Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Tìm hiểu hệ thống đấu thầu điện tử (mua sắm công) của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (628.92 KB, 23 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................3
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN VỀ MUA SẮM CÔNG ĐIỆN TỬ...................4
1.1 Khái niệm...............................................................................................4
1.2 Các lợi ích của mua sắm công điện tử...................................................4
1.3. Khó khăn của mua sắm công điện tử....................................................5
CHƯƠNG II. TÌM HIỂU HỆ THỐNG MUA SẮM CÔNG ĐIỆN TỬ VIỆT
NAM...............................................................................................................6
2.1Giới thiệu về hệ thống mua sắm công điện tử Việt Nam........................6
2.2 Quy trình mua sắm công điện tử tại hệ thống......................................10
2.3 Lợi ích của hệ thống mua sắm công điện tử........................................16
2.4 Hạn chế của hệ thống mua sắm công điện tử.......................................17
CHƯƠNG III. NHẬN XÉT VÀ ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ HỆ THỐNG MUA
SẮM CÔN ĐIỆN TỬ VIỆT NAM...............................................................19
3.1 Thành tựu.............................................................................................19
3.2 Thách thức............................................................................................21
3.3 Đề xuất giải pháp.................................................................................23
KẾT LUẬN.....................................................................................................9

1


LỜI MỞ ĐẦU
Trong xu thế hội nhập quốc tế như hiện nay, sự quản lý của nhà nước ngày càng
đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế. Nhưng để những chủ
trương, chính sách của Đảng và nhà nước được triển khai thực hiện trong nhân dân thì
đây là vấn đề mà nhà nước cần quan tâm. Các nước tiên tiến về công nghệ thông tin
như Mỹ, Canada là những nước nói sớm nhất về chính phủ điện tử, từ đầu thập kỷ 90
của thế kỷ XX. Hầu hết các nước triển khai thực hiện chính phủ điện tử đã nhận thấy
rằng việc thực hiện chính phủ điện tử đã đem lại nhiều hiệu quả và lợi ích cho đất
nước. Vì vậy nhiều nước trên thế giới đã triển khai thực hiện chính phủ điện tử và trên


thực tế đã đem lại hiệu quả to lớn cho các nước đó.
Ở nước ta, khái niệm chính phủ điện tử còn khá mới mẻ, lạ lẫm. Nhân dân hầu
như không biết tới chính phủ điện tử là gì. Quá trình triển khai thực hiện chính phủ
điện tử ở việt nam vẫn ở giai đoạn khởi đầu và còn rất nhiều công việc cần thiết nữa để
triển khai thành công chính phủ điện tử ở Việt Nam.
Vì vậy nghiên cứu về chính phủ điện tử là vấn đề cần thiết trong quá trình hội
nhập với nền kinh tế quốc tế như ngày nay..

2


CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ MUA SẮM CÔNG ĐIỆN TỬ
1.1. Khái niệm
-

Mua sắm công là mua sắm của chính phủ, là những khoản chi tiêu của các cơ quan
chính phủ để mua hàng hoá, dịch vụ cho việc sử dụng của chính mình. Ví dụ một
cơ quan chính phủ mua ô-tô, lắp đặt hệ thống điều hoà nhiệt độ, xây dựng trụ sở
mới (mua DV xây dựng), thuê dịch vụ tổ chức hội nghị ... đó chính là những hoạt

-

động cụ thể của mua sắm chính phủ.
Đó là việc chi tiêu của các cơ quan nhà nước, là việc cơ quan nhà nước bỏ tiền để
mua hàng hóa, dịch vụ hoặc xây dựng công trình... phục vụ cho hoạt động QLNN

-

và cung cấp DV công.
Chi tiêu của CP của các nước hàng năng chiếm từ 10% - 20% GDP của mỗi nước

(ví dụ của EU chiếm khoảng 16% GDP, Ý khoảng 11,9%, trong khi Hà Lan khoảng
21,5%). Giá trị mua sắm công là rất lớn đối với mỗi quốc gia. Hàng năm các quốc
gia phải dành rất nhiều thời gian và nguồn lực để tiến hành tổ chức đấu thầu mua
sắm công. Việc ứng dụng TMĐT vào mua sắm công được gọi là hoạt động mua
sắm công điện tử.

1.2. Các lợi ích của mua sắm công điện tử
-

Tiết kiệm chi phí: chi phí giao dịch được giảm thiểu như chi phí giấy tờ, in ấn, lưu

-

trữ thông tin, giảm chi phí đi lại, gặp gỡ của các bên.
Thời gian thực hiện rút ngắn; không lệ thuộc thời gian, không gian.
Nâng cao tính minh bạch trong mua sắm công, phòng và chống tham nhũng, chống

-

tình trạng móc ngoặc, thông đồng, hối lộ.
Thúc đẩy sự cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp, chọn nhà thầu tốt, mở

-

rộng không gian và thời gian đấu thầu.
Việc tiếp cận thông tin, xử lý thông tin nhanh chóng, tinh giản quy trình đấu thầu...
Cải thiện hiệu quả công tác đấu thầu, tăng hiệu quả chi tiêu của chính phủ.
Thúc đẩy phát triển kinh tế, phù hợp hội nhập quốc tế.
Ví dụ: cam kết của Việt Nam khi tham gia các hiệp định TM như Hiệp định Đối
tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP), chương Mua sắm chính phủ (GPA) của

WTO … là phải kiểm soát tính minh bạch, công khai trong đấu thầu.

3


-

Minh bạch về giá: Minh bạch về giá bằng cách công khai kết quả đấu thầu trên
mạng đã tránh được tình trạng ký hợp đồng với giá quá cao và giúp điều chỉnh giá

-

hàng hóa, xây lắp hay DV theo giá thị trường
Kích thích cạnh tranh và thông báo mời thầu công khai trên mạng là công cụ hữu
ích cho các DN khối tư nhân tiếp cận và tham gia đấu thầu, qua đó tăng sự cạnh

-

tranh, góp phần giảm giá gói thầu.
Đổi mới quy trình quản lý đấu thầu, là một bước tiến giúp cải cách thủ tục hành

-

chính, và QLNN.
Việc ứng dụng CNTT vào quá trình công khai hóa thông tin và quy trình đấu thầu
giúp thu thập những dữ liệu, thông tin đấu thầu một cách dễ dàng hơn, tạo cơ sở
cho việc giám sát và đưa ra các quyết định sau này.

