Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

luận văn thạc sĩ chuyên ngành Kỹ thuật môi trường-NGHIÊN cứu KHẢ NĂNG sử DỤNG một số LOÀI HAI MẢNH vỏ làm CHỈ THỊ để ĐÁNH GIÁ ô NHIỄM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (322.29 KB, 14 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG


ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ

Đề tài:
NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG SỬ DỤNG MỘT SỐ LOÀI HAI
MẢNH VỎ LÀM CHỈ THỊ ĐỂ ĐÁNH GIÁ Ơ NHIỄM
KIM LOẠI NẶNG TRONG TRẦM TÍCH KHU VỰC
CỬA SƠNG KƠN VÀ ĐẦM THỊ NẠI, TỈNH BÌNH ĐỊNH

Cán bộ hướng dẫn:
Người thực hiện:
Chuyên ngành:
Khoá học:

Đà Nẵng - Năm 2012

TS. Võ Văn Minh
Hoàng Thanh Hải
Sinh thái học
2010 - 2012


1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
1.1 Lý do chọn đề tài
Đơ thị hố – cơng nghiệp hóa là xu hướng tất yếu của một nền kinh tế
phát triển. Tuy nhiên, nó ln đồng nghĩa với q trình làm biến đổi mơi trường
tự nhiên ở cả hai khuynh hướng tích cực và tiêu cực. Theo tài liệu của IAEA thì


hiện nay hàng năm độc tố gây bởi các KLN do hoạt động của con người tạo ra
đã vượt qua độc tố tổng cộng của tất cả các chất phóng xạ và thải hữu cơ. Ơ
nhiễm KLN có khả năng tích tụ cao, khó loại bỏ do vậy khi xâm nhập vào cơ thể
có hàm lượng vượt quá tiêu chuẩn sẽ ảnh hưởng đến đời sống của các sinh vật,
gây ảnh hưởng đến sức khỏe của con người thông qua chuỗi thức ăn. Các chất ô
nhiễm theo các con sông ra biển và thường tới cửa sơng ven biển thì kết tủa, tích
tụ lại trong trầm tích. Do vậy, xác định hàm lượng KLN trong trầm tích tại cửa
sơng là rất cần thiết.(UNEP/FAO/WHO, 1996 trích trong Carles et al., 2000).
Sử dụng sinh vật chỉ thị cụ thế là động vật hai mảnh vỏ (sị, vẹm, trai,…) để
đánh giá ơ nhiễm KLN trong môi trường là một hướng nghiên cứu được các nhà
khoa học trên thế giới quan tâm (Merlin, 1965; Ferrington., 1983; Doherty,
1993; Oeatel, 1998, Revera, 2003, Phillip, 1994). Qua nghiên cứu cho thấy hàm
lượng KLN trong mô tế bào của những sinh vật này cao hơn nhiều so với trong
môi trường vì thế có thể thơng qua đó để đánh giá được chất lượng môi trường
tại khu vực chúng sinh sống (Al-Madfa, 1998; AbdAllah và Moustafa, 2002).
Phương pháp này không đòi hỏi những thiết bị hiện đại hay phải thu mẫu định
kỳ, tần suất thu mẫu ít và chi phí nhỏ, đồng thời đánh giá được những tác động
tổng hợp, lâu dài đối với sinh vật và hệ sinh thái.
Ở nước ta đã có một số tác giả nghiên cứu về khả năng tích lũy KLN
trong các lồi hai mảnh vỏ như Đào Việt Hà (2002), Đặng Thúy Bình (2006), Lê
Thị Mùi, Lê Thị Vinh (2005), Đoàn Thị Thắm.
Nằm trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung gồm 05 tỉnh, Bình Định là
địa phương có q trình cơng nghiệp và đơ thị hóa phát triển mạnh của khu vực.
Sơng Kơn là sơng lớn nhất trong các sơng của tỉnh, có tổng diện tích lưu vực (F)
là 3.067 km2, với chiều dài sơng chính là 178 km. Lưu lượng tần suất (Q 0,75%)
khoảng 33 m3/s, lưu lượng kiệt (Qkiệt) là 3,8 m3/s, lưu lượng lũ (QLũ) là 5.200
m3/s . Sông bắt nguồn từ vùng rừng núi của dãy Trường Sơn có độ cao 700 1.000 m, chảy theo hướng Tây Bắc- Đông Nam đến Thanh Quan- Vĩnh Phúc
(Vĩnh Thạnh), chảy theo hướng Bắc Nam, về đến Bình Tường (Tây Sơn), chảy
theo hướng Tây Đơng và đến Bình Thạnh sơng chia thành 2 nhánh chính: Nhánh
2



