Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

Giải quyết tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền của Uỷ ban nhân dân huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (270.88 KB, 23 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
….…../………..

BỘ NỘI VỤ
……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

Y HƯNG NIÊ

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI
THUỘC THẨM QUYỀN CỦA UỶ BAN NHÂN DÂN
HUYỆN CƯ M’GAR, TỈNH ĐĂK LĂK
Chuyên ngành: luật hiến pháp và luật hành chính
Mã số: 60 38 01 02

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

Đắk Lắk - Năm 2017


Công trình được hoàn thành tại:
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

Người hướng dẫn khoa học:
TS. TRẦN THỊ DIỆU OANH

Phản biện 1:...................................................................................
...................................................................................


Phản biện 2:....................................................................................
........................................................................................

Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, Học
viện Hành chính Quốc gia
Địa điểm: Phòng họp ......................., Nhà ............ - Hội
trường bảo vệ luận văn thạc sĩ, Học viện Hành chính Quốc gia.
Số: ...… - Đường……......……… - Quận……....………
- TP .................................................................................................
Thời gian: vào hồi …… giờ …… tháng …… năm 201...
Có thể tìm hiểu luận văn tại Thư viện Học viện Hành chính
Quốc gia hoặc trên trang Web của Khoa Sau đại học,
Học viện Hành chính


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá, là tư liệu
sản xuất đặc biệt là thành phần quan trọng của môi trường sống, là
địa bàn phân bổ các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá,
xã hội, an ninh quốc phòng của mỗi quốc gia. Đất đai đóng vai trò
quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của nhân loại. Nhiều nước
trên thế giới đã giành sự quan tâm đặc biệt đến vấn đề đất đai, đã xây
dựng chủ trương, đường lối, chính sách pháp luật về đất đai được
điều chỉnh cho phù hợp với sự phát triển kinh tế- xã hội của thế giới.
Vì vậy quản lý nhà nước bằng pháp luật về đất đai ngày càng
hoàn thiện, đã đạt được những tiến bộ rõ rệt, hệ thống quản lý nhà
nước về đất đai được tăng cường, từng bước phân cấp và phát huy
tính tự chủ của địa phương. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được,
tình hình quản lý và sử dụng đất đai hiện nay đang có những hạn chế.

Vấn đề quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chưa có tính chiến lược lâu
dài và ổn định hoặc thiếu tính khả thi; cơ chế quản lý về đất đai thiếu
hiệu quả; cơ quan quản lý đất đai các cấp nhìn chung còn nhiều yếu
kém. Chính vì thế tình trạng tranh chấp, khiếu nại về quản lý và sử
dụng đất đai có xu hướng diễn biến phức tạp. Việc giải quyết tranh
chấp, khiếu nại còn chưa kịp thời, thiếu hiệu quả. Những yếu kém
trong công tác quản lý và sử dụng đất nói chung cũng như những yếu
kém trong giải quyết tranh chấp, khiếu nại về đất đai nói riêng có
nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân rất quan trọng từ sự
hạn chế, bất cập của chính sách, pháp luật đất đai và việc áp dụng
pháp luật trong giải quyết tranh chấp về đất đai của các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền.

1


Hệ thống các văn bản pháp luật đất đai ngày càng được sửa
đổi, bổ sung và hoàn thiện, trong đó quy định việc giải quyết tranh
chấp đất đai thuộc thẩm quyền của ủy ban nhân dân (UBND) (các
Điều 21, 22 Luật Đất đai năm 1987; Điều 38 của Luật Đất đai năm
1993; Điều 136 Luật Đất đai năm 2003, Điều 203 - 209 luật đất đai
năm 2013). Tuy nhiên, các quy định về thẩm quyền giải quyết tranh
chấp đất đai mới chỉ dừng lại ở mức độ chung chung, nên trên thực
tế dẫn đến sự chồng chéo, đùn đẩy giữa UBND với Tòa án. Tranh
chấp đất đai là một hiện tượng bình thường trong mọi đời sống xã
hội, không phụ thuộc vào một chế độ sở hữu nào đất đai.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề đất đai, quản lý nhà nước về đất đai luôn là mối quan
tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học, nhà quản lý, các sinh viên
thí sinh của các trường đại học, vì vậy những năm gần đây đã có

nhiều công trình khoa học được công bố liên quan đến lĩnh vực đất
đai, được nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau
Các công trình đó đã luận chứng cơ chế điều chỉnh pháp luật
đất đai dưới góc độ lý luận chung về nhà nước và pháp luật hoặc để
phản ánh, phân tích, làm rõ về thực trạng áp dụng pháp luật trong
giải quyết tranh chấp, khiếu kiện về quyền sử dụng đất của hệ thống
cơ quan nhà nước. Những công trình khoa học như đã nêu ở trên là
những tư liệu sống động, có giá trị tham khảo tốt trong quá trình đầu
tư nghiên cứu thực hiện hoàn thiện luận văn này.
Những vấn đề đã được nghiên cứu nêu trên cũng cho thấy
chưa có đề tài nào đi sâu nghiên cứu để làm sáng tỏ về giải quyết
tranh chấp về đất đai của Ủy ban nhân dân huyện Cư M’gar, Tỉnh
Đắk Lắk.

