Phú
Yên ............................................................................................................................57
2.2.1. Thực trạng pháp luật về thi hành án dân sự ở tỉnh Phú Yên............57


2.2.2. Thực trạng thi hành pháp luật về thi hành án dân sự ở tỉnh Phú Yên
............................................................................................................................60

Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ........................ 79
3.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự ..................................79
3.1.1. Hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự phải dựa trên nguyên
tắc tôn trọng quyền con người của nhà nước pháp quyền ..........................79
3.1.2. Hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự phải phù hợp với chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng về thi hành án dân sự ................80

3.1.3. Hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự phải nhằm phát huy vai trò
của cá nhân, tổ chức và nhà nước trong hoạt động thi hành án dân sự..........81
3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự ở Việt Nam .........83
3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự, tạo cơ sở pháp
lý vững chắc cho hoạt động thi hành án dân sự đạt hiệu quả ....................83
3.2.2. Kiện toàn tổ chức, bộ máy cơ quan thi hành án và nâng cao năng
lực hoạt động của đội ngũ chấp hành viên ...................................................89
3.2.3. Tăng cường kiểm tra, thanh tra công tác thi hành án dân sự nhằm
bảo đảm kỷ cương và nâng cao chất lượng hiệu quả công tác thi hành án
dân sự .................................................................................................................94
3.2.4. Tăng cường các biện pháp giải quyết các vụ việc thi hành án dân sự tồn
đọng ....................................................................................................................95
3.2.5. Tăng cường sự chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa
phương và phát huy vai trò của hệ thống chính trị trong công tác phối hợp
thi hành án dân sự ............................................................................................97
3.2.6. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức và chấp hành viên
trong công tác tổ chức thi hành án dân sự ..................................................101


3.2.7. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, đào tạo, thông tin
pháp luật về thi hành án dân sự cho các cá nhân, tổ chức, cơ quan có liên
quan đến thi hành án dân sự .........................................................................103
3.2.8. Thực hiện xã hội hóa hoạt động thi hành án dân sự .......................106
KẾT LUẬN .................................................................................................. 110
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................... 112


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Tổng số việc qua các năm............................................................... 47
Bảng 2.2. Kết quả thi hành án về việc ............................................................ 47

Bảng 2.3: Tổng số tiền và giá trị hiện vật qua các năm .................................. 49
Bảng 2.4: Kết quả thi hành án dân sự về tiền ................................................. 49


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Thi hành án dân sự là hoạt động quan trọng nhằm đưa bản án, quyết
định có hiệu lực pháp luật của Toà án, quyết định của Trọng tài thương mại,
quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh ra
thi hành trong thực tế, góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà
nước, tổ chức và công dân góp phần ổn định an ninh chính trị, trật tự, an toàn
xã hội. Điều 106 Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
2013 quy định: “Bản án, quyết định của Toà án nhân dân có hiệu lực pháp
luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá
nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”[34 ]. Thi hành án dân sự là
một bộ phận trong chế định về thi hành án ở nước ta, được thực hiện bởi cơ
quan có thẩm quyền nhằm đưa các bản án, quyết định dân sự được thực hiện
trong thực tiễn. Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội khóa IX ngày 06/10/1992
và Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993 [49], công tác thi hành án dân sự
được Tòa án chuyển giao cho Bộ Tư pháp thống nhất quản lý từ trung ương
đến địa phương. Trải qua gần 25 năm, công tác thi hành án dân sự đã có nhiều
chuyển biến tích cực, đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận.
Thực hiện Luật Thi hành án dân sự, các văn bản hướng dẫn thi hành và
các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của Tổng cục thi hành án dân sự- Bộ Tư
Pháp, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh, công tác thi hành án dân sự trên địa bàn
tỉnh Phú Yên thời gian qua đã đạt được nhiều kết quả đáng kể về mặt tổ chức
bộ máy và về việc. Năm 2015 đã thi hành xong hơn 5.014việc, đạt 85,5% về
việc, hơn 82% về tiền (vượt 5% so với chỉ tiêu của Bộ Tư Pháp giao). Năm
2016 đã đạt tỷ lệ 79% về việc với 5.073 việc đã giải quyết xong trên số có
điều kiện thi hành (vượt 7% so với chỉ tiêu giao), thi hành xong hơn 130 tỷ