Đập Đá chảy ra cửa An Lợi rồi đổ vào đầm Thị Nại; nhánh Tân An có nhánh
sơng Gị Chàm cách ngã ba về phía hạ lưu khoảng 2 km, sau khi chảy qua vùng
đồng bằng rồi nhập với sông Tân An cùng đổ vào đầm Thị Nại tại cửa Tân
Giảng (xã Phước Hoà, huyện Tuy Phước). Tất cả các nhánh sông Đập Đá và Tân
An sau khi đổ vào đầm Thị Nại được thông ra biển qua cửa Quy Nhơn. Độ cao
trung bình của lưu vực khoảng 567 m, độ dốc lưu vực 15,8% và mật độ lưới
sông là 0,65 km/km2
Sơng Kơn là con sơng lớn có tầm quan trọng rất lớn tới kinh tế, xã hội,
môi trường của Bình Định, có cửa sơng với hệ sinh thái khá dồi dào. Trong
nhiều năm trở lại đây do tích tụ chất ơ nhiễm có nguồn gốc từ các chất thải sinh
hoạt và ảnh hưởng của các hoạt động phát triển kinh tế xã hội của khu vực… đã
làm tăng nguy cơ ô nhiễm KLN.
Trước những vấn đề trên, việc nghiên cứu sử dụng động vật 2 mảnh vỏ để
quan trắc ô nhiễm KLN đồng thời thông qua đó đánh giá được khả năng ô nhiễm
KLN tại khu vực cửa sông trở nên cấp thiết. Xuất phát từ những cơ sở trên,
chúng tôi tiến hành đề tài “Nghiên cứu khả năng tích lũy sinh học các KLN ở
một số lồi Động vật hai mảnh vỏ tại khu vực cửa sông Kôn và đầm Thị Nại,
tỉnh Bình Định".
1.2 Ý nghĩa của đề tài
Ý nghĩa lý luận
Đề tài góp phần nghiên cứu cơ sở khoa học để đề xuất phương pháp giám
sát ô nhiễm KLN bằng các loài động vật hai mảnh vỏ cho các vùng cửa sông ven
biển vùng kinh tế trọng điểm miền Trung.
Ý nghĩa thực tiễn
Nghiên cứu góp phần đánh giá hiện trạng tích lũy KLN trong trầm tích và
một số loài động vật hai mảnh vỏ, đồng thời đánh giá khả năng giám sát ô nhiễm
KLN vùng cửa sông Kơn, tỉnh Bình Định.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ TÍNH MỚI CỦA ĐỀ TÀI

2.1 Tình hình nghiên cứu
2.1.1 Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Theo tài liệu hướng dẫn khu vực bị ô nhiễm của trung tâm nghiên cứu
môi trường Ltd thì trong số các lồi động vật, động vật khơng xương sống là các
chỉ số hữu ích hơn so với các động vật khác, và động vật không xương sống
dưới nước hữu ích hơn so với động vật khơng xương sống trên mặt đất khi sử
dụng chúng làm sinh vật chỉ thị cho môi trường bị ô nhiễm.
3


