Tải bản đầy đủ (.pdf) (61 trang)

NGHIÊN CỨU SỰ CẠNH TRANH VÀ KHẢ NĂNG KIỂM SOÁT RUỒI NHÀ CỦA CÁC TỔ HỢP ONG KÝ SINH Spalangia endius, Spalangia nigroaenea VÀ Dirhinus hymalayanus LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (571.66 KB, 61 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC NÔNG LÂM TP. HỒ CHÍ MINH
*******************

NGUYỄN LÊ ĐỨC TRỌNG

NGHIÊN CỨU SỰ CẠNH TRANH VÀ KHẢ NĂNG KIỂM
SOÁT RUỒI NHÀ CỦA CÁC TỔ HỢP ONG KÝ SINH
Spalangia endius, Spalangia nigroaenea VÀ
Dirhinus hymalayanus

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP

Thành phố Hồ Chí Minh
Tháng 04/2010


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC NÔNG LÂM TP. HỒ CHÍ MINH
*******************

NGUYỄN LÊ ĐỨC TRỌNG

NGHIÊN CỨU SỰ CẠNH TRANH VÀ KHẢ NĂNG KIỂM
SOÁT RUỒI NHÀ CỦA CÁC TỔ HỢP ONG KÝ SINH
Spalangia endius, Spalangia nigroaenea VÀ
Dirhinus hymalayanus

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP

Thành phố Hồ Chí Minh


Tháng 04/2010


LÍ LỊCH CÁ NHÂN
Tôi tên là Nguyễn Lê Đức Trọng, sinh ngày 10 tháng 04 năm 1983, tại
huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Con Ông Nguyễn Đức Nhuận và Bà Lê Thị Mai.
Tốt nghiệp Tú tài tại Trường Phổ thông Trung học Trần Quốc Tuấn, Thị
Xã Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi năm 2001.
Tốt nghiệp Đại học ngành Nông học hệ chính quy tại Đại học Nông Lâm
Thành phố Hồ Chí Minh năm 2006.
Tháng 09 năm 2007 theo học cao học ngành Bảo vệ Thực vật tại Đại học
Nông Lâm, Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh.
Tình trạng gia đình: Độc thân
Địa chỉ liên lạc: Thị Trấn Sông Vệ, Huyện Tư Nghĩa, Tỉnh Quảng Ngãi
Điện thoại: 0903035671
Email:

i


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và
chưa từng được ai công bố trong bất kỳ một công trình nào khác.

NGUYỄN LÊ ĐỨC TRỌNG

ii



CẢM TẠ
Xin được dành lời cảm ơn đầu tiên đến Ba Mẹ, và Gia đình đã luôn bên
cạnh ủng hộ, động viên và là điểm tựa vững chắc.
Cảm ơn Quý Thầy Cô Khoa Nông học đã cho tôi những kiến thức nền tảng
quý báu trong thời gian học Đại học.
Cảm ơn Quý Thầy Cô giảng dạy chương trình Cao học Bảo vệ Thực vật đã
giúp tôi có được những kiến thức chuyên sâu.
Cảm ơn Quý Thầy Cô trong phòng Sau Đại học đã sắp xếp bố trí để chúng
tôi hoàn thành khóa học.
Lời tri ân sâu sắc nhất xin được gởi đến TS. Trần Tấn Việt, hướng dẫn
Khoa học, đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tôi trong trong thời gian qua.
Cảm ơn quý Thầy Cô trong Hội đồng Bảo vệ Đề cương, Hội đồng Seminar
Kết quả, Hội đồng Bảo vệ Luận văn đã góp ý, chỉnh sửa để Đề tài này được hoàn
thiện.
Cám ơn Ban Chủ Nhiệm Khoa Nông học và toàn thể Quý Thầy Cô Khoa
Nông học đã luôn động viên và tạo điều kiện về thời gian trong suốt quá trình học
tập.
Cám ơn các anh chị em đang làm việc và thực hiện đề tài trong phòng
Nghiên cứu Kiểm dịch Côn trùng ĐH Nông Lâm.
Cám ơn các anh chị và các bạn lớp Cao học Bảo vệ Thực vật 2007, lớp
Nông học 28 và bạn bè gần xa đã luôn bên canh, chia sẻ, giúp đỡ.
Cám ơn bản thân đã luôn cố gắng để có được kết quả như ngày hôm nay.