1


đồng, đạt 48% (vượt 15% so với chỉ tiêu giao). Các cơ quan thi hành án đã ra
quyết định cưỡng chế nhiều vụ việc, hầu hết đều đảm bảo an toàn, đúng pháp
luật, đảm bảo tình hình an ninh trật tự xã hội[19],[20] thành quả trên có vai
trò to lớn của quá trình thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự trên địa bàn
tỉnh Phú Yên thời gian qua.
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác thi hành án dân sự hiện nay
vẫn còn bộc lộ những tồn tại, hạn chế như: Hệ thống văn bản pháp luật về thi
hành án dân sự còn nhiều bất cập, vướng mắc; việc kiện toàn tổ chức, bộ máy
theo quy định còn chậm; cơ sở vật chất vẫn còn nhiều khó khăn; tình trạng
khiếu nại, tố cáo ngày càng diễn biến phức tạp; hoạt động phối hợp trong thi
hành án dân sự chưa được nhịp nhàng và đồng bộ, hiệu quả chưa cao; kết quả
công tác thi hành án dân sự hàng năm tăng chậm, không bền vững, án tồn
đọng chuyển sang năm sau còn nhiều. Những bất cập này đã và đang làm
giảm hiệu lực, hiệu quả của công tác thi hành án dân sự, chưa đáp ứng được
yêu cầu của pháp luật về thi hành án dân sự từ thực tiễn thi hành.
Tại tỉnh Phú Yên, pháp luật về thi hành án dân sự tại địa phương còn
tồn tại nhiều vấn đề đang đòi hỏi cần được nghiên cứu, hoàn thiện. Bên cạnh
các bất cập chung xuất phát từ hệ thống pháp luật, thực trạng pháp luật về Thi
hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Phú Yên còn nhiều hạn chế: Công tác quản
lý, chỉ đạo, điều hành và tổ chức thi hành án dân sự chưa chủ động; đội ngũ
cán bộ, công chức còn thiếu về số lượng, chưa đáp ứng về chất lượng; sự phối
hợp trong hoạt động thi hành án với các cơ quan, tổ chức chưa hiệu quả, sự
khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn tổ chức thi hành... Hơn nữa, trên thực tế
công tác thi hành án cũng chưa được các cấp, các ngành quan tâm xứng tầm
với nhiệm vụ đặt ra, dẫn đến việc tổ chức thực hiện pháp luật về Thi hành án
dân sự cũng gặp rất nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến việc làm giảm đáng kể
2



hiệu quả hoạt động của các cơ quan thi hành án dân sự, cần có các giải pháp
để giải quyết tổng thể.
Xuất phát từ thực tiễn đó, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Pháp luật về Thi
hành án dân sự - Từ thực tiễn tỉnh Phú Yên” để làm đề tài luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những năm gần đây đã có một số công trình nghiên cứu về lĩnh vực thi
hành án dân sự như sau:
- Đề tài nghiên cứu khoa học: Đề tài cấp Bộ "Mô hình quản lý thống
nhất công tác thi hành án", mã số 96-98-027/ĐT do Cục Thi hành án dân sự Bộ Tư pháp thực hiện[6]; Đề tài cấp Nhà nước "Luận cứ khoa học của việc
đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mới" do
Bộ Tư pháp chủ trì [7].
- Luận văn thạc sỹ: Luận văn thạc sĩ luật học "Quản lý nhà nước trong lĩnh
vực thi hành án dân sự" của tác giả Hoàng Kim Chiến[13]; Luận văn thạc sĩ Luật
học "Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự" của tác giả Nguyễn Thanh
Thủy[48]; Luận văn thạc sĩ luật học "Xã hội hóa thi hành án dân sự ở Việt Nam"
của tác giả Lê Xuân Hồng[30]; Luận văn thạc sĩ luật học "Đổi mới tổ chức và hoạt
động thi hành án dân sự ở Việt Nam" của tác giả Nguyễn Quang Thái [47];
- Các bài viết, chuyên đề, giáo trình: Giáo trình môn Luật Thi hành án dân
sự của trường Đại học Luật Hà Nội[27]; Những nội dung cơ bản của Luật Thi
hành án dân sự - Tiến sỹ Nguyễn Thanh Thủy, Thạc sỹ luật học Lê Anh Tuấn Cục Thi hành án dân sự, Bộ Tư pháp[46]; các bài viết chuyên khảo đăng trên các
tạp chí dân chủ pháp luật, sách báo chuyên ngành Luật…[11]
Tuy nhiên, chủ đề pháp luật về thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Phú Yên
thì chưa có nghiên cứu nào đề cập. Do vậy, phạm vi, nhiệm vụ và mục đích
nghiên cứu của đề tài là không trùng lặp với bất kỳ nghiên cứu nào trước đây.
3


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

3.1. Mục đích
Đề tài nhằm mục đích nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện cơ
sở lý luận về pháp luật về Thi hành án dân sự hiện nay; Luận văn đánh giá
thực trạng và đề xuất giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả
áp dụng pháp luật Thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Phú Yên, trong
chương trình tổng thể về cải cách tư pháp đến năm 2020 và trong điều kiện
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
3.2. Nhiệm vụ
- Luận văn có nhiệm vụ làm rõ cơ sở lý luận của pháp luật về THADS,
vai trò của THADS; phân tích nội dung của pháp luật về Thi hành án dân sự.
- Phân tích thực trạng pháp luật về Thi hành án dân sự ở tỉnh Phú Yên,
đánh giá những kết quả đã đạt được, những tồn tại, hạn chế của thực trạng thi
hành pháp luật về THADS tại tỉnh Phú Yên và làm rõ nguyên nhân của những
hạn chế đó.
- Trên cơ sở đó, đưa ra các quan điểmvà giải pháp nhằm hoàn thiện
pháp luật về thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp
luật Thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Phú Yên.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Luận văn nghiên cứu thực trạng pháp luật về Thi hành
án dân sự tại tỉnh Phú Yên.
- Về thời gian: Luận văn nghiên cứu pháp luật về Thi hành án dân sự từ
trước đến nay, tham khảo số liệu từ năm 2011 đến nay.