2


3. Mục đích và nhiệm vụ của Luận văn
- Mục đích luận văn: Góp phần làm rõ cơ sở lý luận về giải
quyết tranh chấp đất đai và đánh giá thực trạng giải quyết tranh chấp
về đất đai của Uỷ ban nhân dân huyện Cư M’gar. Từ đó đề xuất các
giải pháp cơ bản nhằm bảo đảm giải quyết tranh chấp về đất đai của
Uỷ ban nhân dân huyện Cư M’gar hiện nay.
- Nhiệm vụ luận văn: Để thực hiện mục đích trên, luận văn có
nhiệm vụ:
+ Làm rõ cơ sở lý luận giải quyết tranh chấp về đất đai.
+ Đánh giá thực trạng, chỉ ra những kết quả đạt được và những
hạn chế, yếu kém, tồn tại và nguyên nhân trong giải quyết tranh chấp
về đất đai của Uỷ ban nhân dân huyện Cư M’gar từ 2012- 2016.
+ Đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm bảo đảm giải quyết tranh

chấp về đất đai của Uỷ ban nhân dân huyện Cư M’gar hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu cuả Luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: giải quyết tranh chấp đất đai thuộc
thẩm quyền của Ủy ban nhân dân huyện.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian: giải quyết tranh chấp về đất đai trên địa bàn
huyện Cư M’gar thuộc thẩm quyền của Uỷ ban nhân dân huyện Cư
M’gar
+ Về thời gian: Từ năm 2012 đến năm 2016.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của
Luận văn
- Phương pháp luận: Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở
lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước
và pháp luật. Các quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt
Nam về pháp chế và xây dựng nhà nước pháp quyền của nhân dân,

3


do nhân dân và vì nhân dân, nhất là quan điểm chỉ đạo của Đảng về
chính sách quản lý nhà nước về đất đai và giải quyết tranh chấp về
đất đai. Đồng thời luận văn còn dựa trên những vấn đề lý luận chung
về áp dụng pháp luật xã hội chủ nghĩa.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương
pháp của triết học duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, trong đó chú
trọng các phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp lịch sử và
các phương pháp của các bộ môn khoa học khác như so sánh, thống
kê, trao đổi với chuyên gia….,.
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Luận văn có ý nghĩa góp phần làm phong phú thêm lý luận

giải quyết tranh chấp về đất đai . Đồng thời luận văn cũng có thể
dùng làm tài liệu tham khảo cho hoạt động nghiên cứu hay phục vụ
cho công tác giảng dạy ở các trường như: Trung cấp chính trị; quản
lý nhà nước của huyện tổ chức. Đây cũng là tài liệu có giá trị nâng
cao lý luận và nghiệp vụ đối với cán bộ làm công tác thực tiễn.
7. Kết cấu cuả luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, kết cấu
luận văn gồm 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận về giải quyết tranh chấp đất đai
thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp huyện.
Chương 2: Thực trạng giải quyết tranh chấp đất đai thuộc
thẩm quyền của Ủy ban nhân dân huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk
Chương 3: Quan điểm, giải pháp bảo đảm giải quyết tranh
chấp đất đai thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân huyện Cư
M’gar, tỉnh Đắk Lắk.

4


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI
THUỘC THẨM QUYỀN CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP
HUYỆN
1.1. Khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc giải quyết tranh chấp đất đai
1.1.1. Khái niệm giải quyết tranh chấp đất đai
Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu
sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi
trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các cơ
sở kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng. Mặt khác, về mặt
thuật ngữ khoa học có thể hiểu theo nghĩa rộng như sau: “Đất đai

là một diện tích cụ thể của bề mặt trái đất, bao gồm tất cả các cấu
thành của môi trường sinh thái ngay trên và dưới bề mặt đó như:
khí hậu bề mặt, thổ nhưỡng, dạng địa hình, mặt nước (ao hồ, sông
suối, đầm lầy...), các lớp trầm tích sát bề mặt cùng với nước ngầm
và khoáng sản trong lòng đất, tập đoàn thực vật và động vật, trạng
thái định cư của con người, những kết quả hoạt động của con
người trong quá khứ và hiện tại để lại (san nền, hồ chứa nước hay
hệ thống tiêu thoát nước, đường xá, nhà cửa...)”.
1.1.2. Đặc điểm của giải quyết tranh chấp đất đai
Giải quyết tranh chấp đất đai có những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, giải quyết tranh chấp đất đai là hoạt động mang tính
quyền lực nhà nước. Đó là hoạt động xem xét, giải quyết do người có
thẩm quyền (chủ tịch Uỷ ban nhân dân, thủ trưởng cơ quan tài
nguyên và môi trường các cấp…) thực hiện. Quyết định giải quyết
tranh chấp đất đai là quyết định hành chính (bằng văn bản) khi có
hiệu lực pháp luật buộc các chủ thể có liên quan phải nghiêm chỉnh
thực hiện. Thứ hai: Giải quyết tranh chấp đất đai phải tuân theo

5


những hình thức, thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định, phải công
khai, dân chủ.
Thứ ba: Giải quyết tranh chấp đất đai là hoạt động áp dụng
pháp luật, do đó nó mang tính cá biệt, cụ thể. Việc giải quyết tranh
chấp đất đai được thực hiện và có hiệu lực đối với từng chủ thể, từng
tình huống cụ thể và chỉ có giá trị pháp lý đối với chủ thể xác định
được nêu trong văn bản áp dụng, nó không làm phát sinh các quyền
và nghĩa vụ pháp lý đối với các chủ thể khác.
1.1.3. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp đất đai