NGUYỄN LÊ ĐỨC TRỌNG

iii


TÓM TẮT
Đề tài “Nghiên cứu sự cạnh tranh và khả năng kiểm soát ruồi nhà của các tổ

hợp ong ký sinh: Spalangia

endius, Spalangia

nigroaenea và Dirhinus

hymalayanus” được thực hiện tại phòng Nghiên cứu và Kiểm dịch Côn trùng, Khoa
Nông học, Đại học Nông Lâm, Thủ Đức, Tp. Hồ Chí Minh từ tháng 04 năm 2009
đến tháng 11 năm 2009. Đề tài nhằm xác định khả năng phân biệt ký chủ đã bị ký
sinh của các loài ong ký sinh trên nhộng ruồi nhà, xác định loài ong chiếm ưu thế
trong kiểm soát ruồi nhà cũng như tổ hợp ong có khả năng kiểm soát ruồi nhà trong
điều kiện tự nhiên.
Trong nghiên cứu sự cạnh tranh giữa tổ hợp hai loài ong, tỷ lệ ký chủ bị ký
sinh bởi S. endius/S. nigroaenea (76,6%), S.nigroaenea/S. endius (75,7%) và D.
hymalayanus /S. endius (66,7%). Khi ong S. endius ký sinh trước lên ký chủ thì làm
cho cơ hội ký sinh của ong S. nigroaenea giảm xuống. Ong S. nigroaenea vượt trội
hơn trong tổ hợp hai hoặc ba loài ong kết hợp. Ong S. nigroaenea có khả năng phân
biệt ký chủ đã bị tấn công bởi ong S. endius và ong D. hymalayanus. Ong D.
hymalayanus không có khả năng phân biệt ký chủ đã bị tấn công hay chưa cũng
như không có khả năng cạnh tranh với các loài ong khác
Khả năng kiểm soát ruồi nhà trong lồng lưới của ong S. endius là tốt nhất, kế
đến là S.nigroaenea, và T. zealandicus, ong D. hymalayanus không kiểm soát được
ruồi nhà trong điều kiện thí nghiệm.

iv


SUMMARY
Thesis “ Researching of conflicting and controlling capacity of house flies by
some complex of three wasp species S. endius, S. nigroaenea, D. hymalayanus”

were carried out at the Department of Research and Quarantine of insects,
Agronomy faculty, University of Agriculture and Forestry of HoChiMinh City,
from april 2009 to november 2009. Aiming at determining upper hand waps species
for controlling house flies as well as the wasp complex which was able to against
house flies in natural condition.
In two species complex, result showed that S. nigroaenea and D.
hymalayanus complex was not able to conflict with S. endius. D. hymalayanus had
not capacity for competing against S. nigroaenea. When the host was parasited
firstly by S. endius, the opportunity of parasiting of S. nigroaenea was the less
succeeded. However S. nigroaenea would conflict and predominate towards D.
hymalayanus.
And in three species complex, parasited capacity would highly be a suscess
when host was only parasited by S. endius S. endius parasited host, but after two
species S. nigroaenea và D. hymalayanus. The more high rate S. nigroaenea
parasited the less late S. nigroaenea parasites towards S. endius và D. hymalayanus.
S. endius và S. nigroaenea were the upper hand between these research complex.
S. endius was number one in the natural condition for controlling house flies.
But D. hymalayanus was not.

v


MỤC LỤC

Trang
Lý lịch cá nhân .................................................................................................... i
Lời cam đoan...........................................................................................................ii
Lời cảm tạ................................................................. ........................................... iii
Tóm tắt .............................................................................................................. iv
Summary ............................................................................................................ v

Mục lục.............................................................................................................. vi
Danh sách các biểu đồ........................................................................................ ix
Chương 1. Mở đầu ............................................................................................ 1
1.1 Đặt vấn đề......................................................................................................1
1.2 Mục tiêu nghiên cứu ......................................................................................2
1.3 Đối tượng nghiên cứu ....................................................................................2
1.4 Yêu cầu..........................................................................................................2
1.5 Giới hạn của đề tài .........................................................................................2
Chương 2. Tổng quan ....................................................................................... 3
2.1 Một số nghiên cứu về Musca domestica.........................................................3
2.1.1 Đặc điểm sinh học của M. domestica......................................................... 3
2.1.2 Tình hình dịch ruồiM. domestica ở Việt Nam .............................................4
2.1.3 Phương pháp phòng trừ ruồi........................................................................5
2.2 Những nghiên cứu về ong ký sinh trong phòng trừ ruồi nhà...........................7
2.2.1 Đặc điểm sinh học của ong ký sinh…………….…...……………………… 7
2.2.2 Thành phần loài và tỷ lệ ký sinh của ong ký sinh trên nhộng ruồi nhà……10
2.2.3 Hiệu quả của việc sử dụng ong ký sinh trong phòng trừ ruồi nhà................12
2.3 Sự cạnh tranh của ong ký sinh......................................................................13
Chương 3. Nội dung và phương pháp nghiên cứu..........................................16
3.1