4


5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu

- Phương pháp luận: Luận văn được nghiên cứu một cách khách quan
dựa trên phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử của triết học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và
pháp luật, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước Việt
Nam về thi hành án dân sự.
- Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận, luận văn sử
dụng các phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so
sánh, phương pháp thống kê và một số phương pháp khác để tiếp cận, nghiên
cứu những vấn đề thuộc nội dung của đề tài.
Luận văn cũng kế thừa, tham khảo một số tài liệu, một số cuộc khảo
sát, các báo cáo liên quan đến thi hành án dân sự của Tổng cục Thi hành án
dân sự, Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Yên từ năm 2011 đến nay.
6. Những điểm mới của luận văn
Luận văn đã đúc kết một số vấn đề lý luận của pháp luật về Thi hành án
dân sự; đánh giá thực tiễn hoạt động thực hiện pháp luật về Thi hành án dân
tỉnh ở Phú Yên; đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp
luật về thi hành án dân sự, góp phần vào tăng cường hiệu lực của pháp luật
đối với lĩnh vực thi hành án dân sự, đáp ứng được yêu cầu trong tình hình mới
và hội nhập quốc tế ngày nay.
Đây là công trình nghiên cứu chuyên sâu đầu tiên liên quan đến pháp
luật về thi hành án dân sự từ thực tiễn của tỉnh Phú Yên. Vì vậy, kết quả
nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho tất cả cán
bộ, công chức làm việc trong hệ thống cơ quan thi hành án dân sự trên địa bàn
tỉnh Phú Yên nói riêng và tổ chức thi hành án trên toàn quốc. Luận văn cũng
có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy, học tập,
nghiên cứu hoặc bất kỳ ai quan tâm đến lĩnh vực này.
5


7. Kết cấu của Luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, kết cấu và danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung của Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận của pháp luật về thi hành án dân sự
Chương 2: Thực trạng thi hành án dân sự và pháp luật về thi hành án
dân sự ở tỉnh Phú Yên
Chương 3: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về thi hành
án dân sự ở Việt Nam hiện nay

6


Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT
VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1. Quan niệm về thi hành án dân sự
1.1.1. Khái niệm thi hành án dân sự
Khi các cá nhân, tổ chức phát sinh tranh chấp và yêu cầu Tòa án giải
quyết, phán quyết của Tòa án chỉ là kết quả về mặt pháp lý. Để bảo vệ quyền
lợi của mình trên thực tế, bên thắng kiện phải yêu cầu cơ quan thi hành án dân
sự tổ chức thi hành bản án, quyết định của Tòa án. Việc tổ chức thi hành bản
án, quyết định của Tòa án được gọi là thi hành án dân sự (THADS).
THADS là một giai đoạn độc lập của quá trình tố tụng dân sự, giai
đoạn kết thúc quá trình bảo vệ quyền lợi của đương sự và người có quyền và
lợi ích liên quan theo bản án, quyết định của Tòa án được tổ chức thi hành
trên thực tế. Đó là hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền dựa
trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và theo các trình tự, thủ tục do pháp
luật quy định nhằm đưa bản án, quyết định của Toà án ra thi hành trên thực tế, bảo
đảm tính hiệu lực của các bản án, quyết định dân sự của Tòa án bảo vệ kịp thời
các quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự, người có quyền và lợi ích
liên quan. Trong quá trình tổ chức thi hành các bản án, quyết định đã có hiệu lực

của Tòa án, hoạt động THADS còn góp phần phát hiện sai sót của các quá trình tố
tụng dân sự của Tòa án trong việc áp dụng pháp luật hoặc làm ảnh hưởng đến
quyền lợi cho công dân, đương sự và không phù hợp với hiện trạng thực tế như
lĩnh vực về đất đai, nhà ở, công trình kiến thúc xây dựng…, từ đó kiến nghị đến
Tòa án có thẩm quyền kịp thời xét xử lại nhằm bảo vệ quyền lợi cho các bên
đương sự, người có quyền và lợi ích liên quan; chỉ đạo công tác xét xử, hướng dẫn
áp dụng pháp luật và kiến nghị trong việc xây dựng pháp luật. Tuy nhiên, việc tổ
7