1.3. Khó khăn của mua sắm công điện tử
-


Phải có sự thay đổi tích cực trong tổ chức vận hành mua sắm công
Phải có sự thay đổi trong quản lý, điều hành với một cam kết chung xuyên suốt bộ

-

máy chính phủ liên kết với cộng đồng doanh nghiệp.
Tâm lý và sự quan ngại của số đông những người tham gia hoạt động đấu thầu do

-

lo mất việc làm khi chuyển sang đấu thầu điện tử.
Vấn đề hạ tầng CNTT cho phép nhà thầu tham gia được vào hệ thống.
An ninh mạng là một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của chủ đầu tư và nhà
thầu: Chính phủ phải có nỗ lực đáng kể để đảm bảo với chủ đầu tư rằng an ninh của
hệ thống mạng hoàn toàn được bảo đảm.

CHƯƠNG II: TÌM HIỂU HỆ THỐNG MUA SẮM CÔNG VIỆT NAM

2.1 Giới thiệu về hệ thống mua sắm công điện tử Việt Nam
 Lịch sử phát triển

4


Ngày 29/12/2011, tại Hà Nội, Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức Hội nghị tổng kết
thí điểm đấu thầu qua mạng giai đoạn 2009-2011 và đề xuất thực hiện đấu thầu qua
mạng giai đoạn tiếp theo.
Đấu thầu qua mạng được quy định tại Điều 30 Luật Đấu thầu số 61/2005/QH11
ngày 19/11/2005 của Quốc Hội nước CHXHCN Việt Nam khóa XI, tạo cơ sở pháp lý

cao nhất cho việc triển khai đấu thầu qua mạng tại Việt Nam. Việc ứng dụng thương
mại điện tử trong mua sắm chính phủ nhằm xây dựng Hệ thống đấu thầu điện tử quốc
gia nằm trong Kế hoạch tổng thể phát triển thương mại điện tử giai đoạn 2006 – 2010
(Quyết định số 222/2005/QĐ-TTg ngày 15/9/2005), Kế hoạch tổng thể phát triển
thương mại điện tử giai đoạn 2011 – 2015 (Quyết định số 1073/2010/QĐ-TTg ngày
12/7/2010) và Chương trình quốc gia về ứng dụng Công nghệ thông tin trong hoạt
động của cơ quan nhà nước (Quyết định số 1065/QĐ-TTg ngày 27/8/2010) do Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt.
Năm 2009, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, với sự trợ giúp của Chính phủ Hàn Quốc
mà đại diện là Cơ quan hợp tác quốc tế Hàn Quốc (KOICA), đã tiến hành xây dựng Hệ
thống đấu thầu điện tử thử nghiệm tại địa chỉ dựa trên
Hệ thống mua sắm chính phủ điện tử của Hàn Quốc (KONEPS) và được tối ưu hóa phù
hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam. Trong giai đoạn thí điểm, Hệ thống do Bộ
Kế hoạch và Đầu tư quản lý và vận hành cung cấp cho người sử dụng đầy đủ các chức
năng từ đăng tải kế hoạch đấu thầu, sơ tuyển, thông báo mời thầu, nộp hồ sơ dự thầu,
lập biên bản mở thầu cho đến đăng tải kết quả đấu thầu, kiến nghị trong đấu thầu… để
lựa chọn nhà thầu thông qua 4 hình thức đấu thầu rộng rãi, đấu thầu hạn chế, chào hàng
cạnh tranh, và chỉ định thầu.
Ngày 03/9/2009, được sự chấp thuận của Thủ tướng chính phủ tại văn bản số
6059/VPCP-KTN về chủ trương triển khai thí điểm đấu thầu qua mạng từ năm 2009
đến 2011, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan tích
cực hướng dẫn thực hiện thí điểm đấu thầu qua mạng tại UBND TP Hà Nội, Tập đoàn
Bưu chính Viễn thông Việt Nam, Tập đoàn Điện lực Việt Nam, và các các cơ quan có
nhu cầu.
5


Ngày 22/7/2010, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã ban hành Thông tư số 17/2010/TTBKH quy định chi tiết thí điểm đấu thầu qua mạng, tạo cơ sở pháp lý cho các đơn vị
thực hiện đấu thầu qua mạng.
Trong 3 năm qua, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tổ chức giới thiệu, hướng dẫn về

đấu thầu qua mạng cho hơn 2000 cán bộ từ hơn 500 đơn vị chủ đầu tư, bên mời thầu và
nhà thầu trong cả nước.
Tính đến cuối năm 2011, 3 cơ quan thí điểm và các đơn vị khác trong cả nước
đã thực hiện thành công 55 gói thầu điện tử (toàn bộ các hoạt động như đăng tải kế
hoạch đấu thầu, đăng tải thông báo mời thầu, phát hành hồ sơ mời thầu, nộp hồ sơ dự
thầu, mở thầu, thông báo kết quả đánh giá… đều được thực hiện trên Hệ thống), đăng
tải được hơn 700 kế hoạch đấu thầu, hơn 20.000 thông báo mời thầu (hiện nay tất cả
thông báo mời thầu của các gói thầu thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Đấu thầu hàng
ngày đều được đăng tải trên Hệ thống). Số lượng người dùng đăng ký sử dụng Hệ
thống là hơn 1600 Bên mời thầu và hơn 400 Nhà thầu. Hội nghị cũng bàn và đề xuất kế
hoạch thực hiện đấu thầu qua mạng trong thời gian tới.
Hiện nay trên thế giới, đấu thầu qua mạng đã trở thành xu thế tất yếu của rất
nhiều quốc gia. Theo báo cáo của các nước đã triển khai, đấu thầu qua mạng có thể
giúp tiết kiệm chi phí từ 3% - 20% giá trị đấu thầu mua sắm, trung bình là 10%. Tại
Việt Nam, tổng giá trị các gói thầu thực hiện theo Luật đấu thầu hàng năm khoảng 20%
GDP tức hơn 20 tỷ USD. Như vậy, nếu chúng ta triển khai đấu thầu qua mạng cho tất
cả các gói thầu (100%) có thể góp phần tiết kiệm cho ngân sách nhà nước hàng tỷ đôla,
góp phần to lớn thực hiện Nghị quyết 11 của Chính phủ.
Quan trọng hơn, đấu thầu qua mạng làm tăng cường tính công khai minh bạch
thông tin trong hoạt động đấu thầu, thể hiện quyết tâm phòng chống tham nhũng của
Đảng và Nhà nước. Đây cũng là sự cam kết của Việt Nam với các nhà tài trợ trên thế
giới.
Ngày 04/9/2009 tại Hà Nội, Bộ KH&ĐT đã tổ chức lễ bàn giao hệ thống mua
sắm Chính phủ điện tử thử nghiệm - EPPS.
6