1.1.3.1. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa
Khi thực hiện giải quyết tranh chấp đất đai phải chú ý và
tuân thủ các nguyên tắc, trình tự, thủ tục thẩm quyền mà nhà nước
đã quy định. Phát hiện và giải quyết kịp thời các hành vi vi phạm
pháp luật về đất đai, tránh tình trạng để tranh chấp đất đai kéo dài,
làm ảnh hưởng tâm lý và lợi ích của người dân.
1.1.3.2. Nguyên tắc đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà
nước thống nhất quản lý
Điều 53 Hiến pháp 2013 khẳng định: “Đất đai, tài nguyên
nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài
nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý
là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở
hữu và thống nhất quản lý” [53,Tr 11]. Cụ thể hóa Hiến pháp năm
2013, Luật Đất đai năm 2013 đã quy định tại Điều 4, “Đất đai thuộc
sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản
lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy
định của Luật này” [4, Tr 4].

6


1.1.3.3. Nguyên tắc bảo đảm lợi ích của chủ thể sử dụng đất
Luật Đất đai năm 2013 ra đời với việc thừa nhận tám quyền
năng của người sử dụng đất (Quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho
thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử
dụng đất) đã khẳng định tư tưởng đổi mới trong quá trình nhà nước
điều hành các mối quan hệ về đất đai,
1.1.3.4. Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai
tự hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hòa giải ở
cơ sở

Điều 202, Luật Đất đai năm 2013 đã quy định việc hòa giải
tranh chấp đất đai; Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất
đai tự hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hòa giải
ở cơ sở. Tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp không hòa giải
được thì gửi đơn đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp
để hòa giải. Tôn trọng quyền định đoạt của các chủ thể khi tham gia
các quan hệ pháp luật đất đai là tôn trọng quyền tự do thỏa thuận,
thương lượng của họ trên cơ sở các quy định của pháp luật, vì vậy
hòa giải trở thành cách thức và cũng là nguyên tắc giải quyết tranh
chấp đất đai quan trọng và đạt hiệu quả cao.
1. 2. Thẩm quyền và trình tự, thủ tục của Ủy ban nhân dân cấp
huyện về giải quyết tranh chấp đất đai
1.2.1. Vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Uỷ ban
nhân dân cấp huyện
Điều 8 Luật tổ chức chính quyền địa phương số:
77/2015/QH13, ngày 19 tháng 06 năm 2015 quy định vị trí, chức
năng của Ủy ban nhân dân huyện.

7


Điều 28. Luật tổ chức chính quyền địa phương số:
77/2015/QH13, ngày 19 tháng 06 năm 2015 quy định về nhiệm vụ,
quyền hạn của Ủy ban nhân dân huyện.
1.2.2. Thẩm quyền của Uỷ ban nhân dân cấp huyện về giải
quyết tranh chấp đất đai
Điều 202, Điều 203 Luật Đất đai năm 2013 quy định hòa
giải tranh chấp đất đai và thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai
1.2.3. Trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai của
Uỷ ban nhân dân huyện

Thông thường các hoạt động trong xã hội cần phải tuân theo
một trình tự, thủ tục nhất định. Trình tự, thủ tục của một hoạt động
được hình thành trên cơ sở đặc điểm, yêu cầu của hoạt động đó,
nhằm hướng tới bảo đảm cho hoạt động đó tuân theo một trật tự nhất
định và đạt được mục đích đề ra.
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến giải quyết tranh chấp đất đai
thuộc thẩm quyền của UBND cấp huyện
1.3.1. Ban hành văn bản về quản lý đất đai
Thực trạng công tác quản lý Nhà nước về đất đai ở nước ta
còn nhiều yếu kém và thiếu chặt chẽ, nhiều vướng mắc còn tồn đọng
khá dai dẳng và không giải quyết được đã gây cản trở lớn cho công
tác giải phóng mặt bằng thu hồi đất.
1.3.2. Năng lực giải quyết tranh chấp đất đai và công tác
phối kết hợp giữa các ban ngành đoàn thể
Trong tổ chức thực hiện pháp luật về giải quyết tranh chấp,
khiếu nại, tố cáo, nhiều địa phương chưa làm tốt việc tiếp dân, nhận
đơn, chưa hướng dẫn cụ thể theo pháp luật về việc nộp đơn để tình
trạng người đi khiếu kiện đi hết nơi này đến nơi khác, một nội dung

8


đơn mà gửi đi rất nhiều cơ quan. Khi phát sinh khiếu kiện, đã không
tập trung chỉ đạo giải quyết kịp thời, thậm chí né tránh, đùn đẩy.
1.3.3. Mức độ giám sát của cơ quan dân cử và toàn xã hội
đối với hoạt động giải quyết tranh chấp đất đai
Hoạt động giải quyết tranh chấp đất đai là hoạt động khó khăn,
phức tạp, do vậy cần phải huy động sự tham gia của cả hệ thống
chính trị và toàn xã hội. Thực tiễn cũng cho thấy, nơi nào và ở đâu
phát huy được vai trò giám sát của các cơ quan dân cử và của xã hội