chức THADS không những chỉ đối với các bản án, quyết định của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật mà còn phải tổ chức thi hành đối với bản án, quyết định chưa có
hiệu lực nhưng phải thi hành ngay trong những trường hợp pháp luật quy định cụ
thể tại Điều 2, Khoản 2 của Luật Thi hành án dân sự “Những bản án, quyết
định sau đây của Toà án cấp sơ thẩm được thi hành ngay, mặc dù có thể bị
kháng cáo, kháng nghị: a) Bản án, quyết định về cấp dưỡng, trả lương, trả
công lao động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao
động hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tổn thất về tinh thần,
nhận người lao động trở lại làm việc;b) Quyết định áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời” [ 37]. Do đó, THADS là hoạt động đặc thù và rất phức tạp, có
nhiều quan điểm, ý kiến khác nhau về tính chất của hoạt động THADS. Để xác
định được là hoạt động tư pháp hay hoạt động hành chính, phân tích các quan
điểm sau đây:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: hoạt động THADS là một hoạt động tư
pháp vì nó là giai đoạn tiếp theo của giai đoạn xét xử không thể thiếu trong
quá trình bảo vệ quyền lợi của đương sự, người có quyền và nghĩa vụ liên
quan, luôn gắn liền với các giai đoạn tố tụng và được ghi nhận trong Bộ luật
Tố tụng Dân sự. Do đó THADS chính là một hoạt động tư pháp là giai đoạn
cuối của tố tụng dân sự. Tuy nhiên, quan điểm này lại không lý giải được một
vấn đề thực tiễn pháp lý đang thừa nhận đó là cơ quan THADS không phải là

cơ quan tiến hành tố tụng, chấp hành viên (CHV) THADS không phải là
người tiến hành tố tụng.
Quan điểm thứ hai cho rằng: hoạt động THADS không phải là hoạt
động tư pháp, bởi vì không những thi hành các vụ án dân sự, mà còn có trình
tự, thủ tục thi hành phần dân sự trong các bản án hình sự, kinh doanh thương
mại, hành chính, lao động…, trình tự tổ chức thi hành theo một trình tự thủ
tục hành chính. Do đó nó là một loại hoạt động hành chính [3]vì bản chất,
8


mục đích của thi hành án dân sự khác hoàn toàn với tố tụng, không thể gắn nó
với hoạt động tố tụng dân sự. Quan điểm này xuất phát từ bản chất và mục
đích của tố tụng dân sự là xác định sự thật khách quan của các vụ án dân sự,
vụ việc dân sự để đưa ra các phán quyết đúng theo quy định của pháp luật. Để
có được các phán quyết đó, các cơ quan tiến hành tố tụng, các cá nhân tiến
hành tố tụng tham gia theo một quy trình tố tụng chặt chẽ, công khai và minh
bạch. Còn hoạt động THADS lại là một quy trình đi ngược lại với quy trình
thủ tục, tố tụng. Cơ quan THADS thường phải đưa ra một quyết định mang
tính hành chính dựa trên một văn bản cá biệt (văn bản áp dụng pháp luật) để
điều chỉnh hoạt động của cá nhân, đối tượng phải có nghĩa vụ thi hành án và
chủ thể được thi hành án. Ngoài ra, THADS còn có thể coi là hoạt động hành
chính vì bản chất, hoạt động này là hoạt động chấp hành và điều hành, theo đó
mà nó mang tính quản lý hành chính nhà nước rõ nét. Tuy nhiên, nếu xem
THADS là hoạt động hành chính thì sẽ khó lý giải với những trường hợp
người được THADS không làm đơn yêu cầu THADS thì cơ quan THADS
không thể có cơ sơ để thực hiện (trừ trường hợp bắt buộc để bảo vệ những
người không có khả năng tự mình thực hiện các quyền của họ) và qua đó có
thể áp dụng các phương pháp hành chính như: mệnh lệnh, quyền uy để đưa ra
các biện pháp cưỡng chế THADS được, do đó yếu tố hành chính không hoàn
toàn được thỏa mãn. Ngoài ra, yếu tố hành chính cũng không hoàn toàn được

thỏa mãn khi chế định Thừa phát lại được thí điểm áp dụng, khi việc THADS
không chỉ do các cơ quan nhà nước (cơ quan thi hành án) thực hiện mà có thể
do các tổ chức như thừa phát lại hoặc được chính các chủ thể phải thi hành án
tự nguyện thực hiện trên cơ sở của những phương pháp có tính chất dân sự
như thỏa thuận, tự định đoạt (trong những phạm vi nhất định).
Quan điểm thứ ba cho rằng, THADS là hoạt động “lưỡng tính”, vừa
mang tính chất hành chính, vừa mang tính chất tư pháp chứ không thể chỉ có
9