Dự án Xây dựng hệ thống mua sắm chính phủ điện tử thử nghiệm do Cơ quan
Hợp tác phát triển Hàn Quốc (KOICA) viện trợ không hoàn lại, là một phần của đề án
Ứng dụng thương mại điện tử trong mua sắm chính phủ. Cục Quản lý đấu thầu

(QLĐT) - Bộ KH&ĐT - được giao là chủ dự án. Nhà thầu chính là SAMSUNG SDS.
Sau 8 tháng triển khai phân tích, thiết kế và vận hành thử (từ tháng 01 - 8/2009), hệ
thống mua sắm chính phủ điện tử thử nghiệm đã hoàn tất và được bàn giao vào ngày
hôm nay.
Ứng dụng thương mại điện tử (TMĐT) trong mua sắm chính phủ là xu thế tất
yếu trước sự phát triển không ngừng của công nghệ thông tin (CNTT). Nhiều quốc gia
trên thế giới đã triển khai thành công mô hình này và đem lại hiệu quả cao cho chi tiêu
của chính phủ như Hàn Quốc, Vương Quốc Anh, Úc… Nhận thức được tầm quan trọng
đó, ngày 15/9/2005 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số 222/2005/QĐTTG về việc phê duyệt kế hoạch tổng thể phát triển thương mại điện tử giai đoạn 2006
– 2010 và giao Bộ KH&ĐT nghiên cứu triển khai đề án Ứng dụng thương mại điện tử
trong mua sắm chính phủ.
Ngày 19/6/2008, Bộ KH&ĐT và KOICA ký kết văn kiện dự án hỗ trợ kỹ thuật
“Xây dựng hệ thống mua sắm chính phủ điện tử thử nghiệm tại Việt Nam”. Ngày
14/1/2009, Bộ KH&ĐT thông qua dự án xây dựng hệ thống mua sắm chính phủ điện tử
thử nghiệm theo quyết định số 94/QĐ-BKH với tổng mức đầu tư 3.370.766 USD, trong
đó KOICA tài trợ không hoàn lại 3.000.000 USD và 370.766 USD là vốn đối ứng của
Chính phủ Việt Nam. Mục tiêu của dự án là xây dựng hợp phần e-bidding (đấu thầu
điện tử). Đây là hợp phần cốt lõi phục vụ cho công tác đấu thầu chuyên nghiệp, đảm
bảo tối đa hiệu quả và minh bạch.
 Đặc điểm của hệ thống
Hệ thống mua sắm CP điện tử thử nghiệm (EPPS) được xây dựng dựa trên hệ
thống đấu thầu thầu điện tử của Hàn Quốc (Koneps) và được tối ưu hóa phù hợp với
7


điều kiện thực tiễn của Việt Nam. Trong giai đoạn thử nghiệm, EPPS sẽ phát triển hợp
phần e-bidding (đấu thầu điện tử). Theo đó, một loạt các quy trình đấu thầu truyền
thống dựa trên giấy tờ sẽ được thay thế bằng quy trình tự động hóa trên máy tính như
đăng tải kế hoạch đấu thầu, thông báo mời thầu, nộp hồ sơ dự thầu, lập biên bản mở
thầu, đăng tải kết quả đấu thầu, kiến nghị trong đấu thầu…Trong giai đoạn thử nghiệm

EPPS sẽ triển khai 3 hình thức lựa chọn nhà thầu, bao gồm: đấu thầu rộng rãi, đấu thầu
hạn chế và chỉ định thầu áp dụng cho các gói thầu tư vấn, sơ tuyển, mua sắm hàng hóa,
xây lắp và EPC.
Thực hiện vai trò là cửa sổ duy nhất trong mua sắm công, bên mời thầu và nhà
thầu chỉ với một lần đăng ký có thể tham gia giao dịch được tất cả các gói thầu trên hệ
thống. Ngoài ra, một đặc điểm ưu việt của hệ thống là khả năng bảo mật cao nhờ áp
dụng hạ tầng khóa công khai cho phép mã hóa và giải mã dữ liệu (hồ sơ dự thầu) sử
dụng cặp khóa chung và khóa riêng (hay khóa bí mật). Bên mời thầu và nhà thầu khi
tham gia vào hệ thống, bắt buộc phải đăng ký chứng thực số (CA) – khoá riêng. Khi
đăng tải hồ sơ mời thầu, bên mời thầu cũng đồng thời cung cấp khoá chung cho nhà
thầu. Nhà thầu lập hồ sơ dự thầu xong sẽ mã hoá hồ sơ dự thầu bằng khoá riêng được
cấp ban đầu, và ký bằng khoá chung – được cấp cùng với hồ sơ mời thầu do bên mời
thầu tạo ra. Việc ký bằng khoá chung này cho phép bên mời thầu mở được hồ sơ dự
thầu (giải mã các hồ sơ dự thầu) với khoá riêng phù hợp (nằm trong cặp khoá chung –
khoá riêng của gói thầu đó)

2.2. Quy trình mua sắm công điện tử tại hệ thống:
1) Đăng ký tham gia hệ thống :
 Người sử dụng là bên mời thầu, nhà thầu muốn tham gia đấu thầu qua mạng
phải đăng ký tham gia Hệ thống theo quy định nêu tại Điều 16, Điều 17 Thông
tư này. Chi tiết các bước thực hiện đề nghị xem trong “Hướng dẫn đăng ký

8


người sử dụng là bên mời thầu”, “Hướng dẫn đăng ký người sử dụng là nhà
thầu” được đăng tải trên mục Hướng dẫn sử dụng trên trang chủ của Hệ thống.
 Trường hợp đăng ký thành công, người sử dụng sẽ được cấp chứng thư số để
đăng nhập Hệ thống và thực hiện các nghiệp vụ đấu thầu qua mạng trên Hệ
thống. Việc đăng ký tham gia vào Hệ thống thành công khi đối tượng đăng ký

sử dụng chứng thư số được cấp đăng nhập thành công vào Hệ thống.
2) Quy trình đăng ký người sử dụng là bên mời thầu:
a. Đăng ký tham gia Hệ thống
Quy trình đăng ký tham gia Hệ thống với vai trò là bên mời thầu bao gồm cá c
bước sau:
-

Khai báo thông tin trên Hệ thống và gửi hồ sơ đăng ký trực tiếp hoặc theo
đường công văn đến Cơ quan vận hành Hệ thống.