Dữ liệu độc tính cấp tính trên động vật khơng xương sống nước ngọt và cá
của Úc đã được tổng kết bởi Firth (1981), Hart (1982) và Skidmore và Firth
(1983). Đối với cá tiến hành nghiên cứu KLN Cr và Zn. Đối với động vật không
xương sống nước ngọt, cadmium là kim loại được chú ý nhất tiếp theo sau là
đồng, rồi tới kẽm. Ô nhiễm kẽm đã làm giảm đáng kể sự phong phú và đa dạng
của động vật không xương sống của con sông Molonglo (Weatherley và
Dawson, 1973; Weatherley và cs, 1967, 1975, 1980, Sharley, 1982; Norris,
1983). Ô nhiễm kẽm có tác động tiêu cực ảnh hưởng đến sản xuất ban đầu, cấu
trúc cộng đồng động vật phù du và cấu trúc cộng đồng sinh vật đáy trong hồ
Burley Griffin (Hillman, 1974). Nghiên cứu bởi Nicholas và Thomas (1978),
Sharley (1982) và Norris (1983) đã chỉ ra rằng đã khơng có dấu hiệu giảm ơ
nhiễm Crom kể từ cuộc khảo sát đầu tiên vào năm 1963 [17].
Trong việc sử dụng động vật không xương sống làm sinh vật chỉ thị ơ
nhiễm mơi trường thì động vật hai mảnh vỏ là đối tượng đã được rất nhiều khoa
học nghiên cứu, áp dụng để quan trắc ô nhiễm KLN. Cynthia L.Brown, Samuel
N.Luoma Mỹ đã thực hiện nghiên cứu sử dụng loài hai mảnh vỏ
Potamocorbula amurensis để đánh giá ô nhiễm kim loại tại vịnh San Frasico vào
năm 1995 [14].
Các nghiên cứu khác cũng dùng động vật hai mảnh vỏ là loài Anodonta
woodiana và Dreissena polymorpha sống tại kênh xả nhà máy Patnów và Konin,

tác giả Elzbieta Królak đã xác định nồng độ kim loại Mn, Fe, Cr, Zn, Pb, Cd
trong mô và vỏ của chúng, kết quả cho thấy chúng có khả năng tích lũy Cr, Zn,
Pb cao và với những con có tuổi thọ cao thì sự tích lũy cao hơn [15].
Người ta ước tính, tổng lượng cadmi đổ vào đại dương lên tới 8.000
tấn/năm; trong đó, một nửa có nguồn gốc từ hoạt động của con người. Cadmi
thường tích tụ với hàm lượng cao ở các loài thuỷ sản. Trên động vật, thận và gan
là cơ quan chứa cadmi cao nhất. Theo các chuyên gia Ba Lan, những tiêu chuẩn
liên quan đến các KLN, nhất là cadmi và chì đã vượt gần 100 lần. Ở Tây Ban
Nha, vào mùa hè năm 1988, người ta đã tiến hành kiểm tra hàm lượng cadmi,
thuỷ ngân và chì trong 31 lồi cá, nhuyễn thể và giáp xác lấy mẫu từ 25 trạm ở
dọc bờ biển Địa Trung Hải. Qua kiểm tra, hàm lượng cadmi ở loài vẹm ăn được
Mytilus gallo provincialis đã tăng gấp 6 lần, ở các loài cá đối hàm lượng KLN
tăng lên 30 lần và có thể gây nhiễm độc cho người qua chuỗi thức ăn (kết quả
được công bố năm 1994) [9].
4


Sari Airas từ viện thủy sản và sinh vật biển đại học Bergen Nauy cũng đã
có đề tài phân tích đồng, kẽm, bạc, asen, thủy ngân, cadmium trong loài vẹm
xanh Mytilus edulis và nhận thấy rằng lồi này có sự tích lũy KLN trong mơ cơ
thể rất cao [22].
Lồi ngao dầu Meretrix meretrix là đối tượng được áp dụng khá nhiều để
chỉ thị KLN tại một số khu vực trên thế giới. Jon Bưhlmark sử dụng nó như là
chỉ số của sự tập trung KLN tại vịnh Maputo – Thụy Điển [18]. Mohd.Harun
Abdullah, Jovita Sidi và Ahmad Zaharin Aris cũng sử dụng lồi này cùng với
việc phân tích hàm lượng KLN trong trầm tích để so sánh Cd, Cu, Cr, Pb và Zn
tại cửa sông ở khu vực nông thôn và đô thị của Malaysia [19].
Động vật hai mảnh vỏ thường được sử dụng để đánh giá ô nhiễm KLN vì
chúng đă được định loại rő ràng, dễ nhận dạng, có kích thước vừa phải, số lượng
nhiều, dễ tích tụ chất ơ nhiễm, có thời gian sống dài và có đời sống tĩnh tại.