riêng tính chất hành chính, hoặc riêng tính chất tư pháp. THADS là một hoạt
động mang tính quyền lực nhà nước, do cơ quan THADS và CHV thực hiện
nhằm đưa quyết định của các bản án, quyết định về dân sự của Toà án đi vào
thực tiễn cuộc sống. Hoạt động THADS trên thực tế luôn gắn liền với quy
trình tố tụng nói chung và quy trình tố tụng dân sự nói riêng, gắn với quyền
lực hành pháp. Đồng thời, cũng qua hoạt động THADS, các cá nhân, tổ chức
có nghĩa vụ phải THADS phải thực hiện đầy đủ các trách nhiệm của mình.
Trong trường hợp không thi hành quyết định thi hành án thì cá nhân, tổ
chức đó phải chịu sự cưỡng chế của Nhà nước thông qua các cơ quan có
chức năng, nhiệm vụ liên quan. Tuy nhiên, việc thi hành án không chỉ do
các chủ thể có thẩm quyền thực hiện mà có khi nó được thực hiện một cách
tự giác bởi người có nghĩa vụ thi hành án. Khi nào các bản án, phán quyết
không được thi hành một cách tự nguyện bởi người có nghĩa vụ thì hoạt động
cưỡng chế thi hành án của chủ thể có thẩm quyền mới cần phải thực hiện.
Cả ba quan điểm trên đều có điểm hợp lý nhưng theo tác giả, quan
điểm thứ ba là phù hợp hơn cả. Bởi vì, xuất phát từ các quy định pháp luật
hiện hành và thực tiễn công tác thi hành án dân sự ở nước ta, có thể nói rằng,
THADS là hoạt động đặc thù, vừa có tính chất của hoạt động hành chính, vừa
có tính chất của hoạt động tư pháp.
Từ những phân tích nêu trên, có thể hiểu: Thi hành án dân sự là hoạt

động hành chính - tư pháp do cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền tiến
hành theo trình tự, thủ tục luật định để đưa bản án, quyết định của Tòa án
hoặc các quyết định khác của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp
luật được thực hiện trên thực tế, là giai đoạn cuối cùng của quá trình bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự, người có quyền lợi và nghĩa
vụ liên quan trong các quan hệ dân sự.

10


1.1.2. Đặc điểm của thi hành án dân sự
THADS là hoạt động phức tạp với những đặc điểm sau:
Thứ nhất, THADS là hoạt động liên quan đến quyền lực nhà nước. Nó
bao gồm nhiều hoạt động của nhiều chủ thể khác nhau nên đòi hỏi sự tham
gia của chủ thể không chỉ các cơ quan hành chính nhà nước mà cả các cơ
quan tư pháp và bổ trợ tư pháp cũng như của chính người có nghĩa vụ thi
hành án. Do đó, như đã phân tích, việc thực hiện quyền lực nhà nước trong
THADS là sự ''lưỡng tính” giữa quyền hành pháp và quyền tư pháp. Tuy
nhiên, khác với THAHS, THADS không hoàn toàn mang tính quyền lực nhà
nước do có sự tham gia của chủ thể không mang quyền lực nhà nước, có hoạt
động thực hiện các phán quyết của các chủ thể được nhà nước trao quyền
hoặc công nhận (phán quyết của trọng tài), cho phép tồn tại sự thỏa thuận
giữa các bên. Vì vậy THADS không hoàn toàn dùng các biện pháp cứng nhắc
của quyền lực nhà nước.
Thứ hai, THADS là hoạt động có mục đích là để thực hiện lợi ích của
người được thi hành án. Hoạt động THADS không chỉ nhằm mục đích giữ vững
kỷ cương, phép nước, giữ vững giá trị của pháp luật mà còn nhằm bảo vệ quyền
và lợi ích của cá nhân, tổ chức, nhà nước là đối tượng trực tiếp được thi hành án.
Đồng thời THADS còn phải đảm bảo lợi ích hợp pháp của những người có liên
quan đến tài sản là đối tượng trong các quyết định THADS.

Thứ ba, THADS chủ yếu là hoạt động thi hành bản án, quyết định của
Toà án về tài sản nên tính chất dân sự mà tài sản mang lại có ý nghĩa rất lớn
trong việc xác định tính chất của quan hệ pháp luật là quan hệ pháp luật dân
sự. Tính tự nguyện, tự định đoạt từ phía người được THADS được tôn trọng.
Do đó, trong quá trình THADS, cơ quan THADS luôn luôn bảo đảm quyền tự
nguyện, tự định đoạt và tự chịu trách nhiệm với sự lựa chọn thực hiện hay
không thực hiện của đương sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến
11


