Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Đăng ký Kết hôn có yếu tố nước ngoài từ thực tiễn tỉnh Lâm Đồng (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (727.91 KB, 101 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
........../...........

BỘ NỘI VỤ
..../.....

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN THỊ THU HÕA

ĐĂNG KÝ KẾT HÔN CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI TỪ THỰC TIỄN TỈNH LÂM ĐỒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

ĐẮK LẮK - NĂM 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
........../...........

BỘ NỘI VỤ
..../.....

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN THỊ THU HÕA

ĐĂNG KÝ KẾT HÔN CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI TỪ THỰC TIỄN TỈNH LÂM ĐỒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ


LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Mã số: 60 38 01 02

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. LÊ THỊ HƢƠNG

ĐẮK LẮK - NĂM 2017


LỜI CAM ĐOAN
Học viên xin cam đoan:
Nội dung trình bày trong Luận văn này là công trình nghiên cứu thực sự
của cá nhân, đƣợc thực hiện trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết, kiến thức và
tham khảo các đề tài đã có, nghiên cứu khảo sát tình hình thực tiễn và dƣới sự
hƣớng dẫn khoa học của PGS.TS Lê Thị Hƣơng.
Các thông tin, tài liệu có đƣợc trong luận văn xuất phát từ kết quả của
quá trình nghiên cứu, tham khảo từ thực tiễn; các thông tin trích dẫn trong
Luận văn đều đƣợc ghi rõ nguồn gốc. Luận văn không sao chép bất cứ một
Luận văn nào đã có trƣớc đây.
Học viên xin cam đoan rằng công trình này là do tôi thực hiện và chƣa
đƣợc công bố lần nào. Tôi xin chịu trách nhiệm hoàn toàn về nội dung và lời
cam đoan này.
Đắk Lắk, ngày 15 tháng 3 năm 2017
Ngƣời cam đoan

Nguyễn Thị Thu Hòa


LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành và lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm ơn
sâu sắc tới các thầy, cô giáo của Trƣờng Học viện Hành chính Quốc gia đã

tận tình giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu để hoàn thành Luận
văn.
Cũng bày tỏ lòng biết ơn tới Lãnh đạo và đồng nghiệp Sở Tƣ pháp tỉnh
Lâm Đồng đã tạo điều kiện và cung cấp các số liệu để phục vụ cho Luận văn
của tôi.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Lê Thị Hƣơng
đã dành nhiều thời gian tâm huyết, chỉ bảo, hƣớng dẫn tận tình và tạo điều
kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình thực hiện nghiên cứu đề tài và hoàn
chỉnh Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn Trung tâm tƣ vấn và hỗ trợ hôn
nhân và gia đình có yếu tố nƣớc ngoài, Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh Lâm Đồng,
Phòng Tƣ pháp các huyện, thành phố trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng và bạn bè
đã giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong thời gian vừa qua.
Xin chân thành cảm ơn!
Đắk Lắk, ngày 15 tháng 3 năm 2017
Ngƣời viết

Nguyễn Thị Thu Hòa


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
MỞ ĐẦU……………………………………....................................... 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ ĐĂNG KÝ KẾT HÔN
CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI...........................................................................7
1.1. Quan niệm về kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài....................................7

1.1.1. Khái niệm kết hôn …………………………………………………….7
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm kết hôn có yếu tố nước ngoài ……..........9
1.1.3. Điều kiện kết hôn có yếu tố nước ngoài ……………………….13
1.2. Quan niệm về đăng ký kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài …………...26
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm đăng ký kết hôn có yếu tố nước
ngoài…………………………………………………………………………………..26
1.2.2. Nguyên tắc đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài ……..…….. ..28
1.2.3. Thẩm quyền đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài …………….30
1.2.4. Thủ tục đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài…………………...34
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG ĐĂNG KÝ KẾT HÔN CÓ YẾU TỐ NƢỚC
NGOÀI TẠI TỈNH LÂM ĐỒNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ĐĂNG
KÝ KẾT HÔN CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM..……………..42
2.1. Thực trạng đăng ký kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài tại tỉnh Lâm
Đồng ………………………………………………………….......................42


2.1.1. Kết quả giải quyết đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài từ năm
2011 đến nay tại tỉnh Lâm Đồng ………………………………………………....42
2.1.2. Nhận xét về thực trạng đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài tại
tỉnh Lâm Đồng.................................................................................................46
2.2. Các giải pháp bảo đảm đăng ký kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài ở
Việt Nam.........................................................................................................71
2.2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về hôn nhân có yếu tố nước
ngoài................................................................................................................71
2.2.2. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật
về đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài……………………………..………….74
2.2.3. Nâng cao năng lực, ý thức trách nhiệm của đội ngũ công chức tư
pháp, hộ tịch …………………………………….... ………………………………..76
2.2.4. Tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa các ngành, các cấp liên
quan.................................................................................................................79

2.2.5. Tăng cường vai trò, trách nhiệm của các đoàn thể, các tổ chức
xã hội đối với đoàn viên, hội viên…………………………………………………79
2.2.6. Cải thiện hoạt động của trung tâm hỗ trợ kết hôn tại Việt
Nam.................................................................................................................80
2.2.7. Tăng cường thanh tra, kiểm tra hoạt động đăng ký kết hôn có yếu
tố nước ngoài...................................................................................................83
2.2.8. Giải pháp riêng đối với tỉnh Lâm Đồng......................................85
KẾT LUẬN...........................................................................................89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………..................90