đối với hoạt động giải quyết tranh chấp đất đai thì ở đó hoạt động
giải quyết tranh chấp đất đai được thực hiện đúng quy định của pháp
luật, đạt hiệu quả tốt, góp phần bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền,
lợi ích hợp pháp của nhân dân.
1.3.4. Mức độ công khai, dân chủ trong giải quyết tranh chấp về
đất đai
Giải quyết tranh chấp đất đai đòi hòi phải được tiến hành một
cách công khai, dân chủ. Mức độ công khai càng cao thì tính khách
quan trong giải quyết tranh chấp đất đai càng cao. Pháp luật hiện
hành yêu cầu phải công khai từ thẩm quyền giải quyết cho đến việc
công khai trình tự, thủ tục giải quyết … điều này sẽ góp phần nâng cao
hiệu lực, hiệu quả giải quyết tranh chấp đất đai.
1.3.5. Ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ và nhân dân
Một số cán bộ vì lợi ích kinh tế, tranh thủ trong thời gian đương chức
đã cố tình vi phạm chính sách pháp luật đất đai để trục lợi. Việc áp
dụng pháp luật của Uỷ ban nhân dân các cấp còn có tình trạng tuỳ
tiện, nhất là ở cấp huyện và cấp xã. Rất nhiều điểm đổi mới của Luật
Đất đai năm 2013 vẫn chưa đưa được vào thực tế vì cán bộ quản lý ở
nhiều nơi chưa biết, vẫn quyết định theo quy định của pháp luật
trước đây.

9


Chương 2
THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI
THUỘC THẨM QUYỀN CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN HUYỆN
CƯ M’GAR, TỈNH ĐẮK LẮK
2.1 Một số yếu tố ảnh hưởng đến giải quyết giải quyết tranh chấp
đất đai thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân huyện Cư M’

gar, tỉnh Đắk Lắk
2.1.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội
Huyện Cư M’gar được thành lập ngày 23/01/1984 theo Nghị
định số 15-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng, tách ra từ huyện Ea Sup,
với tổng diện tích tự nhiên là :82,443 ha, huyện nằm ở phía bắc tỉnh
Đắk Lắk, Huyện Cư M’gar cách Thanh Phố Buôn Ama Thuột 15 km,
Giao thông đường bộ, đều phát triển mạnh, rất thuận lợi cho việc xây
dựng và phát triển kinh tế xã hội của Cư M’gar. có vị trí quan trọng;
giàu tiềm năng lợi thế để phát triển kinh tế xã hội, Đặc điểm địa hình
bằng phẳng, có hệ thống suối trải đều khắp địa bàn và với hơn 70%
diện tích là đất đỏ bazan, thích hợp cho việc sản xuất các loại cây
công nghiệp có giá trị kinh tế cao theo hướng sản xuất hàng hóa, tập
trung chuyên canh. Khi mới thành lập toàn huyện có 41.176 người,
gồm 3 dân tộc anh em sinh sống ở 8 xã.
2.1.2. Khái quát về Ủy ban nhân dân huyện Cư M’gar, tỉnh
Đắk Lắk
2.1.3. Công tác quản lý, sử dụng đất đai tại huyện Cư M’
gar, tỉnh Đắk Lắk
Tình hình quản lý đất đai trước khi ban hành Luật Đất đai
1993: sau Cách mạng tháng Tám 1945, nhà nước công bố đất đai ở
nước ta là của toàn dân. Ngày 19/12/1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký

10


sắc lệnh ban hành Luật cải cách ruộng đất nhằm thủ tiêu quyền
chiếm hữu ruộng đất của thực dân Pháp và đế quốc xâm lược khác ở
Việt Nam. Xoá bỏ chế độ phong kiến chiếm hữu ruộng đất của giai
cấp địa chủ.
2.1.4. Tranh chấp đất đai và nguyên nhân xảy ra tranh

chấp đất đai tại huyện Cư M’ gar, tỉnh Đắk Lắk
Nội dung tranh chấp về đất đai chủ yếu tập trung vào các vấn
đề sau:
Thứ nhất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, giải phóng mặt bằng:
Số đơn tranh chấp về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, giải phóng mặt
bằng, giải quyết việc làm chiếm số lượng rất lớn trong tranh chấp về
đất đai (khoảng 60%). Tranh chấp về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư,
giải phóng mặt bằng thường gay gắt, công dân tụ tập đông người,
xảy ra tập trung ở những nơi thu hồi diện tích đất lớn để bố trí phát
triển các dự án. Thứ hai, đòi lại đất cũ: Đòi lại đất trước đây đưa vào
Hợp tác xã nông nghiệp hay Tập đoàn sản xuất nông nghiệp, đã giao
khoán cho các hộ khác sử dụng, khi Hợp tác xã nông nghiệp hay Tập
đoàn sản xuất nông nghiệp tan rã có tình trạng ruộng đất của ai,
người đó lấy lại sử dụng, nhưng một bộ phận nông dân không lấy lại
được ruộng đất vì người khác đang sử dụng hoặc chính quyền đã sử
dụng vào mục đích khác. Thứ ba, tranh chấp liên quan đến giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất và các nội dung khác: thường tập
trung như cấp giấy không đúng vị trí, diện tích; cấp không đúng chủ
sử dụng đất; trình tự, thủ tục cấp giấy chứng nhận; thu hồi giấy
chứng nhận đã cấp; gia hạn sử dụng đất...v.v
2.2. Tình hình giải quyết tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền
của Ủy ban nhân dân huyện Cư M’ gar, tỉnh Đắk Lắk