Những loài động vật hai mảnh vỏ đã được nghiên cứu rộng rãi trên thế giới và
mang lại hiệu quả cao.
2.1.2 Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
Ở Việt Nam, sử dụng động vật không xương sống cỡ lớn để đánh giá chất
lượng môi trường nước đã được nghiên cứu từ năm 1995, quy trình lấy mẫu và
phân tích số liệu đã được thiết lập. Phương pháp này đã tiến hành ở nhiều sơng
ngịi, nó cho thấy đây là phương pháp phù hợp với nước ta .
Đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về sự tích lũy KLN trong sinh vật.
Tuy vậy cịn ít cơng trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa hàm lượng KLN
trong bùn và môi trường sống xung quanh, các dạng tồn tại của chúng với khả
năng tích lũy lan truyền các KLN trong các lồi nhuyễn thể. Đặc tính của lồi
nhuyễn thể hai mảnh vỏ là sống đáy và ăn lọc, sự hấp thụ và tích lũy KLN có thể
từ nhiều nguồn thức ăn của chúng. Qua nghiên cứu của Phạm Kim Phương,
Nguyễn Thi Dung tại cửa sông Cần Thạnh, huyện Cần Giờ, TP. Hồ Chí Minh
cho thấy trong cơ thể nghêu (Meretrix Lyrata) chứa các KLN As, Pb, Cd, Hg và
hàm lượng của nó tương ứng là 1, 65; 0,041 ; 0,65; 0,006 mg/kg. Và hàm lượng
trong nước thấp hơn trong trầm tích, có những kim loại mặc dù trong nước rất
thấp như Cd (0,01mg/kg) nhưng trong cơ thế lại cao (0,065mg/kg). Số liệu cho
thấy ngay cả khi nồng độ KLN trong môi trường ở nồng độ rất thấp (dạng vết)
chúng cũng có thể tích lũy trong sinh vật sống [6].
Nghiên cứu hàm lượng KLN trong loài nghêu lụa ( Paphia undulata) ở
vùng biển ven bờ Bình Thuận, Lê Thị Vinh và cs thấy rằng hàm lượng Zn và Cr
5


năm 2004 cao hơn 2002 ( Zn : 22,67 – 44, 46 mg/g khô), Cr ( 2,58 – 8,59 mg/g
khô), hàm lượng Cr, As, Hg cao hơn vùng biển Thái Lan và Malaysia chúng tỏ
nghêu lụa có dấu hiệu ơ nhiễm KLN [12].
Cũng tiếp cận với phương pháp này Đặng Kim Chi và cs tiến hành nghiên
cứu tham dò khả năng tích tụ Cr, Cd trên trai ( Sinanodonta Modell ) và ốc

(Anlugyagra – Sinotaita Hass) với các nồng độ nghiên cứu là 0,1; 0,2 mg/lvới
Cr; 0,02mg/l với Cd cho thấy cả trai và ốc đều có khả năng tích tụ Cr, Cd. Khả
năng tích tụ phụ thuộc và bản thân sinh vật, nồng độ KLN trong nước và thời
gian tiếp xúc [2].
Theo nghiên cứu của Đào Việt Hà (2002), hàm lượng các KLN trong Vẹm
xanh (Perna viridis) tại Đầm Nha Phu (Khánh Hòa) là : từ 0,003 – 0,21 µg/g
(tính theo khối lượng tươi) đối với Cd; từ 0,14 – 1,114 µg/g đối với Pb; và từ
0,54 – 1,81 µg/g đối với Cr. Nghiên cứu của Đặng Thúy Bình và cộng sự nghiên
cứu tại đảo Điệp Sơn (Khánh Hòa) cho thấy rằng hàm lượng As tích lũy trong
Vẹm xanh (Perna viridis) là 1,76 µg/g [1].
Một nghiên cứu khác của Đồn Thị Thắm nghiên cứu về sự tích lũy kẽm
trong một số lồi vẹm, nghêu, sị tại một số điểm ven biển Đà Nẵng cho thấy ở
loài Vẹm xanh (Perna viridis) có hàm lượng kẽm là 12,94 – 14,57 µg/g; ở lồi
Nghêu lụa (Paphia undulata) từ 5,99 – 10,54 µg/g, ở lồi Sị lơng (Anadara
subcrenata) từ 6,38 – 10,96 µg/g, lồi Nghêu trắng (Meretrix lyrata) từ 6,97 –
8,17 µg/g. Theo nghiên cứu của Lê Thị Mùi (2007) về sự tích tụ chì và đồng của
một số lồi nhuyễn thể tại một số điểm ven biển Đà Nẵng cho thấy hàm lượng
trung bình trong khoảng 1,13 - 2,12 µg/g khối lượng ướt đối với Pb và 7,15
-16,52 µg/g khối lượng ướt đối với Cr [10].
Nhìn chung sự tiếp cận phương pháp sử dụng động vật hai mảnh vỏ làm
sinh vật chỉ thị cho mơi trường ở nước ta cịn khá mới mẻ. Các cơng trình
nghiên cứu đã thành cơng trong việc đánh giá được hàm lượng KLN trong các
đối tượng nghiên cứu song còn hạn chế trong việc đánh giá tương quan giữa
hàm lượng KLN trong trầm tích với hàm lượng trong mơ tế bào. Trong các lớp
đáy của các dịng sơng do các q trình sinh học các KLN dễ tạo phức với các
chất hữu cơ trong mùn, do đó mùn là yếu tố chính mang KLN trong nước.
Thơng thường hàm lượng kim loại trong các mẫu bùn lắng cao hơn nhiều so với
hàm lượng kim loại cùng nguyên tố trong nước lấy cùng địa điểm và thời gian
[5]. Dựa trên cơ sở những thành tựu của nghiên cứu trước, tiếp cận trên khía
cạnh mới sẽ góp phần mở rộng hướng nghiên cứu này ở nước ta.