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Mỗi một con ngƣời sống trong xã hội đều có một nhu cầu riêng. Một
trong những nhu cầu không thể thiếu của con ngƣời đó là nhu cầu về giao lƣu
tình cảm. Quyền đƣợc mƣu cầu hạnh phúc, trong đó có hạnh phúc lứa đôi là
quyền tự nhiên của mỗi cá nhân đƣợc pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Trong
bản Tuyên ngôn độc lập ngày 02 tháng 9 năm 1945 khai sinh ra nƣớc Việt
Nam dân chủ cộng hòa, Hồ Chí Minh đã viện dẫn Bản tuyên ngôn độc lập
năm 1776 của nƣớc Mỹ để khẳng định một sự thật hiển nhiên: "Tất cả mọi
người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai
có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự
do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Đây không chỉ là quyền tự nhiên mà còn là
quyền gắn liền với nhân thân của mỗi con ngƣời hay nói cách khác đó chính
là quyền con ngƣời. Lịch sử loài ngƣời đã trải qua các chế độ Nhà nƣớc khác
nhau (Cộng sản nguyên thủy; chiếm hữu nô lệ; phong kiến; tƣ bản chủ nghĩa
và xã hội xã hội chủ nghĩa) nhƣng mục đích cốt lõi nhất của hôn nhân là tạo
dựng một gia đình hạnh phúc. Mặc dù, pháp luật của mỗi chế độ nhà nƣớc tuy
có khác nhau nhƣng mục đích cuối cùng mà mỗi nhà nƣớc đều hƣớng tới mục
tiêu hết sức nhân văn đó là ghi nhận và bảo đảm bằng pháp luật quyền tự do

kết hôn cho mỗi cá nhân.
Với xu hƣớng hội nhập quốc tế một cách sâu rộng, Việt Nam đang
khẳng định vị trí của mình trên trƣờng quốc tế. Thời gian qua, hiện tƣợng kết
hôn có yếu tố nƣớc ngoài ngày càng phát triển. Việc đăng ký kết hôn giữa
công dân Việt Nam với ngƣời nƣớc ngoài, với ngƣời Việt Nam định cƣ ở
nƣớc ngoài ngày càng phổ biến và gia tăng về số lƣợng. Việc nhà nƣớc ta ghi
nhận và bảo vệ kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài có ý nghĩa quan trọng trong việc

1


bảo vệ quyền con ngƣời và lợi ích của nam, nữ; tạo cơ sở pháp lý cho việc
quản lý của cơ quan nhà nƣớc và có ý nghĩa hội nhập.
Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2014 thì: Hôn nhân giữa công dân Việt Nam thuộc các dân tộc, các tôn
giáo, giữa ngƣời theo tôn giáo và ngƣời không theo tôn giáo, giữa công dân
Việt Nam với ngƣời nƣớc ngoài đƣợc tôn trọng và đƣợc pháp luật bảo vệ;
Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ, một chồng, vợ chồng
bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau. Việc đăng ký kết hôn là cơ sở để xác lập quan
hệ hôn nhân và gia đình. Là cơ sở để làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa vợ
chồng với nhau.
Để thực hiện các quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình và
nhằm đảm bảo quyền của con ngƣời trong đó có quyền kết hôn, các cơ quan
nhà nƣớc có thẩm quyền tại tỉnh Lâm Đồng cũng nhƣ các địa phƣơng khác
trên cả nƣớc đã tiến hành đăng ký kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài cho hàng trăm
trƣờng hợp. Số lƣợng các trƣờng hợp đăng ký kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài
ngày càng tăng lên đặc biệt trong những năm gần đây. Mặc dù, Nhà nƣớc ta
đã kịp thời ban hành các văn bản pháp luật để điều chỉnh việc đăng ký kết hôn
có yếu tố nƣớc ngoài để đáp ứng đƣợc nhu cầu phát triển của xã hội và tạo
điều kiện cho mọi công dân thực hiện quyền tự do kết hôn của mình. Tuy

nhiên, trong quá trình giải quyết thủ tục hành chính việc đăng ký kết hôn có
yếu tố nƣớc ngoài tại tỉnh Lâm Đồng còn gặp một số khó khăn, vƣớng mắc.
Vì vậy, đề tài “Đăng ký Kết hôn có yếu tố nước ngoài - từ thực tiễn tỉnh Lâm
Đồng” đƣợc tác giả lựa chọn làm luận văn tốt nghiệp chuyên ngành Luật
Hiến pháp và luật Hành chính.
2. Tình hình nghiên cứu
Hiện nay, vấn đề về kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài đã đƣợc nhiều nhà
nghiên cứu quan tâm, nhiều sách báo, tạp chí, bài tham luận viết về vấn đề
2


này nhƣ: Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài những vấn đề lý
luận và thực tiễn của tác giả Nông Quốc Bình và Nguyễn Hồng Bắc; Hỏi đáp
pháp luật về hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam và văn bản
mới hướng dẫn thi hành của tác giả Hoàng Anh...Giải pháp nào để tránh việc
lợi dụng trong đăng ký kết hôn với người nước ngoài hiện nay của Nguyễn
Văn Thắng; Bài học kinh nghiệm từ một số cuộc hôn nhân thất bại của tác giả
các cô dâu Việt lấy chồng Đài Loan và Hàn Quốc của tác giả Vũ Thị Thanh
Nhàn; Đăng ký kết hôn, nhận cha, mẹ, con có yếu tố nƣớc ngoài: Luật thoáng
- Thực tế vƣớng! của tác giả Hoà Trang; Giải pháp để tránh rủi ro khi việc kết
hôn với ngƣời nƣớc ngoài gia tăng của Hoàng Huy Trƣờng; Hoàn thiện pháp
luật về quan hệ kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài của tác giả Trần Văn Duy; Kết
hôn giả tạo và hƣớng xử lý trong giai đoạn chuyển tiếp giữa luật hôn nhân và
gia đình năm 2000 với luật hôn nhân và gia đình năm 2014 của tác giả Huỳnh
Thị Trúc Giang; Môi giới hôn nhân trái phép và vấn đề bất cân xứng thông tin
trong hôn nhân xuyên quốc gia Đài Loan và Việt Nam của Dƣơng Hiền Hạnh;
Những điểm mới của pháp luật Việt Nam điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia
đình có yếu tố nƣớc ngoài của tác giả Nguyễn Hồng Bắc; Quản lý vấn đề hôn
nhân xuyên biên giới ở Việt Nam hiện nay: Chính sách và thực tiễn của các
tác giả Nguyễn Hữu Minh, Đặng Thị Hoa và Trần Thị Hồng; Thấy gì qua