-

Hồ sơ đăng ký bao gồm:
 Đơn đăng ký cấp chứng thư số theo mẫu (do Hệ thống tạo ra trong quá
trình khai báo thông tin);


Bản chụp chứng thực Quyết định thành lập hoặc Giấy chứng nhận đăng
ký kinh doanh của tổ chức đối với trường hợp đề nghị cấp chứng thư số
lần đầu;



Bản chụp chứng thực văn bản thông báo mã số cơ quan (nếu có) theo
Quyết định số 90/2007/QĐ-BTC ngày 20/6/2007 của Bộ trưởng Bộ Tài
chính;

 Bản chụp chứng minh nhân dân của người đại diện theo pháp luật của cơ
quan, tổ chức đăng ký.
b. Xử lý hồ sơ đăng ký

Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ khi nhận được hồ sơ đăng ký, Cơ
quan vận hành Hệ thống kiểm tra tính chính xác của bản đăng ký điện tử trên Hệ
9


thống và hồ sơ đăng ký bằng văn bản do bên mời thầu gửi đến. Trường hợp hồ
sơ hợp lệ, Cơ quan vận hành Hệ thống chấp nhận bên mời thầu được tham gia
Hệ thống và xác nhận trên Hệ thống; trường hợp hồ sơ không chính xác hoặc
chưa đầy đủ, Cơ quan vận hành Hệ thống thông báo lý do trên Hệ thống để bên
mời thầu biết bổ sung, sửa đổi hồ sơ, bản đăng ký trên cho phù hợp.
c. Kiểm tra kết quả xử lý
Bên mời thầu có trách nhiệm tự kiểm tra tình trạng kết quả xử lý trên Hệ
thống. Trường hợp được chấp nhận tham gia Hệ thống, bên mời thầu nhận mã
phê duyệt chứng thư số và số tham chiếu để tải chứng thư số từ Hệ thống.
d. Đăng ký thông tin người sử dụng chứng thư số
Bên mời thầu nhập mã phê duyệt chứng thư số và số tham chiếu vào Hệ
thống để tải chứng thư số. Tiếp đó, bên mời thầu phải đăng ký thông tin người
sử dụng chứng thư số vào Hệ thống.
e. Đăng nhập vào Hệ thống
Sau khi được cấp chứng thư số, bên mời thầu đăng nhập vào Hệ thống và
thực hiện các quyền của người sử dụng là bên mời thầu.
3) Quy trình đăng ký người sử dụng là nhà thầu
a. Đăng ký tham gia Hệ thống
Quy trình đăng ký tham gia Hệ thống với vai trò là nhà thầu bao gồm các
bước sau:
-

Khai báo thông tin trên Hệ thống và gửi hồ sơ đăng ký trực tiếp hoặc theo
đường công văn đến Cơ quan vận hành Hệ thống.


-

Hồ sơ đăng ký bao gồm:
 Đơn đăng ký cấp chứng thư số theo mẫu (do Hệ thống tạo ra trong quá trình
khai báo thông tin);

10


 Bản chụp chứng thực Quyết định thành lập hoặc Giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh của tổ chức đối với trường hợp đề nghị cấp chứng thư số lần đầu;


Bản chụp chứng minh nhân dân người đại diện theo pháp luật của tổ chức
đăng ký.

b. Xử lý hồ sơ đăng ký
Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ khi nhận được hồ sơ đăng ký, Cơ
quan vận hành Hệ thống kiểm tra tính chính xác của thông tin khai báo trên Hệ
thống với hồ sơ đăng ký. Trường hợp thông tin khai báo trên Hệ thống là chính
xác, Cơ quan vận hành Hệ thống xác nhận trên Hệ thống; trường hợp thông tin
khai báo trên Hệ thống không chính xác hoặc chưa đầy đủ, Cơ quan vận hành
Hệ thống thông báo lý do trên Hệ thống để nhà thầu biết bổ sung, sửa đổi hồ sơ,
bản đăng ký trên cho phù hợp.
c. Kiểm tra kết quả xử lý
Nhà thầu có trách nhiệm tự kiểm tra tình trạng kết quả xử lý trên Hệ
thống. Trường hợp được chấp nhận tham gia Hệ thống, nhà thầu nhận mã phê
duyệt chứng thư số và số tham chiếu để tải chứng thư số từ Hệ thống.
d. Đăng ký thông tin người sử dụng chứng thư số
Nhà thầu nhập mã phê duyệt chứng thư số và số tham chiếu vào Hệ

thống để tải chứng thư số. Tiếp đó, nhà thầu phải đăng ký thông tin người sử
dụng chứng thư số vào Hệ thống.
e. Đăng nhập vào Hệ thống
Sau khi được cấp chứng thư số, nhà thầu đăng nhập vào Hệ thống và thực hiện
các quyền của người sử dụng là nhà thầu.

4) Quy trình tìm kiếm trên trang chủ :

11


Ở phần đầu trang chủ, người dùng nhập từ khóa cần tìm, sau đó nhấn nút [Tìm
kiếm], hệ thống sẽ hiển thị kết quả tìm kiếm. Nội dung chi tiết sẽ được trình bày ở các
mục dưới đây.
a. Kế hoạch đấu thầu :
 Tiêu chỉ tìm kiếm: Tìm kiếm trên các trường thông tin sau: o Tên dự án o
Tên Chủ đầu tư o Cơ quan ban hành
 Giải trình nghiệp vụ: Người dùng nhập từ khóa “Kế hoạch”, và nhấn vào nút
[Tìm kiếm], sẽ cho kết quả như sau.

b. Thông báo mời sơ tuyển
 Tiêu chỉ tìm kiếm:
Tìm kiếm trên các trường thông tin sau
- Tên thông báo Mời sơ tuyển
- Tên Bên mời thầu
- Tên Chủ đầu tư
 Giải trình nghiệp vụ: Người dùng nhập từ khóa “sơ tuyển”, và nhấn vào nút
[Tìm kiếm], sẽ cho kết quả như sau.