6


2.2 Tính mới của đề tài
Đề tài là cơng trình đầu tiên áp dụng phương pháp chỉ thị sinh học để
giám sát ơ nhiễm KLN trong các lồi động vật hai mảnh vỏ và trầm tích tại cửa
sơng Kơn và đầm Thị Nại, tỉnh Bình Định. Nghiên cứu mang tính hệ thống và có
sự đánh giá tồn diện trên nhiều loài hai mảnh vỏ và nhiều đối tượng kim loại
nặng.
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Xác định mức độ ơ nhiễm KLN trong trầm tích và trong mơ của một số
lồi động vật hai mảnh vỏ vùng cửa sông Kôn và đầm Thị Nại, tỉnh Bình Định.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Đề tài nghiên cứu với đối tượng là các KLN: Pb, Cr, Cd và Hg trong mơ động
vật hai mảnh vỏ và trầm tích tại khu vực nghiên cứu;
- Các loài động vật hai mảnh vỏ tại vùng cửa sông Kôn và đầm Thị Nại, tỉnh
Bình Định.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
4.2.1 Phương pháp tổng hợp tài liệu
Thu thập, sử dụng các tài liệu có sẵn tại Chi cục môi trường khu vực miền
Trung – Tây ngun, Sở tài ngun – mơi trường tỉnh Bình Định (Báo cáo hiện
trạng môi trường, Báo cáo đánh giá tác động môi trường, Báo cáo giám sát môi
trường định kỳ, …); các tài liệu, các kết quả nghiên cứu khác tương tự hoặc có
liên quan nhằm tổng quan lý luận của đề tài nghiên cứu.
4.2.1 Phương pháp nghiên cứu ngoài thực địa
Đề tài tiến hành thu mẫu vào 2 đợt: tháng 7 - 8/2012 và tháng 1 - 2/2012.
-

Thu mẫu động vật: Lấy mẫu tại 3 khu vực gồm: xã Phước Hòa , xã Phước

Sơn và xã Phước Thuận (hình 1). Mỗi khu vực chọn 3 điểm thu mẫu, mỗi điểm
1 - 2 lồi động vật HMV có mặt đặc trưng tại khu vực nghiên cứu. Dùng cào,
gàu để lấy mẫu động vật, sau khi thu thập sẽ được bảo quản ở 4oC (theo Goksu)
và đưa về phân tích tại phịng thí nghiệm [20].

7


- Thu mẫu trầm tích: Mẫu trầm tích thu đồng thời với mẫu động vật. Dùng gàu
Peterson lấy bùn ở độ sâu 0 – 10 cm. Đựng trong túi nhựa polyethylene và được
kí hiệu theo quy định.
Tất cả các quá trình thu mẫu, bảo quản mẫu và vận chuyển mẫu... đều
được tiến hành đúng theo các TCVN và QCVN hiện hành.