những phụ nữ Việt Nam lấy chồng nƣớc ngoài trở về của tác giả Nguyễn Lê
Trang; Thực trạng việc làm và mối quan hệ với hôn nhân ở khu vực biên giới
của Trần Thị Hồng; Một số vấn đề xã hội của hiện tƣợng phụ nữ nông thôn
Việt Nam lấy chồng nƣớc ngoài của tác giả Nguyễn Thị Thanh Tâm…
Bên cạnh đó, một số luận văn thạc sỹ quan tâm nhƣ:
- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về kết hôn giữa công dân Việt
Nam với người nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam trong xu thế

3


hội nhập”, Nguyễn Cao Hiến, Khoa Luật Trƣờng Đại học Quốc gia Hà Nội,
2011;
- Pháp luật điều chỉnh quan hệ gia đình có yếu tố nước ngoài ở Việt
nam trong thời kì đổi mới và hội nhập của Nguyễn Hồng Bắc, Trƣờng Đại
học Luật Hà Nội, 2003;
- Pháp luật Việt Nam về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài của Lê
Thị Hoàng Thanh, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2013…
Tuy nhiên, chƣa có đề tài nào nghiên cứu vấn đề “Đăng ký kết hôn có
yếu tố nƣớc ngoài, từ thực tiễn tỉnh Lâm Đồng” nhất là từ khi Luật Hộ tịch
năm 2014 có hiệu lực thi hành; để từ đó tìm ra tồn tại, nguyên nhân và giải
pháp để thực hiện tốt hơn việc đăng ký kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài trên địa
bàn tỉnh cũng nhƣ các địa phƣơng khác trên cả nƣớc. Do vậy, đề tài của luận
văn này là hoàn toàn không có sự trùng lắp về mặt nội dung so với các đề tài
trƣớc đây.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích: Từ việc hệ thống hóa cơ sở lý luận và pháp lý về đăng ký
kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài cũng nhƣ thực trạng đăng ký kết hôn có yếu tố
nƣớc ngoài tại tỉnh Lâm Đồng, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm thực
hiện tốt hơn vấn đề kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài tại các địa phƣơng khác trên

cả nƣớc trong thời gian tới.
- Nhiệm vụ: Để đạt đƣợc mục đích nghiên cứu trên, luận văn cần phải
giải quyết những nhiệm vụ cụ thể sau:
+ Làm rõ cơ sở lý luận và pháp lý về đăng ký kết hôn có yếu tố nƣớc
ngoài trên cơ sở là một quyền của con ngƣời nhƣ khái niệm, đặc điểm,
nguyên tắc, điều kiện, thẩm quyền... đăng ký kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài.

4


+ Phân tích thực trạng đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam với
ngƣời nƣớc ngoài tại tỉnh Lâm Đồng, nêu lên một số hạn chế, bất cập và
nguyên nhân.
+ Đề xuất một số giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện tốt hơn việc đăng
ký kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: đăng ký kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài.
- Phạm vi nghiên cứu: đăng ký kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài tại tỉnh
Lâm Đồng từ năm 2011 đến nay.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
- Phương pháp luận: Lấy lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng
Hồ Chí Minh cũng nhƣ quan điểm của Đảng và pháp luật của Nhà nƣớc Việt
Nam về quyền kết hôn nói chung và kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài nói riêng.
- Phương pháp nghiên cứu: Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp những
tài liệu, phƣơng pháp trích dẫn, phƣơng pháp thống kê…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Với tính cách là một trong những công trình khoa học thuộc chuyên
ngành luật Hiến pháp - Hành chính nghiên cứu một cách có hệ thống các vấn
đề về cơ sở lý luận và thực tiễn về kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài, kết quả
nghiên cứu của đề tài sẽ mang lại những đóng góp nhƣ sau:

Một là, góp phần hệ thống và toàn diện cơ sở lý luận và pháp lý về
đăng ký kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài.
Hai là, qua khảo cứu tình hình đăng ký kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài
tại tỉnh Lâm Đồng, luận văn đã chỉ ra những bất cập trong các quy định của
pháp luật về hôn nhân có yếu tố nƣớc ngoài cần phải hoàn thiện, những
vƣớng mắc trong việc thực thi pháp luật cần phải khắc phục và xác định rõ
nguyên nhân của thực trạng đó.
5


Ba là, kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là nguồn tƣ liệu mang tính lý
luận và thực tiễn sâu sắc để các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền có thể tham
khảo, góp phần hoàn thiện một số quy định của pháp luật có liên quan đến
đăng ký kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài. Đồng thời, những kết quả nghiên cứu
của luận văn có thể đƣợc dùng làm tƣ liệu học tập, tài liệu tham khảo, nghiên
cứu tại các cơ sở đào tạo luật hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân quan tâm trong
quản lý nhà nƣớc về hôn nhân có yếu tố nƣớc ngoài.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
đƣợc kết cấu 02 chƣơng:
Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lý về đăng ký kết hôn có yếu tố nước
ngoài.
Chương 2: Thực trạng đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài tại tỉnh
Lâm Đồng và các giải pháp bảo đảm đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài ở
Việt Nam.