12



c. Thông báo mời thầu
 Tiêu chỉ tìm kiếm:
Tìm kiếm trên các trường thông tin sau:
-

Tên gói thầu
Tên Bên mời thầu
Tên Chủ đầu tư
 Giải trình nghiệp vụ: Người dùng nhập từ khóa “mời thầu”, và nhấn vào nút
[Tìm kiếm], sẽ cho kết quả như sau.

d. Kết quả mở thầu
 Tiêu chỉ tìm kiếm: Tìm kiếm trên các trường thông tin sau:
- Tên thông báo Mời sơ tuyển
- Tên Bên mời thầu
- Tên Chủ đầu tư

13


 Giải trình nghiệp vụ: Người dùng nhập từ khóa “CN Tổng Công ty Điện lực
TP Hồ Chí Minh TNHH - Công ty Điện lực Tân Thuận” và nhấn nút [Tìm
kiếm], sẽ cho kết quả như sau

e. Kết quả đấu thầu
 Tiêu chỉ tìm kiếm: Tìm kiếm trên các trường thông tin sau:
- Tên thông báo Mời sơ tuyển
- Tên Bên mời thầu 6/8

- Tên Chủ đầu tư
 Giải trình nghiệp vụ: Người dùng nhập từ khóa “điện lực”, và nhấn vào nút
[Tìm kiếm], sẽ cho kết quả như sau.

14


2.3.
-

Lợi ích của hệ thống mua sắm công điện tử tại Việt Nam
Phòng chống tham nhũng
Do không bị giới hạn bởi không gian và thời gian, hệ thống đấu thầu điện tử (e-

GP) tạo ra luồng thông tin thông suốt và minh bạch cũng như khả năng tiếp cận thông
tin và dịch vụ một cách dễ dàng, thuận tiện. Những thông tin này bao gồm các quy
định về pháp luật, chính sách và hướng dẫn liên quan đến hoạt động mua sắm công và
các thông tin đấu thầu (như kế hoạch đấu thầu, thông báo mời thầu, kết quả đấu thầu,
kiến nghị trong đấu thầu…). Nhờ giảm được sự sai lệch về thông tin đấu thầu, e-GP
góp phần thúc đẩy cạnh tranh trên phương diện số lượng (sự tham gia) và chất lượng
(công khai và công bằng).
Một hệ thống đấu thầu điện tử có thể tự động hóa các quy trình đấu thầu bắt
buộc, do đó cả bên mời thầu và nhà thầu không thể làm chệch hướng được các quy
trình này như cách làm truyền thống. Ngoài ra, e-GP có thể xử lý quy trình đấu thầu
trực tuyến và thu thập mọi dữ liệu về hoạt động đấu thầu một cách tự động, do vậy sự
tiếp xúc trực tiếp giữa bên mời thầu và nhà thầu là không cần thiết. Theo đó, giúp
Chính phủ giảm thiểu cơ hội tham nhũng.
-

Tiết kiệm thời gian và chi phí

Tự động hóa các quy trình đấu thầu giúp giảm thiểu chi phí giao dịch cho cả bên

mời thầu và nhà thầu. Nhà thầu không cần phải đi lại để mua hồ sơ mời thầu và nộp hồ
sơ dự thầu, việc này không chỉ giúp nhà thầu tránh được những rủi ro khi đi mua hồ sơ,
mà còn tiết kiệm được thời gian và chi phí đi lại. Hơn nữa, chi phí giao dịch trong quá
trình tổ chức đấu thầu giảm đáng kể nhờ công nghệ internet rẻ hơn so với cách làm
truyền thống như in ấn, và giúp giảm bớt giấy tờ nói chung. Ngoài ra, khi tham gia vào
hệ thống, sau khi đăng tải thông báo mời thầu bên mời thầu có thể bán ngay hồ sơ mời
thầu mà không phải chờ một khoảng thời gian nhất định. Đây là quy định mới đang
được dự thảo và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
-

Đóng góp vào sự phát triển của thương mại điện tử
15


EPPS cũng góp phần phát triển thương mại điện tử và khuyến khích sự tham gia
của doanh nghiệp nhỏ và vừa, thúc đẩy ứng dụng công nghệ hiện đại và triển khai hạ
tầng công nghệ thông tin trên phạm vi toàn quốc.

2.4.

Hạn chế của hệ thống mua sắm công điện tử tại Việt Nam
Còn nhiều hạn chế về hạ tầng kỹ thuật, công nghệ thông tin, viễn thông.
Hiện nay, đa số các cơ quan Nhà nước sử dụng thư điện tử trong hoạt động chỉ

đạo, điều hành, tăng cường phương tiện điện tử thay cho giấy tờ. Nhiều cơ quan sử
dụng hệ thống quản lý văn bản và trao đổi văn bản trên môi trường mạng giúp tăng
năng suất lao động, tiết kiệm thời gian và chi phí. Theo Cục Ứng dụng công nghệ
thông tin, hiện nay tỷ lệ cán bộ ở các cơ quan cấp bộ, cơ quan ngang bộ được trang bị