Hình 1: Sơ đồ vị trí lấy mẫu
4.2.2. Phương pháp phân tích trong phịng thí nghiệm
- Xử lý mẫu động vật
+ Mẫu được định loại hình thái theo Thái Trần Bái, Đặng Ngọc Thanh,
Phạm Văn Miên [8] Mẫu động vật được định loại hình thái động vật theo
tài liệu của F. J. Springsteen và F. M. Leobrena [F. J. Springsteen và F. M.
Leobrena (1986), Shells of the philippines. Carfel seashell museum.] và
gửi giám định tại Viện Hải Dương Học Nha Trang.
+ Mẫu động vật được tách lấy phần thịt, vô cơ hóa mẫu động vật bằng dung
dịch HClO4 + HNO3 đặc hoặc H2O2 + KNO3. Chiết các nguyên tố vết tan trong
nước cường thuỷ (TCVN 6649:2000).
- Xử lý mẫu trầm tích:

8



Để khơ tự nhiên mẫu trầm tích, nghiền, rây, cân 5 gam mẫu khơ, vơ cơ hóa
bằng axit H2SO4 + HNO3 + H2O2 trong bình Kendan. Chiết các nguyên tố vết tan
trong nước cường thuỷ (TCVN 6649:2000).
4.2.3 Phương pháp phân tích
- Trong nghiên cứu này phương pháp phân tích được sử dụng phương
pháp quang phổ hấp phụ nguyên tử AAS. Xác định cadimi, crơm, chì, trong dịch
chiết đất bằng cường thủy. Các phương pháp phổ hấp thụ nguyên tử ngọn lửa và
nhiệt điện (không ngọn lửa) (TCVN 6496:2009). Xác định thủy ngân trong dịch
chiết đất cường thủy dùng phổ hấp thụ nguyên tử hơi - lạnh hoặc phổ hấp thụ
nguyên tử huỳnh quang hơi - lạnh (TCVN 8882:2011)
- Kiểm soát chất lượng (QC)
Thực hiện phân tích mẫu thêm chuẩn (spiked sample), mẫu lặp (replicate
analysis) và mẫu trắng.
4.2.4. Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu được xử lý theo phương pháp thống kê, sử dụng công cụ là các
phần mềm Excel, Origin 6.0. Phân tích phương sai (Anova) và kiểm tra LSD với
mức ý nghĩa α = 0,05. Các giá trị trong phân tích tương quan được chuyển dạng
theo cơng thức x’ = lg10(x + 5) [7].
5. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
- Điều tra, khảo sát để chọn đối tượng động vật hai mảnh vỏ có mặt tại khu vực
này (xác định loài ưu thế, tần suất xuất hiện cao, phân bố đều...), từ đó chọn ra
một số lồi phù hợp với yêu cầu, và hàm lượng KLN có mặt trong trầm tích tại
khu vực nghiên cứu. Trong số các KLN phân tích, lựa chọn các KLN có dấu
hiệu ơ nhiễm, từ đó đề xuất các phương án giám sát;
- Thu mẫu trầm tích và mẫu động vật hai mảnh vỏ;
- Phân tích hàm lượng KLN tích lũy trong trầm tích và mẫu động vật bằng máy
phân tích quang phổ hấp thụ nguyên tử (AAS);
- Đánh giá khả năng giám sát ô nhiễm KLN qua phân tích mối tương quan giữa
KLN trong trầm tích và trong mơ của động vật hai mảnh vỏ;
- Đề xuất quy trình giám sát sinh học (dựa trên kết quả phân tích tương quan).

9


Bố cục luận văn dự kiến:
Mở đầu
CHƯƠNG 1: Tổng quan nghiên cứu
1.1. Tình hình ơ nhiễm KLN trong trầm tích khu vực cửa sơng trên Thế giới và
Việt Nam
1.2. Tình hình nghiên cứu sử dụng động vật hai mảnh vỏ giám sát ô nhiễm KLN
1.3. Hiện trạng môi trường khu vực cửa sơng Kơn, tỉnh Bình Định
CHƯƠNG 2: Đối tượng, địa điểm, phương pháp và nội dung nghiên cứu
2.1. Đối tượng, địa điểm nghiên cứu
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.3. Nội dung nghiên cứu
CHƯƠNG 3 : Kết quả và biện luận
3.1. Danh mục các loài động vật hai mảnh vỏ và KLN trong trầm tích có mặt tại
cửa sơng Kơn, tỉnh Bình Định.
3.2. Kết quả phân tích hàm lượng KLN trong mơ động vật hai mảnh vỏ và trong
trầm tích
3.3. Phân tích tương quan giữa hàm lượng KLN trong mơ động vật và trầm tích
3.4. Đề xuất chương trình giám sát sinh học
Kết luận và kiến nghị
6. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
6.1. Tài liệu tiếng Việt
1. Đặng Thúy Bình, Nguyễn Thanh Sơn và cs (2006). Nghiên cứu sự tích lũy
KLN trong ốc Hương và một số đối tượng thủy sản (Vẹm. Hải sâm, Rong sụn)
tại đảo Điệp Sơn, vịnh Vân Phong, Khánh Hịa. Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ
thủy sản, số 03 – 04/2006.
2. Đặng Kim Chi. Thăm dò khả năng tích tụ Chromium (Cr), Cadium (Cd) trên
trai và óc nhằm xây dựng chỉ thị sinh học đánh giá chất lượng nước thải công