thi hành án mà cơ quan này không được tự tiện can thiệp.
Thứ tư, THADS là hoạt động có ý nghĩa trong việc góp phần nâng cao
chất lượng, hiệu quả của hiệu lực xét xử
Quá trình xét xử phải tuân thủ chặt chẽ các qui định của pháp luật về
trình tự thủ tục tố tụng. Chủ thể tiến hành tố tụng đều là những người có uy
tín, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao nhưng xuất phát từ đặc điểm tính chất
vụ án dân sự đa dạng, phức tạp. Trong khi đó qui định của pháp luật về nội
dung cũng như qui định về thủ tục tố tụng nhiều khi còn chưa chặt chẽ, thiếu
sót dẫn đến có những bản án, quyết định tuyên không rõ ràng, không khả thi ở
thực tế. Cơ quan THADS, CHV không chỉ làm cho các bản án hoặc phán
quyết được tôn trọng mà còn có thể phát hiện ra những sai lầm của bản án,
quyết định của Toà án mà họ đang thi hành thì có quyền kiến nghị với người
có thẩm quyền theo quy định của pháp luật tố tụng để bản án hay quyết định
đó được xét xử lại theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm. Như vậy, THADS
chính là giai đoạn kiểm nghiệm qua thực tiễn những bản án, quyết định của
Tòa án, phản ảnh trung thực, chất lượng và hiệu quả của toàn bộ quá trình giải
quyết vụ án. Từ thực tiễn thi hành án mà mỗi Thẩm phán, Kiểm sát viên, Hội
thẩm nhân dân, thư ký Tòa án có thể rút ra bài học kinh nghiệm khắc phục
những khiếm khuyết, nâng cao chất lượng xét xử, bảo đảm tính khả thi cao
của bản án, quyết định của Tòa án.

Thứ năm, THADS là hoạt động không mang tính áp đặt đơn phương
thuần túy như thi hành án hình sự. THADS có thể có sự hợp tác của các chủ
thể khác, điều này có thể thấy rất rõ khi các chủ thể có nghĩa vụ thi hành các
bản án đã tự nguyện thực hiện nghĩa vụ của mình hoặc khi có sự tham gia của
Thừa phát lại. Mặt khác, THADS chỉ do cơ quan thi hành án thực hiện khi có
sự yêu cầu của người được thi hành bản án hoặc người có quyền lợi nghĩa vụ
liên quan và chủ động thi hành trong những trường hợp pháp luật quy định
12


như các khoản thi hành theo khoản 1, Điều 36 Luật thi hành án dân sự được
sửa đổi, bổ sung năm 2014[37]. Ngay trong quá trình thi hành án, các chủ thể
thi hành án còn có nghĩa vụ thuyết phục các bên thỏa thuận hoặc hòa giải với
nhau để cho bản án được thực hiện một cách thuận lợi, đạt hiệu quả cao, đồng
thời phải tôn trọng sự thỏa thuận ấy mà không cần phải áp dụng các biện pháp
cưỡng chế thi hành án. Vì vậy, không phải bao giờ hoạt động thi hành án cũng
chỉ là thực hiện quyền lực nhà nước một cách thuần túy để áp đặt cho các
đương sự liên quan đến phán quyết.
1.1.3. Vai trò của thi hành án dân sự
THADS có vai trò rất quan trọng trong hoạt động tố tụng nói chung và
quá trình giải quyết vụ án nói riêng. Đó là công đoạn cuối cùng của hoạt động
tố tụng, bảo đảm cho các bản án, quyết định của Tòa án được chấp hành
nghiêm chỉnh, góp phần tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà nước, thể hiện ở các
khía cạnh sau.
Một là, hoạt động THADS bảo đảm cho bản án, quyết định của Toà án
được chấp hành trong thực tế. Mọi quyết định, bản án của toà án, quyết định
của cơ quan có thẩm quyền chỉ thực sự có giá trị khi được thực hiện trong
thực tế. Nếu không có “giai đoạn” thi hành án, rất khó trông chờ vào sự tự
nguyện chấp hành của các chủ thể có liên quan, đặc biệt là đối với chủ thể bắt

buộc phải chấp hành. Việc THADS được thực hiện bằng cưỡng chế nhà nước
sẽ bảo đảm tính hiệu lực cho bản án, quyết định của tòa án và các quyết định
của cơ quan có thẩm quyền được thực hiện.
Hai là, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà
nước góp phần giữ vững ổn định chính trị, xã hội. Pháp luật là công cụ điều
chỉnh các mối quan hệ xã hội, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân. Việc quyết định, bản án của Tòa án và quyết định khác của cơ quan
13