6


Chƣơng 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ ĐĂNG KÝ KẾT HÔN
CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI
1.1. Quan niệm về kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài
1.1.1. Khái niệm kết hôn
Kết hôn là một quyền tự nhiên của con ngƣời đƣợc Nhà nƣớc ghi nhận
bằng các văn bản quy phạm pháp luật và đƣợc Nhà nƣớc bảo vệ. Kết hôn giữa
nam và nữ là cơ sở để tạo dựng gia đình, góp phần duy trì và thúc đẩy xã hội
phát triển.
Mỗi cá nhân đều có quyền tự do kết hôn. Từ khi xã hội loài ngƣời có
nhà nƣớc, để quản lý xã hội thì mỗi nhà nƣớc đều có pháp luật để điều chỉnh
các hành vi của các cá nhân trong xã hội. Các cá nhân khi thực hiện quyền tự
do kết hôn cũng phải đặt trong khuôn khổ của pháp luật. Mỗi cá nhân trong
khi thực hiện quyền kết hôn của bản thân mình thì phải tôn trọng quyền của
ngƣời khác, không vì thực hiện quyền kết hôn của mình mà ảnh hƣởng tới
quyền của ngƣời khác. Ngƣời thực hiện việc kết hôn không chỉ bảo vệ lợi ích
của bản thân mình mà còn phải tôn trọng lợi ích của ngƣời khác. Vì vậy, bản
thân ngƣời kết hôn khi kết hôn phải tuân thủ các quy định của pháp luật về kết
hôn. Trên cơ sở căn cứ vào các quy định của pháp luật, ngƣời kết hôn biết
mình đƣợc phép và không đƣợc phép làm gì khi kết hôn. Ví dụ nhƣ nam, nữ
muốn kết hôn thì trên cơ sở căn cứ vào các văn bản pháp luật, họ biết rằng
mình đã đủ tuổi kết hôn hay chƣa hoặc nếu muốn kết hôn thì ngoài điều kiện
về tuổi kết hôn thì mình còn phải đáp ứng các điều kiện nào khác nữa nhƣ
điều kiện về sự tự nguyện, phải có năng lực hành vi dân sự... Đồng thời, các
cơ quan quản lý nhà nƣớc có thẩm quyền cũng căn cứ vào các văn bản pháp
luật để có các quyết định để công nhận, bảo vệ quyền kết hôn của cá nhân.
Ngoài ra, các cơ quan Nhà nƣớc cũng có các biện pháp xử lý các hành vi vi
7


phạm pháp luật về kết hôn của nam, nữ hoặc của các cá nhân khác nếu vi

phạm pháp luật về kết hôn nhƣ tảo hôn, kết hôn giả tạo, kết hôn với ngƣời
đang có vợ hoặc chồng, môi giới hôn nhân, ép ngƣời khác kết hôn theo ý của
mình… Nhƣ vậy, các văn bản pháp luật của Nhà nƣớc quy định về kết hôn đã
tạo ra chuẩn mực pháp lý để các chủ thể điều chỉnh cho hành vi ứng xử của
mình khi tham gia vào quan hệ này.
Theo Từ điển Tiếng Việt - Nhà xuất bản Đà Nẵng: Kết hôn là chính
thức lấy nhau làm vợ chồng [36, tr.639].
Theo Từ điển Luật học của Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tƣ pháp:
Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng khi thỏa
mãn các điều kiện kết hôn và thực hiện đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm
quyền theo quy định của pháp luật.
Kết hôn là sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ hôn nhân. Khi kết
hôn, các bên nam nữ phải tuân thủ đầy đủ các điều kiện kết hôn đƣợc Luật
Hôn nhân và gia đình quy định và phải đăng ký việc kết hôn tại cơ quan đăng
ký kết hôn theo quy định của pháp luật thì việc kết hôn đó mới đƣợc công
nhận là hợp pháp và giữa các bên nam nữ mới phát sinh quan hệ vợ chồng
trƣớc pháp luật [42, tr.410].
Theo Từ điển bách khoa Việt Nam tập 2 của Nhà xuất bản từ điển Bách
khoa:
Kết hôn là sự kết hợp hai ngƣời khác giới để lập gia đình,
sinh đẻ con cái, thực hiện chức năng sinh học và các chức năng khác của gia
đình.
Ở Việt Nam, theo tập tục truyền thống, thƣờng có ba lễ chính: lễ dạm,
lễ hỏi và lễ cƣới. Ngày nay, có bốn lễ thức cơ bản: dạm ngõ, lễ hỏi, lễ trao
nhận giấy chứng nhận kết hôn (đây là một nghi lễ bắt buộc thực hiện) và lễ

8


cƣới. Tùy hoàn cảnh từng địa phƣơng vận dụng thực hiện, theo quy ƣớc về

việc cƣới “trang trọng - lành mạnh - tiết kiệm”.
Vì kết hôn là một sự kiện xã hội nên đƣợc luật tục (dƣới xã hội nguyên
thủy) và luật pháp (đối với các xã hội đã có văn tự và có nhà nƣớc) quy định
rất chặt chẽ. Ai vi phạm sẽ bị xử lí nghiêm khắc. Theo Luật hôn nhân và gia
đình 1986 của Việt Nam, nam từ 20 tuổi, nữ từ 18 tuổi trở lên mới đƣợc kết
hôn. Việc kết hôn do nam nữ tự nguyện quyết định, dựa trên cơ sở tình yêu và
phải đƣợc Ủy ban nhân dân (xã, phƣờng, thị trấn) nơi thƣờng trú của một
trong 2 ngƣời kết hôn công nhận và ghi vào sổ kết hôn theo nghi thức do nhà
nƣớc quy định. Việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với nhau ở nƣớc ngoài
do cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam công nhận. Mọi nghi thức kết
hôn khác đều không có giá trị pháp lí. Việc kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài
đƣợc Nhà nƣớc Việt Nam quy định trong Pháp lệnh “hôn nhân và gia đình
giữa công dân Việt Nam với ngƣời nƣớc ngoài” ban hành ngày 2.12.1993
(gồm 4 chƣơng, 24 điều) [17, tr.476].
Theo quy định tại khoản 5 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
thì “Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy
định của Luật này về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn”.
Từ những phân tích trên đây, có thể hiểu: Kết hôn là việc hai người
nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định về điều kiện kết
hôn và đăng ký kết hôn tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và của hai người
khác giới tính.
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm kết hôn có yếu tố nước ngoài
1.1.2.1. Khái niệm kết hôn có yếu tố nước ngoài
Theo quy định tại Khoản 25 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm
2014 quy định: “Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài là quan
hệ hôn nhân và gia đình mà ít nhất một bên tham gia là người nước ngoài,
9