11


2.2.1. Tình hình tiếp công dân đến Uỷ ban nhân dân
huyện yêu cầu giải quyết tranh chấp đai
2.2.2. Trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai thuộc
thẩm quyền Ủy ban nhân dân huyện Cư M’ gar, tỉnh Đắk Lắk

Căn cứ điều 89 của Nghị định 43/2013/NĐ-CP, UBND huyện
thực hiện các bước như sau:
2.3 Đánh giá chung về giải quyết tranh chấp đất đai thuộc thẩm
quyền của Ủy ban nhân dân huyện Cư M’ gar, tỉnh Đắk Lắk
2.3.1. Kết quả
Theo báo cáo 5 năm của UBND huyện Cư M’gar năm 2016
đánh giá chung “công tác tiếp dân và giải quyết đơn thư tranh chấp,
khiếu nại của công dân có nhiều tiến bộ, đã hạn chế bớt được tình
trạng đơn thư vượt cấp, tồn đọng, kéo dài; giải quyết đơn thư thuộc
thẩm quyền bình quân hàng năm đạt 85.9%”.
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân
Một là, giải quyết một số vụ tranh chấp, khiếu nại về đất đai
cần phải có sự kiểm tra, điều tra, nghiên cứu kết luận và thi hành kết
luận, do đó cần phải có đội ngũ cán bộ những người am hiểu, biết về
pháp luật, có nghiệp vụ chuyên sâu và chuyên trách về công việc giải
quyết tranh chấp đất đai, nhưng hiện nay, hầu hết cán bộ giải quyết
tranh chấp đất đai đa số là kiêm nhiệm; tranh chấp, khiếu nại về đất
đai chủ yếu là nảy sinh ở cấp xã, huyện nhưng cơ quan có thẩm
quyền thụ lý giải quyết ở cấp này lại không tương ứng. chủ tịch
UBND các cấp là người đứng đầu chủ trì, chịu trách nhiệm chính
trong việc giải quyết tranh chấp, khiếu nại nhưng phải giải quyết rất
nhiều công việc khác của địa phương nên rất khó có điều kiện
chuyên giải quyết đất đai. Đây cũng là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến
tình trạng giải quyết tranh chấp, khiếu nại chậm, thiếu dứt điểm, chất
lượng thấp, dẫn đến việc khiếu kiện lại, khiếu kiện vượt cấp.

12


Chương 3

QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP ĐẤT ĐAI THUỘC THẨM QUYỀN CỦA UBND HUYỆN
CƯ M’GAR, TỈNH ĐẮK LẮK
3.1. Quan điểm bảo đảm giải quyết tranh chấp đất đai thuộc
thẩm quyền của Ủy ban nhân dân huyện Cư M’ gar, tỉnh Đắk
Lắk
3.1.1. Bảo đảm trật tự xã hội, phục vụ quá trình phát triển
kinh tế - xã hội của huyện Cư M’ gar, tỉnh Đắk Lắk
Sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội hiện nay đòi hỏi nhiều yếu
tố tổng hợp, trong đó môi trường ổn định về an ninh, trật tự có vị trí,
vai trò đặc biệt quan trọng. Một quốc gia, một địa phương có môi
trường an ninh, trật tự ổn định sẽ là yếu tố thuận lợi để thu hút các
nguồn lực trong nước, ngoài nước đầu tư thực hiện các dự án, phục
vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội. Ngược lại, môi trường an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội không ổn định hoặc tiềm ẩn những
nguy cơ mất ổn định thì sẽ rất khó khăn trong việc huy động các
nguồn lực để phát triển kinh tế, xã hội.
Tranh chấp đất đai khi người dân thấy quyền và nghĩa vụ của
các bên chưa được bảo đảm, vì vậy giải quyết tranh chấp đất đai thể
hiện tính dân chủ của một chế độ chính trị. Mặt khác, tranh chấp đất
đai còn là một hiện tượng xã hội, phản ánh sự bất đồng của công dân,
tổ chức đối với các quyết định hành chính, hành vi hành chính, hay
nói cách khác là hoạt động quản lý nhà nước. Nguyên nhân chủ yếu
phát sinh khiếu nại là do công dân, tổ chức cho rằng các quyết định
hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước,
cán bộ, công chức khi thi hành công vụ trái pháp luật, xâm phạm đến
quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Thực tiễn cho thấy công tác quản lý