có thẩm quyền được thi hành trong thực tế đồng nghĩa với việc quyền, lợi ích
của các chủ thể được thi hành án được bảo đảm, các chủ thể chấp hành thi
hành án đúng các nghĩa vụ, trách nhiệm của mình. Thông qua việc thực hiện
các trình tự, thủ tục thi hành bản án, quyết định dân sự, hình phạt tiền, tịch thu
tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản theo
bản án, quyết định của tòa án đối với chủ thể phải thi hành mà thi hành án góp
phần đảm bảo công bằng, bình đẳng, giữ vững trật tự xã hội.
Ba là, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước. THADS
được thực hiện bởi các chủ thể được Nhà nước trao quyền. Thông qua hoạt
động của cơ quan thi hành án dân sự được tổ chức từ trung ương đến cấp tỉnh,
cấp huyện và cơ quan thi hành án quân sự mà đảm bảo việc áp dụng thống
nhất các quy định của pháp luật, quản lý về mặt tổ chức, nhân sự, hoạt động
trong thi hành án dân sự từ trung ương đến địa phương, góp phần nâng cao
hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án,
góp phần giữ vững ổn định chính trị- xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu quả
của bộ máy nhà nước
Bốn là, góp phần bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật. THADS là
một trong các quan hệ xã hội phổ biến, là chế định quan trọng của tố tụng dân
sự, được pháp luật thừa nhận và điều chỉnh. Việc thực hiện đúng các quy định
pháp luật về THADS trong thực tế góp phần đảm bảo tính nghiêm minh của

pháp luật. Tất cả chủ thể tham gia trong các quan hệ này đều được điều chỉnh
bởi pháp luật và phải tuân thủ pháp luật. Do vậy, THADS góp phần đảm bảo
tính nghiêm minh của pháp luật, pháp chế XHCN.
Năm là, góp phần giáo dục ý thức pháp luật cho công dân. Một trong
những vai trò của THADS chính là giáo dục ý thức pháp luật. Thông qua hoạt
động THADS, đương sự bao gồm người được thi hành án và người phải thi
hành án, các cá nhân có liên quan và công dân một lần nữa lại được hướng
14


dẫn, giải thích quy định pháp luật dân sự, quy định pháp luật về THADS, qua
đó, nâng cao được hiểu biết của công dân về pháp luật.
1.1.4. Phân biệt thi hành án dân sự với thi hành án hình sự
Trong các hoạt động tố tụng hiện nay ở nước ta, bên cạnh THADS, còn
có hoạt động thi hành án hình sự (THAHS). Có thể phân biệt hai hoạt động
này thông qua các đặc thù của mỗi hoạt động thể hiện, cụ thể như sau:
Về cơ quan thi hành án: Chủ thể bắt buộc trong quan hệ THADS là Cơ
quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên. Trong khi đó, chủ thể của THAHS
là Cơ quan thi hành án hình sự, bao gồm: Trại giam thuộc Bộ Công an, trại
giam thuộc Bộ Quốc phòng, trại giam thuộc quân khu (sau đây gọi là trại
giam); Cơ quan thi hành án hình sự Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương; cơ quan thi hành án hình sự Công an huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh; cơ quan thi hành án hình sự quân khu và tương đương sự [4], [5]
Về người chấp hành án: Đương sự trong THADS bao gồm người được
thi hành án (cá nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng quyền, lợi ích trong bản
án, quyết định được thi hành) và người phải thi hành án (cá nhân, cơ quan, tổ
chức phải thực hiện nghĩa vụ trong bản án, quyết định được thi hành). Đối với
THAHS, người chấp hành án là người bị kết tội và phải chịu hình phạt theo
bản án đã có hiệu lực pháp luật.
Về khách thể: THADS đảm bảo quyền yêu cầu, tự nguyện và thỏa

thuận thi hành án của các bên đương sự, xuất phát từ nguyên tắc tự nguyện, tự
thỏa thuận, bình đẳng, hòa giải trong quan hệ dân sự. Ngoài những trường
hợp phải chủ động ra quyết định thi hành án theo quy định, cơ quan THADS
chỉ tổ chức thi hành án trên cơ sở yêu cầu của người được thi hành án, đồng
thời phải tôn trọng và đảm bảo cho các bên đương sự thực hiện quyền thỏa
thuận và tự nguyện thi hành án. Còn THAHS hoàn toàn mang tính cưỡng chế
nhà nước, chỉ tuân thủ theo quyết định, bản án hình sự có hiệu lực pháp luật.
15


Về trình tự, thủ tục: Trình tự, thủ tục THADS theo quy định của pháp
luật về THADS. Trình tự, thủ tục THAHS là một cơ chế chặt chẽ theo quy
định của pháp luật về THAHS.
1.2. Pháp luật về thi hành án dân sự
1.2.1. Khái niệm pháp luật về thi hành án dân sự
Pháp luật là hệ thống các quy phạm (quy tắc hành vi hay quy tắc xử sự)
có tính bắt buộc chung và được thực hiện lâu dài, nhằm điều chỉnh các quan
hệ xã hội, do nhà nước ban hành (hoặc thừa nhận), thể hiện ý chí nhà nước và
được nhà nước bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp tổ chức, giáo dục,
thuyết phục, cưỡng chế bằng bộ máy nhà nước. Pháp luật là công cụ để thực
hiện quyền lực nhà nước và là cơ sở pháp lý cho đời sống xã hội có nhà nước.
Biểu hiện của tính hệ thống pháp luật là sự phân chia hệ thống ấy thành
những ngành, chế định pháp luật điều chỉnh từng lĩnh vực, nhóm quan hệ xã
hội nhất định. Những nhóm quan hệ xã hội ấy giống nhau về nội dung và tính
chất, tồn tại một cách khách quan. Pháp luật THADS có tính chất chuyên
ngành được quy định trong nhiều văn bản pháp luật, trong đó Hiến pháp là
đạo luật cơ bản, có hiệu lực pháp lý tối cao, là cơ sở để hình thành pháp luật
về THADS “Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật
phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân
hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành” (Đ.106 Hiến pháp năm 2013) [34].