người Việt Nam định cư ở nước ngoài; quan hệ hôn nhân và gia đình giữa

các bên tham gia là công dân Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi,
chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài
hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài”.
Kết hôn là cơ sở để xác lập quan hệ hôn nhân. Để xác định yếu tố nƣớc
ngoài trong quan hệ kết hôn cần dựa vào dấu hiệu xác định yếu tố nƣớc ngoài
trong quan hệ hôn nhân. Theo đó, kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài là việc nam
và nữ xác lập quan hệ vợ chồng thuộc một trong các trƣờng hợp sau:
- Kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài
Trong trƣờng hợp này, kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài đƣợc
xác định qua dấu hiệu quốc tịch của chủ thể - một bên nam, nữ là ngƣời nƣớc
ngoài. Quốc tịch là mối liên hệ, ràng buộc pháp lý giữa công dân và nhà nƣớc.
Quan hệ này có tính bền vững, ổn định. Trong mối quan hệ này nhà nƣớc có
quyền và nghĩa vụ đối với công dân và ngƣợc lại công dân cũng có quyền và
nghĩa vụ đối với nhà nƣớc. [40, tr.6].
Theo Khoản 1 Điều 3 Luật xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh cƣ trú của
ngƣời nƣớc ngoài tại Việt Nam 2014 thì: "Người nước ngoài là người mang
giấy tờ xác định quốc tịch nước ngoài và người không quốc tịch nhập cảnh,
xuất cảnh, quá cảnh, cư trú tại Việt Nam". Nhƣ vậy có thể hiểu Ngƣời nƣớc
ngoài là ngƣời không có quốc tịch Việt Nam, bao gồm ngƣời có quốc tịch
ngƣời nƣớc ngoài và ngƣời không quốc tịch. Theo quy định tại Khoản 1,
Khoản 2 Điều 3 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 thì:
Quốc tịch nƣớc ngoài là quốc tịch của một nƣớc khác không
phải là quốc tịch Việt Nam.
Người không quốc tịch là ngƣời không có quốc tịch Việt Nam và cũng
không có quốc tịch nƣớc ngoài [32, Điều 3].

10


- Kết hôn giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam.

Ngƣời nƣớc ngoài đang cƣ trú, sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam. Họ đăng ký
kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam thì quan hệ kết hôn của họ là
quan hệ kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài.
- Kết hôn giữa công dân Việt Nam cư trú ở trong nước với công dân
Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Trƣờng hợp này, hai bên nam và nữ đều là công dân Việt Nam nhƣng
việc kết hôn của họ vẫn đƣợc coi là có yếu tố nƣớc ngoài. Dấu hiệu để xác
định yếu tố nƣớc ngoài trong quan hệ kết hôn là nơi cƣ trú. Khoản 3 Điều 3
Luật Quốc tịch quy định: “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài là công dân
Việt Nam và ngƣời gốc Việt Nam cƣ trú, sinh sống lâu dài ở nƣớc ngoài”.
- Kết hôn giữa công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài với nhau.
Trong trƣờng hợp này, việc kết hôn xảy ra tại nƣớc ngoài, theo pháp luật nƣớc
ngoài làm phát sinh quan hệ vợ chồng giữa hai công dân Việt Nam với nhau.
- Kết hôn giữa công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài
với công dân Việt Nam hoặc với người nước ngoài.
Với chính sách ngƣời Việt Nam đƣợc mang hai quốc tịch đó là quốc
tịch Việt Nam và quốc tịch nƣớc ngoài, họ có thể kết hôn với công dân Việt
Nam hoặc với ngƣời nƣớc ngoài. Dấu hiệu để xác định yếu tố nƣớc ngoài
trong quan hệ kết hôn là yếu tố quốc tịch.
1.1.2.2. Đặc điểm kết hôn có yếu tố nước ngoài
Kết hôn là một sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ hôn nhân. Theo
quy định của pháp luật, việc kết hôn là căn cứ để Nhà nƣớc bảo vệ quyền và
lợi ích của ngƣời kết hôn. Việc nam, nữ chỉ đƣợc coi là đã kết hôn khi đăng
ký tại cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền. Sự thừa nhận của nhà nƣớc là một
bảo đảm về pháp lý để bảo vệ quyền lợi của ngƣời kết hôn trên cơ sở quy
định của pháp luật.
11


Theo quy định tại Khoản 25 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm

2014 quy định: “Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài là quan
hệ hôn nhân và gia đình mà ít nhất một bên tham gia là người nước ngoài,
người Việt Nam định cư ở nước ngoài; quan hệ hôn nhân và gia đình giữa
các bên tham gia là công dân Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi,
chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài
hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài”. Kết hôn là một bộ phận
của quan hệ hôn nhân. Kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài có đặc điểm sau:
- Chủ thể tham gia kết hôn là người nước ngoài, người Việt Nam định
cư ở nước ngoài.
Theo Khoản 1 Điều 3 Luật xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh cƣ trú của
ngƣời nƣớc ngoài tại Việt Nam 2014 thì: "Người nước ngoài là người mang
giấy tờ xác định quốc tịch nước ngoài và người không quốc tịch nhập cảnh,
xuất cảnh, quá cảnh, cư trú tại Việt Nam". Nhƣ vậy có thể hiểu Ngƣời nƣớc
ngoài là ngƣời không có quốc tịch Việt Nam, bao gồm ngƣời có quốc tịch
ngƣời nƣớc ngoài và ngƣời không quốc tịch. Theo quy định tại Khoản 1,
Khoản 2 Điều 3 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 thì:
Quốc tịch nƣớc ngoài là quốc tịch của một nƣớc khác không
phải là quôc tịch Việt Nam.
Người không quốc tịch là ngƣời không có quốc tịch Việt Nam và cũng
không có quốc tịch nƣớc ngoài [32, Điều 3].
Nhƣ vậy, cơ sở pháp lý để xác định một ngƣời có phải là ngƣời nƣớc
ngoài hay không chính là vấn đề quốc tịch.
Quốc tịch là mối liên hệ ràng buộc pháp lý giữa công dân và
Nhà nƣớc. Quan hệ này có tính bền vững, ổn định. Trong mối quan hệ đó Nhà
nƣớc có quyền và nghĩa vụ với công dân và ngƣợc lại công dân cũng có
quyền và nghĩa vụ đối với Nhà nƣớc [40, tr. 6].
12


Do đó, khi xác lập quan hệ dân sự ở nƣớc sở tại, ngƣời có quốc tịch

nƣớc ngoài sẽ đƣợc pháp luật của nƣớc mà họ mang quốc tịch bảo hộ. Nhƣ
vậy, khi đăng ký kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài mà trong đó một trong các bên
hoặc cả hai bên chủ thể là ngƣời có quốc tịch nƣớc ngoài thì vấn đề áp dụng
pháp luật nƣớc ngoài đƣợc đặt ra.
Trong việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với ngƣời nƣớc
ngoài, mỗi bên phải tuân theo pháp luật của nƣớc mình về điều kiện kết hôn;
nếu việc kết hôn đƣợc tiến hành tại cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền của Việt
Nam thì ngƣời nƣớc ngoài còn phải tuân theo các quy định của Luật này về
điều kiện kết hôn.
Việc kết hôn giữa những ngƣời nƣớc ngoài thƣờng trú ở Việt Nam tại
cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam phải tuân theo các quy định của Luật
này về điều kiện kết hôn [30, Điều 126].
- Chủ thể tham gia quan hệ là công dân Việt Nam nhưng căn cứ để xác
lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại
nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài
Theo quy định tại khoản 1 Điều 5 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008:
Ngƣời có quốc tịch Việt Nam là công dân Việt Nam.
Hai công dân Việt Nam đủ điều kiện kết hôn theo quy định của pháp
luật Việt Nam nhƣng kết hôn với nhau tại nƣớc ngoài. Hành vi kết hôn của
hai bên nam, nữ đã làm phát sinh quan hệ vợ chồng và việc xác định tính hợp
pháp của quan hệ vợ chồng không chỉ dựa trên cơ sở điều kiện kết hôn theo
quy định của pháp luật Việt Nam mà còn dựa trên cơ sở pháp luật của nƣớc
nơi mà nam, nữ tiến hành kết hôn.
1.1.3. Điều kiện kết hôn có yếu tố nước ngoài
Điều kiện là cái cần phải có để cho một cái khác có thể có
hoặc có thể xảy ra [36 , tr.434].
13


Điều kiện do pháp luật quy định mà các bên nam, nữ cần phải

có hoặc không có điều kiện đó mới có quyền đƣợc kết hôn.
Điều kiện kết hôn là đòi hỏi về mặt pháp lí đối với nam, nữ và chỉ khi
thỏa mãn những đòi hỏi đó thì nam, nữ mới có quyền kết hôn. Cổ luật và tục
lệ Việt Nam đã buộc nam, nữ phải tuân theo một số quy định khi kết hôn.
Việc quy định điều kiện kết hôn cần phải đƣợc kết hợp với tri thức của
nhiều ngành khoa học nhƣ y học, tâm lí học, xã hội học, luật học…, đồng
thời, phải căn cứ vào phong tục, tập quán, truyền thống của mỗi dân tộc.
Chính vì vậy, ở từng quốc gia, từng thời điểm khác nhau, căn cứ vào những
yếu tố trên mà có những quy định khác nhau về điều kiện kết hôn [42, tr.252].
Điều kiện kết hôn đƣợc hiểu là những yêu cầu mà Nhà nƣớc quy định
trong các văn bản pháp luật mà ngƣời muốn kết hôn phải đáp ứng. Nếu nam,
nữ muốn kết hôn thì buộc phải chấp hành những quy tắc xử xự mang tính bắt
buộc chung do Nhà nƣớc đặt ra khi kết hôn. Nếu nam nữ mà không đáp ứng
đƣợc các điều kiện đó thì không đƣợc đăng ký kết hôn, tức là không đƣợc nhà
nƣớc ghi nhận và bảo vệ trƣớc pháp luật. Đây là một quyền của con ngƣời
đƣợc pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Bằng các quy định về điều kiện kết hôn,
Nhà nƣớc bảo vệ quyền để mỗi cá nhân đƣợc lựa chọn và quyết định việc kết
hôn của mình. Để việc kết hôn đƣợc coi là hợp pháp thì đòi hỏi phải có sự
thừa nhận của nhà nƣớc tức là phải đăng ký tại cơ quan nhà nƣớc có thẩm
quyền theo quy định.
Các điều kiện kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài đƣợc quy định trong các
văn bản pháp luật của nƣớc ta nhƣ quy định tại Điều 52 Luật Hôn nhân và gia
đình năm 1986; Điều 103 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Hiện nay, các
điều kiện kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài đƣợc quy định nhƣ sau:
Trong việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với ngƣời nƣớc
ngoài, mỗi bên phải tuân theo pháp luật của nƣớc mình về điều kiện kết hôn;
14


nếu việc kết hôn đƣợc tiến hành tại cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền của Việt