13



nhà nước có nhiều hạn chế, yếu kém chắc chắn khó tránh khỏi việc
xâm hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, từ đó phát sinh
khiếu nại hành chính như là một hệ quả tất yếu.
3.1.2. Bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân
trong lĩnh vực đất đai
Đảng và Nhà nước ta đang nỗ lực thực hiện mục tiêu xây dựng
Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân. Mục đích hướng tới của Nhà nước pháp
quyền là bảo đảm quyền con người, quyền công dân không bị xâm
phạm bởi tệ lạm dụng quyền lực của các cơ quan nhà nước, cán bộ,
công chức trong các cơ quan nhà nước; tất cả các quyền tự do, dân
chủ, quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân được bảo đảm, bảo vệ.
3.1.3. Xử lý mối quan hệ hài hòa về lợi ích của các bên trong
quan hệ đất đai và trong quá trình giải quyết tranh chấp về đất đai
thông qua hệ thống các quy phạm pháp luật
Để bảo đảm quyền và nghĩa vụ của công dân trong lĩnh vực
đất đai của công dân không chỉ đơn thuần là việc ghi nhận quyền đó
trong các văn bản quy phạm pháp luật mà quan trọng hơn đó là sự
bảo đảm bằng nhiều biện pháp hữu hiệu để giải quyết kịp thời, có
hiệu quả tranh chấp về đất đai của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Muốn
vậy, một mặt đòi hỏi nhà nước phải xây dựng, ban hành được một hệ
thống các văn bản quy phạm pháp luật về đất đai, về giải quyết tranh
chấp, khiếu nại về đất đai đồng bộ, đầy đủ, khoa học và khả thi; một
mặt yêu cầu các chủ thể pháp luật, bao gồm cả các cơ quan nhà nước
phải triệt để tuân thủ pháp luật, chấp hành nghiêm chỉnh những quy
định của pháp luật về giải quyết tranh chấp, khiếu nại đất đai.

14



3.2. Giải pháp bảo đảm giải quyết tranh chấp đất đai thuộc thẩm
quyền của Ủy ban nhân dân huyện Cư M’ gar, tỉnh Đắk Lắk
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai
Hệ thống pháp luật về đất đai là những văn bản quy phạm pháp luật
do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và là công cụ pháp
lý chủ yếu để nhà nước điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến
lĩnh vực đất đai. Như vậy, hệ thống pháp luật đất đai có vai trò hết
sức to lớn, là công cụ quan trọng nhất trong quản lý nhà nước đối với
đất đai. Hệ thống pháp luật đất đai có hoàn chỉnh, đồng bộ, thống
nhất thì mới nâng cao được hiệu quả của cơ chế quản lý hành chính
về đất đai. Một điều không thể phủ nhận là thời gian qua, hệ thống
pháp luật về đất đai đã đạt được nhiều tiến bộ, có tác dụng rất lớn
trong việc thể chế hoá các chủ trương, nghị quyết của Đảng về chính
sách đất đai thành những quy tắc xử sự thông qua hành vi pháp luật.
Đồng thời, kịp thời điều chỉnh nhiều quan hệ mới nảy sinh trong xã
hội. Song, thực tiễn cũng cho thấy rằng hệ thống pháp luật đất đai
còn nhiều tồn tại, bất cập, là nguyên nhân cơ bản làm cho quá trình
quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với đất đai (đặc biệt là hoạt
động áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp về đất đai) còn
nhiều hạn chế, kém hiệu quả và nhiều vấn đề bức xúc, chưa đáp ứng
yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước.
3.2.2. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giải
quyết tranh chấp đất đai
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đề cao trách nhiệm, của cá
nhân cán bộ, công chức với công tác giải quyết tranh chấp về đất đai
là một yêu cầu quan trọng trong giai đoạn hiện nay, đặc biệt là trong
điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ


15


nghĩa. Đảng lãnh đạo bằng việc đề ra chủ trương, đường lối cụ thể
trên tất cả các lĩnh vực trong đó có lĩnh vực tranh chấp đất đai, giải
quyết tranh chấp đất đai. Đồng thời, Đảng thường xuyên theo dõi,
kiểm tra, hướng dẫn, chỉ đạo các tổ chức Đảng, các tổ chức cơ sở
Đảng trong việc chấp hành đường lối, chủ trương đối với cơ quan
hành chính nhà nước; khuyến khích những mặt tốt, tích cực; xử lý,
uốn nắn kịp thời những lệch lạc, những vi phạm trong lĩnh vực đất
đai nói chung và lĩnh vực tranh chấp đất đai nói riêng. Ngoài ra,
Đảng còn lãnh đạo bằng vai trò tiên phong, gương mẫu của các Đảng
viên trong việc chấp hành pháp luật về đất đai, trình tự, thủ tục giải
quyết tranh chấp về đất đai.
Như vậy, Đảng lãnh đạo toàn diện nhưng không áp đặt, không
bao biện, làm thay chức năng của các cơ quan hành chính Nhà nước;
đồng thời không coi nhẹ, buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng với tất cả
các cơ quan nhà nước ở các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa
phương. Sự lãnh đạo của Đảng là lãnh đạo chính trị, mang tính định
hướng cho các cơ quan nhà nước có thể hoạt động độc lập và đạt
hiệu quả cao trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của mình, thông qua
các hoạt động của các cơ quan nhà nước mà các chủ trương, đường
lối của Đảng được thực hiện trong toàn xã hội. Với tư cách là người,
tổ chức Đảng không được trực tiếp nắm quyền lực nhà nước, mà
“Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua các cá nhân Đảng viên, được
Đảng giới thiệu, được nhân dân bầu hoặc bổ nhiệm vào các chức vụ
trong cơ quan quyền lực nhà nước. Đây là một bộ phận của Đảng, có
vị trí pháp luật ở ngay trong cơ cấu quyền lực nhà nước, được quyền
trực tiếp sử dụng công cụ của bộ máy nhà nước, chính bộ phận này
và thông qua Đảng mới có thể chi phối, điều khiển trực tiếp quyền