máy tính là 88,5% (trên 80% máy tính kết nối Internet). Phần lớn các bộ và các tỉnh,
thành phố có trang, cổng thông tin điện tử riêng. Theo Bộ Thông tin và Truyền thông
(tại Báo cáo đánh giá Trang/Cổng thông tin điện tử và mức độ ứng dụng công nghệ
thông tin của các bộ, cơ quan ngang bộ và các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
năm 2011), hiện nay các trang/cổng thông tin điện tử của các bộ, cơ quan ngang bộ, ủy
ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đang ngày càng cung cấp đầy đủ
và kịp thời những thông tin chủ yếu theo quy định. Về cung cấp dịch vụ trực tuyến,
năm 2008 mới có 6 tỉnh, thành phố cung cấp khoảng 30 dịch vụ, đến năm 2011 đã có
38 tỉnh, thành phố cung cấp 829 dịch vụ mức độ 3, trong đó có 02 thành phố cung cấp
08 dịch vụ mức độ 4 (đánh giá theo 4 mức độ quy định tại Điều 3, Thông tư số
26/2009/TT-BTTTT ngày 31/7/2009 của Bộ Thông tin và Truyền thông quy định các
mức độ dịch vụ công trực tuyến của cơ quan hành chính nhà nước cung cấp cho tổ
chức, cá nhân trên môi trường mạng), số lượng hồ sơ tiếp nhận và xử lý qua dịch vụ
công trực tuyến đang ngày càng tăng, tuy nhiên số lượng người dân sử dụng các dịch
vụ công này còn chưa cao.
Việc phân cấp tổ chức đấu thầu bộc lộ rất nhiều vấn đề, trình độ, năng lực và
tính chuyên nghiệp ở các chủ đầu tư/bên mời thầu ở địa phương, nhất là ở cấp xã rất
hạn chế.
16


Mua sắm công chính là sử dụng các nguồn quỹ của nhà nước, nên chúng ta cần
phải lo lắng và đề phòng về nguy cơ tham nhũng cũng như lãng phí và việc lạm dụng
đấu thầu. Vì vậy, khi đã thực hiện mua sắm công cần phải thúc đẩy áp dụng nhiều quy
tắc hơn, ít khả năng tự quyết hơn, ít có thương lượng và cũng cần minh bạch hơn, đồng
thời cơ chế giám sát cũng phải chặt chẽ hơn.
Để có thể triển khai thành công hệ thống đấu thầu điện tử, chỉ bên mua (bên mời
thầu) và bên bán (nhà thầu) là chưa đủ, mà cần có tham gia phối hợp của nhiều bên có
liên quan, kể cả gián tiếp và trực tiếp.


CHƯƠNG III: NHẬN XÉT VÀ ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ HỆ THỐNG
MUA SẮM CÔNG ĐIỆN TỬ VIỆT NAM
3.1. Thành tựu
Ở Việt Nam, định hướng xây dựng hệ thống mua sắm công điện tử đã được xác
định. Hệ thống đấu thầu điện tử Việt Nam được xác định là một trong 8 chương trình
trọng tâm của Chính phủ điện tử và việc ứng dụng đấu thầu điện tử là một cố gắng
quan trọng của Việt Nam trong lĩnh vực mua sắm công.
Cụ thể, từ năm 2006 đến nay, Bộ KH&ĐT đã xây dựng và khuyến khích các chủ
đầu tư đăng tải công khai thông tin, chuyển tin trực tuyến qua trang web:
. Riêng trong năm 2008 đã có rất nhiều thông tin đấu thầu
được đăng tải và nhận được phản hồi tích cực từ các chủ đầu tư do tiết kiệm được
nhiều thời gian và chi phí. Tiếp tục thực hiện nhiệm vụ được giao, Bộ KH&ĐT đã triển
khai lập Báo cáo nghiên cứu khả thi dự án “Xây dựng hệ thống mua sắm chính phủ
điện tử thử nghiệm”. Nhiệm vụ chủ yếu của dự án là thiết lập hệ thống lõi của đấu thầu
qua mạng (e-bidding) và vận hành thử nghiệm. Thông qua đó, Bộ KH&ĐT và các cơ
17


quan tham gia thực hiện dự án có thể rút kinh nghiệm, đưa ra định hướng cho việc phát
triển hệ thống đấu thầu qua mạng toàn diện. Dự án hỗ trợ kỹ thuật này là tiền đề quan
trọng cho dự án “Ứng dụng thương mại điện tử trong mua sắm chính phủ”.
Năm 2009, Bộ KH & ĐT với sự trợ giúp của Chính phủ Hàn Quốc mà đại diện
là Cơ quan hợp tác Quốc tế Hàn Quốc (KOICA), đã tiến hành xây dựng Hệ thống đấu
thầu điện tử thử nghiệm tại địa chỉ . Tuy gặp rất nhiều
khó khăn về cơ sở hạ tầng nhưng với quyết tâm chính trị của chính phủ và Bộ
KH&ĐT cũng như các đơn vị tham gia thí điểm ( UBND TP Hà Nội, Tập đoàn Bưu
chính viễn thông Việt Nam, Tập đoàn dầu khí Việt Nam, UBND tình Bắc Ninh). Tính
đến cuối năm 2011, 3 cơ quan thí điểm này và các đơn vị khác trong cả nước đã thực
hiện thành công 55 gói thầu điện tử, 700 kế hoạch đấu thầu và hơn 20.000 thông báo
mời thầu. Hiện số lượng người dùng đăng ký sử dụng Hệ thống đã lên tới hơn 1.600

bên mời thầu và hơn 400 nhà thầu....
Từ năm 2010 đến nay, Bộ Kế hoạch và Tài chính Hàn Quốc đã và đang giúp Bộ
Kế hoạch và Đầu tư của Việt Nam về “Hệ thống thử nghiệm mua sắm chính phủ điện
tử Việt Nam”. Qua 2 năm triển khai hợp phần đầu tiên trong 4 hợp phần (Gồm: đấu
thầu qua mạng, mua sắm qua mạng, ký hợp đồng qua mạng và thanh toán qua mạng),
Cục Quản lý đấu thầu đã tổ chức đấu thầu thành công nhiều gói thầu qua mạng, tạo cơ
sở quan trọng ban đầu để mở rộng thí điểm và triển khai các nội dung tiếp theo. Tổng
giá trị thực hiện đấu thầu mua sắm công của Việt Nam trong năm 2010 lên tới 14,78 tỷ
USD, đã có trên 450 gói thầu với tổng trị giá trên 77 nghìn tỷ đồng đã áp dụng hình
thức đấu thầu quốc tế.
Tính đến 8/5/2012, trên hệ thống đã có 3469 bên mời thầu và 980 nhà thầu
đăng kí, đăng tải 1056 kế hoạch đấu thầu, 28193 gói thầu( gồm 18693 gói hàng hóa,
8765 gói xây lắp, 682 gói dịch vụ và 54 gói EPC) đã có 189 gói thầu được triển khai
đấu thầu qua mạng
Trên cơ sở dự án hợp tác với Hàn Quốc, sau khi triển khai xong hợp phần 1 và
chuyển sang giai đoạn 2, hàng hóa không thuộc diện mua sắm chính phủ cũng sẽ có
18