nghiệp. Hôi nghị khoa học lần thứ 20 – ĐHBK Hà Nội.

10


3. Lê Đức, Trần Khắc Hiệp, Nguyễn Xuân Cự, Phạm Văn Khang, Nguyễn
Ngọc Minh (2002). Một số phương pháp phân tích mơi trường. NXB Đại học
quốc gia Hà Nội.
4. Nguyễn Văn Khánh, Phạm Văn Hiệp (2009). Nghiên cứu sự tích lũy KLN
Cadimium (Cd) và Chì (Pb) của lồi Hến (Corbicula sp.) vùng cửa sơng ở
thành phố Đà Nẵng. Tạp chí Khoa học và Cơng nghệ 1(30)/2009.
5. Hồng Đắc Lực (1999). Nghiên cứu ô nhiễm KLN trong nước thải công
nghiệp và sinh hoạt. Báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu cấp Bộ 1998 – 1999.
6. Phạm Kim Phương (2007). Nghiên cứu sự tích lũy KLN As, Cd, Pb và Hg từ
môi trường nuôi tự nhiên lên nhuyễn thể hai mảnh vỏ. Tạp chí khoa học và cơng
nghệ, tập 45, số 5/2007, trang 57 – 62.
7. Bảo Thy (2009). Giáo trình Tin học thống kê trong quản lý tài nguyên thiên
nhiên.
8. Đặng Ngọc Thanh, Thái Trần Bái, Phạm Văn Miên (1980). Định loại động
vật không xương sống nước ngọt Bắc Việt Nam. NXB Khoa học Kỹ thuật.
9. Nguyễn Phước Tương (2010). Ô nhiễm lương thực và thực phẩm bởi KLN,
Sở khoa học cơng nghệ Nghệ An.
10. Đồn Thị Thắm, Lê Thị Mùi (2008). Nghiên cứu xác định hàm lượng kẽm
trong một số lồi vẹm, nghêu và sị vùng biển Đà Nẵng bằng phương pháp Von
– ampe hòa tan. Hội nghị sinh viên nghiên cứu khoa học lần thứ 6 – Đại học Đà
Nẵng.
11. Nguyễn Thế Tiến, Phùng Chí Sỹ, Huỳnh Thị Minh Hằng (2006). Các vấn đề
mơi trường trong q trình đơ thị hóa – cơng nghiệp hóa ở thành phố Đà Nẵng.
Tạp chí phát triển khoa học và cơng nghệ, tập 9, môi trường và tài nguyên/2006.
12. Lê Thị Vinh (2005). Hàm lượng KLN trong nghêu lụa ở vùng biển ven bờ

Bình Thuận. Tạp chí Khoa học và Cơng nghê biển, tập 5, số 4/2005, trang 58 –
63.
13. Lê Thị Vịnh (2005). Ảnh hưởng của hạt Nix từ nhà máy đóng tàu Huyndai –
Vinashin tới hàm lượng kim loại trong Hàu Saccostrea cucullata vinh Vân
Phong. Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển, trang 198 -204.
11


6.2. Tài liệu tiếng Anh
14.Cynthia L.Brown,Samuel N.Luoma (1995). Use of the euryhaline bivalve
Potamocorbula amurensisas a biosentinel species

to assess trace metal

contamination in San Francisco Bay, Vol 124 pp : 129-142.
15.

Elzbieta Królak, Bogustaw Zdanowski (2001). The bioaccumulation of
heavy metals by the mussels anodonta woodiana (Lea, 1834) and dreissena
polymorpha (pall.) in the heated konin lakes. Archives of Polish Fisheries,
Vol. 9, pp 229-237.