Nhận thức tầm quan trọng của công tác thi hành án, từ khi thực hiện
đường lối đổi mới đến nay, Đảng ta đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách về
THADS, như: Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khoá VII (1995), Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khoá VIII (1997), Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của
Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian
tới[1], Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng
16


khoá IX (2004) và nhất là trong Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24/5/2005
của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020[3], Nghị quyết số
49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020[2]. Thể chế hoá đường lối, chính sách của Đảng, Hội đồng nhà
nước trước đây, nay là Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh
Thi hành án dân sự năm 1989 [49], Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm
1993[49] và Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004[50]. Kết quả sau hơn ba
năm thực hiện Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 cho thấy, nhiều quy
định về thủ tục thi hành án đã thể hiện được quan điểm cải cách tư pháp, cải
cách hành chính, phù hợp với sự chuyển đổi từ cơ chế tập trung bao cấp sang
cơ chế thị trường, tháo gỡ kịp thời một số tồn tại, vướng mắc trong công tác
thi hành án dân sự, góp phần từng bước nâng cao hiệu quả của công tác thi
hành án. Tuy nhiên, so với đòi hỏi của thực tiễn và yêu cầu nhiệm vụ trong
tình hình mới thì Pháp lệnh năm 2004 đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, nhất
là quy định về trình tự, thủ tục; trách nhiệm, cơ chế phối hợp của các cơ quan,
tổ chức có liên quan trong thi hành án; cơ chế quản lý, mô hình tổ chức cơ
quan thi hành án chưa ngang tầm với chức năng, nhiệm vụ, tính chất công
việc được giao; quyền hạn của cơ quan thi hành án, của Chấp hành viên chưa
tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ; chưa có cơ chế phối hợp hiệu quả giữa thi

hành án dân sự với thi hành án phạt tù, đặc biệt là các vụ án hình sự có bồi
thường thiệt hại; chưa tạo ra cơ sở pháp lý để thực hiện xã hội hoá hoạt động
thi hành án dân sự, ngày 14/11/2008, Quốc hội thông qua Luật Thi hành án
dân sự (sau đây gọi là Luật) và Nghị quyết thi hành luật này, có hiệu lực thi
hành kể từ ngày 1/7/2009[35],[36]. Trên cơ sở các quy định của Luật, việc tổ
chức thi hành Luật đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, cụ thể là: nhận thức
của các cơ quan, tổ chức, cá nhân và các tầng lớp nhân dân về ý nghĩa, vai trò
17


của công tác THADS được nâng lên rõ rệt; hệ thống các văn bản quy phạm
pháp luật quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật cơ bản đã đầy đủ (06
Nghị định của CP, 06 quyết định của Thủ tướng Chính phủ, 20 Thông tư, 15
thông tư liên tịch...); việc kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ làm công tác
THADS theo quy định của Luật đã cơ bản được hoàn thành; tiếp tục được
hoàn thiện và ban hành Luật hi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm
2014, có hiệu lực ngày 1/7/2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành như
Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính Phủ, các Thông tư liên
ngành về thi hành án dân sự...[43]
Như vậy, có thể khái quát: Pháp luật thi hành án dân sự là tổng hợp
các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội giữa cơ quan thi hành
án dân sự với các cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan đến việc thi hành
án dân sự, phát sinh trong giai đoạn thi hành án dân sự nhằm bảo đảm việc
thi hành bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực, hiệu quả, bảo vệ lợi ích
của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức và nhà nước.
1.2.2. Nội dung của pháp luật về thi hành án dân sự
Pháp luật về THADS không chỉ gói gọn trong Luật Thi hành án dân sự
năm 2008 và Luật sửa đổi, bổ sung năm 2014 mà còn được quy định trong
nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Để tìm hiểu nội dung cơ bản của pháp luật
về THADS đòi hỏi phải có sự nghiên cứu đầy đủ, toàn diện những chế định

có liên quan như: các quy định về phân cấp quản lý nhà nước về THADS, hệ
thống các cơ quan thi hành án, chấp hành viên; vấn đề về trình tự thủ tục tổ
chức thi hành, cưỡng chế thi hành án, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi
phạm; vấn đề về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức và
nhà nước có liên quan đến THADS; vấn đề về công tác phối hợp của các cấp,
các ngành đối với hoạt động THADS. Nhìn chung pháp luật về THADS của
nước ta bao gồm những nội dung cơ bản sau:
18


×