lực nhà nước một cách hợp pháp. Qua đó, quyền lực chính trị của

16


Đảng và quyền lực Nhà nước mới thống nhất, mới tiêu biểu cho ý chí
và nguyện vọng của nhân dân”.
Đối với tỉnh Uỷ tỉnh Đắk Lắk đã có văn bản chỉ đạo, lãnh đạo
đối với công tác giải quyết tranh chấp đất đai, trên địa bàn tỉnh Đắk
Lắk. Thời gian vừa qua, cấp uỷ Đảng, chính quyền có lúc, có nơi còn
coi nhẹ công tác giải quyết tranh chấp của người sử dụng đất, chưa
huy động được vai trò của các tổ chức trong hệ thống chính trị, chưa
phát hiện giải quyết kịp thời các tranh chấp, kiến nghị liên quan đến
đất đai, có nơi có biểu hiện đùn đẩy trách nhiệm, thiếu thống nhất,
chỉ tập trung, chú trọng vào vấn đề phát triển kinh tế của địa phương,
chưa quan tâm đầy đủ đến vấn đề xã hội phát sinh từ vấn đề thu hồi
đất như: tái định cư, đời sống, việc làm, nghề nghiệp…., từ tình hình
trên, để thực hiện đúng các chính sách, quy định của pháp luật về đất
đai và giải quyết phù hợp với chính sách pháp luật các tranh chấp, tranh
chấp về đất đai thì tỉnh Ủy đã có văn bản chỉ đạo UBND tỉnh ra quyết
định, Chỉ thị về việc giải quyết tranh chấp đất đai. Các quyết định giải
quyết đã có hiệu lực pháp luật nhưng chậm được thi hành là những
nguyên nhân làm cho công tác giải quyết tranh chấp của người sử dụng
đất chưa đạt hiệu quả như mong muốn.
3.2.3. Công tác phối hợp giữa các cơ quan trong hệ thống
chính trị của huyện Cư M’gar về giải quyết tranh chấp đất đai
Hệ thống chính trị huyện Cư M’gar là tổng thể các cơ quan
Đảng, cơ quan quyền lực, cơ quan hành chính nhà nước và các tổ
chức chính trị xã hội trên địa bàn Huyện. Các cơ quan này có mối
quan hệ mật thiết với nhau, nếu Huyện ủy, Đảng ủy cơ quan chính

quyền, chi bộ lãnh đạo bằng Nghị quyết, HĐND, UBMTTQVN
Huyện giám sát, phản biện hoạt động quản lý đối với UBND Huyện
về các lĩnh vực trong đời sống xã hội, trong đó có giải quyết tranh

17


chấp đất đai giữa hộ gia đình, cá nhân thì quá trình giải quyết tranh
chấp đất đai đạt hiệu quả cao, đúng quy định, người tranh chấp
không khiếu nại tiếp.
Hội nông dân, Ban dân vận và các bàn ngành đoàn thể trong
công tác tiếp dân và giải quyết tranh chấp đất đai, làm tốt vai trò đại
diện quyền, lợi ích hợp pháp của nhân dân, kiến nghị các cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét, giải quyết khi có tranh chấp.
Giải thích, thuyết phục công dân chấp hành các quyết định giải quyết
khiếu nại và kết luận, quyết định xử lý đã được xác định là đúng
chính sách, pháp luật. Đẩy mạnh công tác hòa giải, đối thoại, vận
động, thuyết phục công dân chấm dứt khiếu nại, tranh chấp đất đai
không đúng, giảm thiểu các tranh chấp, khiếu nại từ cơ sở.
3.2.4. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo
dục pháp luật về đất đai đối với nhân dân trên địa bàn huyện Cư
M’gar
Để tăng cường hiệu quả áp dụng pháp luật trong giải quyết
tranh chấp về đất đai đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân ở nước ta hiện nay
thì yêu cầu đặt ra là phải làm thế nào cho mọi người đều hiểu rõ
những quy định của pháp luật nói chung, các quy định của pháp luật
đất đai, pháp luật tranh chấp, khiếu nại….. nói riêng. Muốn vậy
chúng ta phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật nói chung, pháp luật đất đai, khiếu nại nói riêng cho cán bộ

và nhân dân để đảm bảo tính thống nhất trong nhận thức và thực hiện
pháp luật. Hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật
nhằm mục đích nâng cao hiểu biết về pháp luật, ý thức pháp luật và
văn hoá pháp lý cho cán bộ làm công tác quản lý nhà nước nói riêng
và mọi tầng lớp nhân dân nói chung, xây dựng được ý thức chấp