16. Environmental Reseach Centre Ltd (2004). Guidance on preliminary site
inspection of contaminated land, CLR No 2 Volume Two, page 9.
17. John Wiley & Sons. Studies of Heavy Metal Pollution in Australia with
Particular Emphasis on Aquatic System, page 187-189.
18. Jon Böhlmark (2003). Meretrix meretrix as an Indicator of Heavy Metal
Contamination in Maputo Bay. A Theses Work at Uppsala University School
of Engineering, Department of Earth Sciences, Uppsala University, Sweden.
19. Mohd. Harun Abdullah, Jovita Sidi and Ahmad Zaharin Aris (2007). Heavy

Metals (Cd, Cu, Cr, Pb and Zn) in Meretrix meretrix Roding, Water and
Sediments from Estuaries in Sabah, North Borneo, International Journal of
Environmental & Science Education. pp 69-74.
20. M.nir Ziya Lugal G.KSU, Mustafa AKAR, Fatma .EVÜK, zlem FINDIK,
(2003). Bioaccumulation of Some Heavy Metals (Cd, Fe, Zn, Cu) in Two
Bivalvia Species (Pinctada radiata Leach, 1814 and Brachidontes pharaonis
Fischer, 1870). Faculty of Fisheries, Ukurova University, 01330 Balcaly,
Adana - TURKEY.
21. Perey Perera (2004). Heavy metal concentrations in the Pacific Oystre
Crassostrea gigas. Auckland University of Technolo, Auckland.
22. Sari Airas (2003). Trace metal concentrations in blue mussels Mytilus edulis
(L.) in Byfjorden and the coastal areas of Bergen. Master Thesis in Marine
Biology for the degree Candidata Scientiarium.

12


7. DỰ KIẾN KINH PHÍ THỰC HIỆN LUẬN VĂN
7.1. Dự kiến tổng kinh phí: 11.000.000 (Mười một triệu đồng chẵn)
7.2. Dự kiến kinh phí cho các mục chi: (Đơn vị tính: Đồng)
Stt
1
2
3
4
5
6
7
8


Nội dung chi

Đơn vị
tính

Số lượng

Đơn giá

-

-

6

200.000

1.200.000

2
40*
20
1
-

500.000
100.000
50.000
1500.000
-


1.000.000
4.000.000
1.000.000
1500.000
1.000.000
800.000
11.000.000

Tài liệu
Đà Nẵng – Quy
Chuyến
Nhơn và ngược lại
Cơng lấy mẫu
Đợt
Phân tích mẫu
Mẫu
Xử lý số liệu
Cơng
Viết đề tài
Cơng
In ấn, photo
Chi phí khác
Tổng cộng

Thành tiền
500.000

(*)Tổng số mẫu = 2 đợt x [(3 khu vực thu mẫu x 6 mẫu/ 1khu vực)] +1 mẫu trắng + 1 mẫu thêm chuẩn + 2 mẫu lặp)]


8. DỰ KIẾN KẾ HOẠCH THỰC HIỆN HOÀN THÀNH LUẬN VĂN
Stt

1

2
3
4
5
6

Thời gian

Nhiệm vụ

Dự kiến kết quả

Khảo sát để chọn được đối
Khảo sát thực địa
tượng nghiên cứu (động
03/2012 – 06/2012 Thu thập tài liệu thứ cấp
vật, KLN)
Thu thập được các tài liệu
cần thiết
Tiến hành thu mẫu đợt 1 Có được các kết quả phân
07-08/2012
và phân tích
tích đợt 1
Xử lý các số liệu đợt 1 và Đánh giá được kết quả
08/2012- 10/2012

viết bài
quan trắc của đợt 1.
Tiến hành thu mẫu đợt 2 Đánh giá được kết quả
01-02/2013
và phân tích
quan trắc của đợt 2.
Tổng hợp kết quả 2 đợt
Bản thảo
02/2013
Viết luận văn
02/2013
Chỉnh sửa luận văn
Luận văn hoàn chỉnh

9. CHỮ KÝ CỦA KHOA PHỤ TRÁCH CHUYÊN MÔN, NGƯỜI HƯỚNG
DẪN VÀ NGƯỜI THỰC HIỆN ĐỀ TÀI

13


Người hướng dẫn

Người thực hiện đề tài

TS. Võ Văn Minh

Hoàng Thanh Hải

Khoa Sinh - Môi trường


14



×