Nam thì ngƣời nƣớc ngoài còn phải tuân theo các quy định của Luật này về
điều kiện kết hôn.
Việc kết hôn giữa những ngƣời nƣớc ngoài thƣờng trú ở Việt Nam tại
cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam phải tuân theo các quy định của Luật
này về điều kiện kết hôn [30, Điều 126].
Nhƣ vậy, khi thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nƣớc có
thẩm quyền của Việt Nam thì ngƣời nƣớc ngoài đáp ứng đồng thời điều kiện
kết hôn theo pháp luật của nƣớc mà họ mang quốc tịch hoặc nơi cƣ trú và điều
kiện kết hôn theo quy định của pháp luật Việt Nam. Các điều kiện kết hôn
theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam đƣợc áp dụng cho bên
nam hoặc nữ là công dân Việt Nam hoặc khi việc kết hôn có yếu tố nƣớc
ngoài tiến hành tại Việt Nam. Theo đó, hai bên nam nữ muốn kết hôn với
nhau phải đáp ứng các điều kiện sau đây:
1.1.3.1. Điều kiện về tuổi kết hôn
Theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2014 quy định: “Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên được
phép kết hôn”.
Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên” quy định
tại điểm a khoản 1 Điều 8 của Luật hôn nhân và gia đình là trƣờng hợp nam
đã đủ hai mƣơi tuổi, nữ đã đủ mƣời tám tuổi trở lên và đƣợc xác định theo
ngày, tháng, năm sinh.
Trƣờng hợp không xác định đƣợc ngày sinh, tháng sinh thì thực hiện
nhƣ sau:
a) Nếu xác định đƣợc năm sinh nhƣng không xác định đƣợc tháng sinh
thì tháng sinh đƣợc xác định là tháng một của năm sinh;

15


b) Nếu xác định đƣợc năm sinh, tháng sinh nhƣng không xác định đƣợc

ngày sinh thì ngày sinh đƣợc xác định là ngày mùng một của tháng sinh [37,
Điều 2].
Việc quy định độ tuổi kết hôn của nƣớc ta là nam từ đủ 20 tuổi trở lên,
nữ từ đủ 18 tuổi trở lên. Pháp luật của nƣớc ta chỉ quy định về độ tuổi tối
thiểu và không quy định về độ tuổi tối đa, không giới hạn về sự chênh lệch độ
tuổi của nam, nữ trong việc kết hôn. Việc quy định này phù hợp với quan
điểm hôn nhân xuất phát từ tình yêu chân chính và tính tự nguyện vì vậy
không có giới hạn về tuổi tác giữa hai bên muốn kết hôn với nhau. Đối với
thủ tục kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài thì điều kiện về độ tuổi kết hôn đƣợc áp
dụng để xem xét tính hợp pháp của quan hệ hôn nhân có yếu tố nƣớc ngoài.
1.1.3.2. Điều kiện về sự tự nguyện của hai bên nam nữ khi kết hôn
Hôn nhân là sự gắn kết giữa một ngƣời nam và một ngƣời nữ
nhằm xây dựng gia đình. Sau khi kết hôn vợ chồng phải gắn bó với nhau, có
quyề và nghĩa vụ với nhau, cùng vun đắp gia đình. Sự phát triển và tồn tại của
hôn nhân phụ thuộc vào tình cảm và trách nhiệm của vợ chồng. Do vậy, để
đảm bảo cho hôn nhân bền vững thì pháp luật quy định các bên khi tiến hành
kết hôn phải hoàn toàn tự nguyện [40, tr.22].
Theo quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2014 quy định: “Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định”. Để
giải thích cụ thể quy định này thì tại Khoản 2 Điều 2 Thông tƣ liên tịch số
01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP: “Việc kết hôn do nam và nữ tự
nguyện quyết định quy định tại điểm b khoản 1 Điều 8 của Luật hôn nhân và
gia đình là trường hợp nam nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau hoàn toàn
tự do theo ý chí của họ”.
Hai bên nam, nữ tự mình quyết định việc kết hôn, không
chịu bất kỳ một áp lực nào khiến kết hôn trái với nguyện vọng của mình. Sự
16