điều kiện phát triển hơn nữa. Nhiều hoạt động gần đây đã thể hiện quyết tâm, cố gắng
của Việt Nam để dần hiện thực hóa nội dung này
Ngày 22/5/2012, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 15/CT-TTg về việc
tăng cường sử dụng văn bản điện tử trong hoạt động của cơ quan nhà nước, theo đó
yêu cầu các cơ quan thực hiện chủ trương chuyển từ phương thức làm việc chủ yếu dựa
trên giấy tờ sang phương thức làm việc qua mạng với văn bản điện tử.
Ngày 27/7/2012, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 32/2012/QĐ-TTg
phê duyệt Quy hoạch phát triển viễn thông quốc gia đến năm 2020, trong đó có mục
tiêu “bảo đảm an toàn cơ sở hạ tầng viễn thông và an ninh thông tin cho các hoạt động
ứng dụng viễn thông, công nghệ thông tin, đặc biệt là trong việc thúc đẩy phát triển
chính phủ điện tử, thương mại điện tử”. Định hướng phát triển về mạng lưới cũng đề

cập tới kế hoạch “phát triển mạng viễn thông dùng riêng của các cơ quan, tổ chức trên
cơ sở tận dụng tối đa cơ sở hạ tầng của mạng viễn thông công cộng, đặc biệt là mạng
truyền dẫn trong nước của các doanh nghiệp viễn thông; tăng cường năng lực cho các
mạng viễn thông dùng riêng phục vụ cơ quan Đảng, Nhà nước, quốc phòng, an ninh”.
Đối với dự án hợp tác với Hàn Quốc về mua sắm công điện tử, hiện nay Bộ Kế
hoạch và đầu tư tiếp tục hợp tác để triển khai hợp phần 2. Bộ Xây dựng Việt Nam đang
phối hợp với Tổ chức Hợp tác quốc tế Nhật Bản - JICA xây dựng danh mục các nhà
thầu uy tín phục vụ cho đấu thầu trong nước và quốc tế. Từ 4 cơ quan (gồm: UBND
TP.Hà Nội, Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam, Tập đoàn Điện lực Việt Nam,
Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (sau đó thêm UBND tỉnh Bắc Ninh) được chọn làm thí
điểm trong hợp phần 1, mô hình sẽ được nhân rộng trong thời gian tới và mua sắm
công điện tử trực tuyến được xác định là một giải pháp tích cực để phòng ngừa tham
nhũng trong lĩnh vực mua sắm của Chính phủ.

3.2.

Thách thức:

19


Các kết quả hiện nay mới chỉ là bước đầu. Đối với Việt Nam, những khó khăn
và thách thức trong tiến trình đưa mua sắm công điện tử trở thành hiện thực còn nhiều
vấn đề phải đối mặt, đó là:
a) Còn nhiều hạn chế về hạ tầng kỹ thuật, công nghệ thông tin, viễn thông
Hiện nay, đa số các cơ quan Nhà nước sử dụng thư điện tử trong hoạt động chỉ
đạo, điều hành, tăng cường phương tiện điện tử thay cho giấy tờ. Nhiều cơ quan sử
dụng hệ thống quản lý văn bản và trao đổi văn bản trên môi trường mạng giúp tăng
năng suất lao động, tiết kiệm thời gian và chi phí. Theo Cục Ứng dụng công nghệ
thông tin, hiện nay tỷ lệ cán bộ ở các cơ quan cấp bộ, cơ quan ngang bộ được trang bị

máy tính là 88,5% (trên 80% máy tính kết nối Internet). Phần lớn các bộ và các tỉnh,
thành phố có trang, cổng thông tin điện tử riêng. Theo Bộ Thông tin và Truyền thông
(tại Báo cáo đánh giá Trang/Cổng thông tin điện tử và mức độ ứng dụng công nghệ
thông tin của các bộ, cơ quan ngang bộ và các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
năm 2011), hiện nay các trang/cổng thông tin điện tử của các bộ, cơ quan ngang bộ, ủy
ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đang ngày càng cung cấp đầy đủ
và kịp thời những thông tin chủ yếu theo quy định. Về cung cấp dịch vụ trực tuyến,
năm 2008 mới có 6 tỉnh, thành phố cung cấp khoảng 30 dịch vụ, đến năm 2011 đã có
38 tỉnh, thành phố cung cấp 829 dịch vụ mức độ 3, trong đó có 02 thành phố cung cấp
08 dịch vụ mức độ 4 (đánh giá theo 4 mức độ quy định tại Điều 3, Thông tư số
26/2009/TT-BTTTT ngày 31/7/2009 của Bộ Thông tin và Truyền thông quy định các
mức độ dịch vụ công trực tuyến của cơ quan hành chính nhà nước cung cấp cho tổ
chức, cá nhân trên môi trường mạng), số lượng hồ sơ tiếp nhận và xử lý qua dịch vụ
công trực tuyến đang ngày càng tăng, tuy nhiên số lượng người dân sử dụng các dịch
vụ công này còn chưa cao.
b) Còn nguy cơ về kém an toàn thông tin mạng
Theo Bộ Thông tin và truyền thông, đánh giá ngẫu nhiên 100 webstite tên miền
cơ quan nhà nước “gov.vn” của Hiệp hội An toàn thông tin hiện có tới 78% số website
20


có thể bị tấn công thay đổi nội dung hoặc có thể bị đánh sập bất cứ lúc nào; 54% đối
với các cơ quan nhà nước có hệ thống an toàn thông tin không có khả năng ghi nhận
các hành vi thử tấn công. Năm 2011, mới chỉ có khoảng 35% cơ quan, tổ chức xây
dựng và áp dụng chính sách an toàn thông tin và thực trạng các cổng, trang thông tin
điện tử của các cơ quan nhà nước còn tồn tại nhiều lỗ hổng, chưa áp dụng giải pháp
đảm bảo an toàn thông tin phù hợp.
c) Còn nhiều vấn đề trong xây dựng lòng tin giữa các bên
Sự tin cậy được xem là yếu tố quyết định nhất và cũng khó khăn nhất trong xúc
tiến thị trường đấu thầu mua sắm công. Qua mạng thông tin điện tử, việc xây dựng và