18


hành pháp luật của mọi người dân và của toàn xã hội. Trong những
năm vừa qua, việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về đất
đai đã thu hút được nhiều tổ chức, cá nhân tham gia.
3.2.5. Công tác xây dựng lực lượng cán bộ, công chức có
trình độ, năng lực giải quyết tranh chấp đất đai
Thực tế cho thấy, công tác xây dựng, tổ chức thực hiện các
văn bản pháp luật đất đai thường bị chậm trễ; kế hoạch xây dựng, tổ
chức triển khai không thực hiện được; chưa phản ánh đúng yêu cầu
của thực tiễn, giải quyết tranh chấp không thấu tình, đạt lý điều này
có nguyên nhân từ sự yếu kém của đội ngũ cán bộ, công chức làm
công tác quản lý đất đai và áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh
chấp về đất đai. Vì vậy, việc nâng cao trình độ, năng lực, phẩm chất
cho đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác quản lý đất đai và cán
bộ, công chức làm công tác áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp
về đất đai là hết sức cần thiết và cấp bách trong giai đoạn hiện nay.
Để nâng cao trình độ, năng lực, phẩm chất cho đội ngũ cán bộ, công
chức này cần chú ý một cách toàn diện các yếu tố khác nhau như tổ
chức, nhân sự, cơ chế, điều kiện vật chất kỹ thuật...; có sự đổi mới
mạnh mẽ trong công tác tổ chức và cán bộ; tạo mọi điều kiện vật
chất cần thiết cho hoạt động áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp
về đất đai.


19


KẾT LUẬN
Đất đai là nguồn tài nguyên thiên nhiên, tài sản vô cùng quý
giá, không thể thay thế được đối với tất cả các quốc gia ở mọi chế độ
chính trị. Đất đai có vị trí và tầm quan trọng vô cùng lớn lao trong
đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội của mọi quốc gia, dân
tộc. Nhận thức rất rõ vị trí, tầm quan trọng của đất đai nên qua mỗi
thời kỳ, mỗi giai đoạn phát triển của đất nước, Đảng và Nhà nước ta
đều có những chủ trương, chính sách nhằm quản lý và sử dụng một
cách hiệu quả tài nguyên đất đai, phục vụ một cách tốt nhất cho sự
nghiệp phát triển kinh tế- xã hội đất nước. Để phát huy được vai trò
của đất đai trong đời sống thì chúng ta phải tăng cường quản lý nhà
nước bằng pháp luật đối với đất đai mà một trong những nội dung
quan trọng của nội dung quản lý nhà nước đối với đất đai là hoạt
động áp dụng pháp luật giải quyết các tranh chấp, khiếu nại về đất
đai. Do vậy, áp dụng pháp luật giải quyết tốt các tranh chấp về đất
đai góp phần quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả quản lý nhà
nước về đất đai. Áp dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp
luật nhưng là hình thức có tính chất đặc thù. Tính đặc thù của áp
dụng pháp luật thể hiện ở chỗ là nhà nước thông qua các cơ quan nhà
nước hoặc nhà chức trách có thẩm quyền tổ chức cho các chủ thể
pháp luật thực hiện những quy định của pháp luật, hoặc tự mình căn
cứ vào các quy định của pháp luật để ra các quyết định làm phát
sinh, thay đổi, đình chỉ hay chấm dứt một quan hệ pháp luật cụ thể.
Điều này cho thấy áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính cá biệt
của cơ quan nhà nước nói chung và của cơ quan hành chính nhà
nước nói riêng, mà biểu hiện rõ nhất là các chủ thể pháp luật khi

thực hiện các quy định của pháp luật luôn có sự can thiệp của nhà

20


nước hay nhà chức trách có thẩm quyền, đảm bảo cho các quy phạm
pháp luật được thực hiện triệt để, hiệu lực và hiệu quả khi tác động
vào các quan hệ của đời sống xã hội. Trên cơ sở đó, áp dụng pháp
luật trong giải quyết tranh chấp về đất đai của Uỷ ban nhân dân cấp
huyện là việc người có chức trách thẩm quyền của Uỷ ban nhân dân
cấp huyện bằng quyền hạn của mình, căn cứ vào quy định của pháp
luật ban hành một quyết định hành chính giải quyết các tranh chấp
về đất đai nhằm để xác định tính chất đúng, sai của nội dung tranh
chấp, yêu cầu giữ nguyên, sửa đổi hoặc huỷ bỏ một phần hay toàn bộ
quyết định hành chính, chấm dứt hành vi hành chính bị tranh chấp;
buộc bồi thường thiệt hại (nếu có); khẳng định người tranh chấp có
quyền tranh chấp tiếp, quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án
hay không; khôi phục uy tín, danh dự đã bị xâm hại, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của người tranh chấp. Trong những năm qua, nhất
là từ khi có Luật đất đai năm 2013 đến nay, việc áp dụng pháp luật
trong giải quyết tranh chấp về đất đai của các cơ quan hành chính
nhà nước nói chung và của Uỷ ban nhân dân cấp huyện nói riêng đã
có nhiều chuyển biến tích cực và dần đi vào nền nếp, giải quyết được
một số lượng lớn các vụ việc, chất lượng giải quyết được nâng lên,
nhiều “điểm nóng”, nhiều vụ việc phức tạp, gay gắt, kéo dài đã được
giải quyết dứt điểm, quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng
đất đã được khôi phục góp phần làm ổn định tình hình an ninh chính
trị, trật tự an toàn xã hội, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội trong
những năm qua. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp hoạt động áp
dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp về đất đai còn bộc lộ

nhiều hạn chế, yếu kém.

21



×