tự nguyện của hai bên nam, nữ phải thể hiện rõ ràng là họ muốn đƣợc gắn bó

với nhau, cùng nhau chung sống suốt đời. Hành vi kết hôn giả tạo, cƣỡng ép
hay lừa dối để kết hôn, cản trở hôn nhân tiến bộ đều bị coi là vi phạm sự tự
nguyện của hai bên nam, nữ khi kết hôn [40, tr.22-23].
Để đảm bảo cho việc kết hôn giữa hai bên nam nữ là trên cơ sở tự
nguyện, pháp luật đã có những quy định và bắt buộc tiến hành khi các đối
tƣợng này có nguyện vọng tiến tới hôn nhân. Ví dụ nhƣ khi đăng ký kết hôn
phải có mặt của cả hai bên nam, nữ và không cho phép bất cứ bên nào vắng
mặt khi nhận Giấy chứng nhận kết hôn. Trƣờng hợp một hoặc hai bên nam,
nữ không thể có mặt để nhận Giấy chứng nhận kết hôn thì theo đề nghị bằng
văn bản của họ, Phòng Tƣ pháp gia hạn thời gian trao Giấy chứng nhận kết
hôn nhƣng không quá 60 ngày, kể từ ngày Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp
huyện ký Giấy chứng nhận kết hôn. Hết 60 ngày mà hai bên nam, nữ không
đến nhận Giấy chứng nhận kết hôn thì Phòng Tƣ pháp báo cáo Chủ tịch Ủy
ban nhân dân cấp huyện hủy Giấy chứng nhận kết hôn đã ký. Nếu sau đó hai
bên nam, nữ vẫn muốn kết hôn với nhau thì phải tiến hành thủ tục đăng ký kết
hôn từ đầu.
1.1.3.3. Các bên không bị mất năng lực hành vi dân sự
Điểm c Khoản 1 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
quy định hai bên nam, nữ tại thời điểm đăng kí kết hôn phải không bị mất
năng lực hành vi dân sự. Có nghĩa là những ngƣời bị mất năng lực hành vi
dân sự thì không đủ điều kiện để kết hôn. Trƣờng hợp này cũng áp dụng đối
với các quan hệ kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài [40, tr. 25].
Theo quy định tại Điều 19 Bộ luật dân sự năm 2015 thì “Năng lực
hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình
xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự”.

17


Khi một ngƣời do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà

không thể nhận thức, làm chủ đƣợc hành vi thì theo yêu cầu của ngƣời có
quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết
định tuyên bố ngƣời này là ngƣời mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết
luận giám định pháp y tâm thần.
Khi không còn căn cứ tuyên bố một ngƣời mất năng lực hành vi dân sự
thì theo yêu cầu của chính ngƣời đó hoặc của ngƣời có quyền, lợi ích liên
quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định huỷ bỏ quyết
định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự [28, Điều 22].
Nhƣ vậy, ngƣời bị mất năng lực hành vi dân sự là ngƣời mà trƣớc đó đã
có năng lực hành vi dân sự nhƣng do bị bệnh tâm thần hoặc bệnh khác mà
khiến họ không thể nhận thức hay làm chủ đƣợc hành vi của mình. Việc tuyên
bố một ngƣời bị mất năng lực hành vi dân sự hay không thuộc thẩm quyền
của Tòa án ra trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần. Tòa án cũng chỉ
thực hiện quyền hạn này của mình khi có yêu cầu của ngƣời có quyền, lợi ích
liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan.
Một ngƣời chỉ không đƣợc kết hôn khi có quyết định của Tòa án tuyên
bố ngƣời đó là ngƣời mất năng lực hành vi dân sự. Bộ luật dân sự năm 2015
và Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định những ngƣời bị mất năng
lực hành vi dân sự không đƣợc kết hôn tại vì: quyền kết hôn là quyền gắn liền
với nhân thân của mỗi cá nhân và phải do chính các cá nhân đó thực hiện mà
không thể chuyển giao cho ngƣời khác. Việc kết hôn do nam, nữ tự nguyện
quyết định; những ngƣời bị mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác mà không
thể nhận thức đƣợc hành vi của mình thì cũng không tự thể hiện đƣợc mong
muốn muốn kết hôn nên cơ quan có thẩm quyền đăng ký kết hôn không thể
đánh giá đƣợc sự tự nguyện của họ khi giải quyết hồ sơ cho đăng kí kết hôn.
Nếu những ngƣời bị mất năng lực hành vi dân sự kết hôn với nhau thì họ
18


không thể thực hiện đƣợc nghĩa vụ đối với ngƣời bạn đời của họ và con cái

của họ; ảnh hƣởng trực tiếp tới chất lƣợng của cuộc sống gia đình. Vì vậy,
pháp luật quy định ngƣời mất năng lực hành vi dân sự không đƣợc kết hôn.
Do đó, khi thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài, một trong
những thành phần hồ sơ phải nộp là Giấy xác nhận của tổ chức y tế có thẩm
quyền của Việt Nam hoặc nƣớc ngoài xác nhận các bên kết hôn không mắc
bệnh tâm thần hoặc bệnh khác mà không có khả năng nhận thức, làm chủ
đƣợc hành vi của mình. Giấy xác nhận này có giá trị trong thời hạn 06 tháng,
kể từ ngày cấp.
1.1.3.4. Các trường hợp cấm kết hôn
Thứ nhất, kết hôn giả tạo.
Khoản 11 Điều 3 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định: “Kết
hôn giả tạo là việc lợi dụng kết hôn để xuất cảnh, nhập cảnh, cư trú, nhập
quốc tịch Việt Nam, quốc tịch nước ngoài; hưởng chế độ ưu đãi của Nhà
nước hoặc để đạt được mục đích khác mà không nhằm mục đích xây dựng gia
đình”.
Kết hôn giả tạo đƣợc hiểu là hành vi của hai bên nam, nữ
đồng ý kết hôn với nhau nhƣng không phải xác lập hôn nhân trên cơ sở tình
yêu và nhằm xây dựng tổ ấm gia đình; mà việc kết hôn của hai bên để thực
hiện theo những hợp đồng và thỏa thuận ngầm hoặc trái quy định của pháp
luật. Kết hôn giả tạo có thể đƣợc dàn xếp cho lợi ích cá nhân nhƣ kinh tế, địa
vị xã hội, vấn đề cƣ trú, nhập cảnh,… hoặc với mục đích chính trị. Vì hành vi
kết hôn giả tạo vi phạm sự tự nguyện của hai bên khi xác lập quan hệ vợ
chồng nên pháp luật hôn nhân và gia đình cấm điều này. Hiện nay, việc vi
phạm sự tự nguyện do kết hôn giả tạo là hành vi phổ biến trong đời sống hôn
nhân và gia đình. Đối với kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài thì hành vi này trở lên
phổ biến hơn. Nhiều trƣờng hợp kết hôn giả tạo là hành vi trá hình của việc
19



×