công bố công khai danh sách các nhà thầu cung cấp hàng hóa cũng như xây lắp có uy
tín với đầy đủ thông tin về tín dụng và các thông tin cơ bản liên quan sẽ giúp các chủ
đầu tư trong nước biết được năng lực thực sự của các nhà thầu, từ đó có thể tự tin lựa
chọn danh sách ngắn để đấu thầu. Đối với các nhà thầu quốc tế có liên danh với nhà
thầu trong nước, đây cũng là cánh cửa mở để họ biết được đâu là nhà thầu có năng lực,
đáng tin cậy để hợp tác. Đây là nội dung chúng ta làm chưa được nhiều.
Có thể nói, hạ tầng kỹ thuật mạng lưới thông tin, viễn thông của ta thời gian qua
tuy có nhiều nỗ lực song thành quả có được hiện nay còn rất khiêm tốn. Năm 2012,
theo đánh giá của Liên hợp quốc, Việt Nam đứng thứ hạng 83 trên thế giới về phát triển
Chính phủ điện tử. Mua sắm công điện tử trực tuyến mới đang ở những bước đi thí
điểm ban đầu.

3.3.

Đề xuất giải pháp
Để làm tốt những nội dung, yêu cầu của mua sắm công điện tử, trước mắt,

Chính phủ cần xây dựng một nền tảng hạ tầng kỹ thuật, công nghệ đủ mạnh để đảm
bảo tính an toàn, bảo mật của thông tin cũng như vận hành được hệ thống Chính phủ
điện tử một cách dễ dàng, tiện lợi. Hiện nay, hệ thống đấu thầu điện tử của ta vẫn chưa
thể kết nối, tương tác với các cơ quan bộ, ngành khác để triển khai các hoạt động như
thanh toán, bảo lãnh, đánh giá năng lực nhà thầu… khiến một số chức năng như kiểm
21


tra thông tin đăng ký, thanh toán qua mạng... chưa thể thực hiện trực tuyến. Thực trạng
này cho thấy, vấn đề lớn nhất của Chính phủ hiện nay là làm thế nào kết nối được các
bộ phận và điều phối để cho các bộ phận có thể tích hợp lại với nhau theo một quy
trình thống nhất. Cấu trúc cơ sở dữ liệu quốc gia là một trong những yếu tố được đánh
giá là cực kỳ quan trọng để xây dựng thành công hệ thống Chính phủ điện tử, để mua

sắm công trực tuyến có thể dựa vững chắc trên nền tảng quan trọng này. Đồng thời với
các nội dung trên, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về xu
hướng hiện đại, thay đổi nhận thức về đấu thầu điện tử, tuyên truyền về hiệu quả đấu
thầu qua mạng; cải thiện hạ tầng công nghệ, nâng cao dung lượng đường truyền; ban
hành những quy định cụ thể về đấu thầu qua mạng, đẩy mạnh việc đào tạo nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực...

Kết luận
Hiểu đúng nghĩa thì chính phủ điện tử là mơ ước của tất cả các quốc gia trên thế
giới.Vì vậy bất cứ nước nào dù là tư bản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa đều cần phải
xây dựng chính phủ điện tử.Bởi chính phủ điện tử không chỉ làm thay đổi bản chất chế
độ mà nước đó đang theo đuổi mà còn giúp cho nước đó nâng cao vị thế của mình.
Có nhiều cách để xây dựng chính phủ điện tử,mỗi nước có một chiến lược phát triển
chính phủ điện tử khác nhau,phù hợp với điều kiện cơ sở vật chất của nước đó.Một
nước nghèo như nước ta không thể áp dụng chiến lược chính phủ điện tử của
Mỹ,Australia, hay của Singapore.Nếu áp dụng dập khuôn sẽ dẫn tới thất bại vì nó
không phù hợp với hoàn cảnh kinh tế xã hội của nước ta.Vì vậy có xây dựng chính phủ
điện tử thành công hay không chủ yếu phụ thuộc vào việc đề ra một chiến lược hợp lý
và phải được chuẩn bị kỹ càng.
Tuy nhiên chúng ta cũng có thể nghiên cứu chiến lược chính phủ điện tử của các
nước này.Từ đó chúng ta có thể rút ra những bài học kinh nghiệm trong quá trình xây
dựng. Con đường mà các nước đã đi qua trong lộ trình triển khai chính phủ điện tử mất
một khoảng thời gian khá dài,hi vọng một nước đi sau như Việt nam sẽ không phải mất
22


nhiều thời gian như vậy.Muốn vậy Việt nam phải tự tìm ra những hướng đi thích hợp
trong ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông vào việc nâng cao hiệu quả và
hiệu lực của chính quyền các cấp, đồng thời từng bước cung cấp dịch vụ công cho
người dân qua internet nhằm tạo ra những điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất

kính doanh của các doanh nghiệp cũng như tiết kiệm thời gian và sức lực của người
dân trong quan hệ với chính phủ.
Chính phủ điện tử ở việt nam mới ở giai đoạn đầu, tức là giai đoạn ứng dụng
công nghệ thông tin sao cho bộ máy Chính phủ hoat động có hiệu quả hơn, cung cấp
các thông tin chính phủ phục vụ đời sống xã hội, tin học hóa quản lý hành chính nhà
nước.Vì vậy nhiệm vụ cấp bách hiện nay của Việt nam là phải thực hiện những bước đi
hợp lý, thực hiện các biện pháp cụ thể và hiệu quả để nhanh chóng chuyển sang giai
đoạn tiếp theo của chính phủ điện tử .Để thực hiện điều này cần phải xây dựng cơ sở hạ
tầng, đặc biệt là cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin và viễn thông,xây dựng và có kế
hoạch hợp lý chặt chẽ đề án chính phủ điện tử, loại bỏ những trở ngại tâm lý trong
chính phủ và tích cực tuyên truyền để nâng cao nhận thức của mọi tầng lớp dân chúng
về chính phủ điện tử. Hi vọng rằng trong thời gian sắp tới những người dân Việt nam
sẽ được hưởng những lơi ích to lớn mà chính phủ điện tử mang lại.

23



×