Thời gian ..................................................................................................16

3.2 Địa điểm ...................................................................................................16
3.3 Vật liệu thí nghiệm ...................................................................................16
3.3.1 Nhân nuôi ruồi nhà làm vật liệu thí nghiệm...............................................16
3.3.2 Nhân - nuôi ong ký sinh làm vật liệu thí nghiệm .......................................17
3.3.3 Xử lý - bảo quản mẫu vật và định danh .....................................................17
vi



3.4 Phương pháp nghiên cứu..............................................................................17
3.4.1 Ảnh hưởng của hai loài ong ký sinh S. nigroaenea và D. hymalayanus đối
với ong ký sinh S. endius ...........................................................................17
3.4.2 Ảnh hưởng của hai loài ong ký sinh S. endius và D. hymalayanus đối với
ong ký sinh S. nigroaenea .........................................................................18
3.4.3 Ảnh hưởng của hai loài ong ký sinh S. endius và S. nigroaenea đối với ong
ký sinh D. hymalayanus ............................................................................18
3.4.4 Ảnh hưởng của 3 loài ong ký sinh S. endius; S. nigroaenea và
D. hymalayanus ........................................................................................ 19
3.4.5 Khả năng kiểm soát ruồi nhà của bốn loài ong ký sinh S. endius;
S. nigroaenea; D. Hymalayanus và ong Tachinaephagus zealandicus ......19
3.4.6 Khảo sát khả năng kiểm soát ruồi nhà của tổ hợp 4 loài ong ký sinh
S. endius, S. nigroaenea, D. hymalayanus và T. zealandicus ....................20
Chương 4. Kết quả và thảo luận .....................................................................21
4.11Ảnh hưởng của hai loài ong ký sinh S. nigroaenea và D. hymalayanus lên sự
ký sinh của ong S. endius……………………………………….……………….21
4.2 Ảnh hưởng của hai loài ong ký sinh S. endius và D. hymalayanus lên sự ký
sinh của ong S. nigroaenea …………………………………………….....23
4.3 Ảnh hưởng của hai loài ong ký sinh S. endius và S. nigroaenea lên sự ký sinh
của ong D. hymalayanus………………………………………………….……..25
4.4 Sự cạnh tranh của ba loài ong ký sinh S. endius, S. nigroaenea và
D. hymalayanus ........................................................................................ 27
4.5 Khảo sát khả năng kiểm soát ruồi nhà của bốn loài ong ký sinh S. endius; S.
nigroaenea và D. Hymalayanus và Tachinaephagus zealandicus ..............29
4.6 Khả năng kiểm soát ruồi nhà của tổ hợp 4 loài ong ký sinh S. endius, S.
nigroaenea, D. hymalayanus và ong T. zealandicus. ................................ 30
Chương 5. Kết luận và đề nghị........................................................................31
5.1 Kết luận .......................................................................................................31
5.2 Đề nghị ........................................................................................................31


vii


DANH SÁCH CÁC BẢNG
Trang
Bảng 4.1: Ảnh hưởng của hai loài ong S. nigroaenea và D. hymalayanus
lên sự ký sinh của ong S. endius……………………………………….

21

Bảng 4.2: Ảnh hưởng của hai loài ong ký sinh S. endius và
D. hymalayanus lên sự ký sinh của ong S. nigroaenea..........................23
Bảng 4.3 Ảnh hưởngcủa hai loài ong ký sinh S. endius và
S. nigroaenea lên sự ký sinh của ong D. hymalayanus..........................25

viii


DANH SÁCH CÁC BIỂU ĐỒ
Trang
Biểu đồ 4.1: Tỷ lệ ký chủ vũ hóa thành ong ký sinh ở những tổ hợp ong
khác nhau .....................................................................................26
Biểu đồ 4.2: Tỷ lệ ký chủ vũ hóa thành từng loài ong ký sinh ở những tổ
hợp ong ký sinh khác nhau và đối chứng .....................................27
Biểu đồ 4.3: Tỷ lệ ký chủ vũ hóa thành ruồi và ký chủ bị hư ở
những tổ hợp ong ký sinh khác nhau và đối chứng......................28
Biểu đồ 4.4: Số lượng ruồi ở mỗi nghiệm thức sau khi kết thúc
thí nghiệm ......................................................................................29
Biểu đồ 4.5: Số lượng ruồi ở mỗi nghiệm thức sau khi kết thúc

thí nghiệm......................................................................................30

ix


Chương 1
MỞ ĐẦU
1.1 Đặt vấn đề
Ở nước ta, do khí hậu nóng ẩm quanh năm nên rất thích hợp cho quá trình
sinh sản của ruồi nhà. Đặc biệt là tại khu vực các bãi rác, khu sản xuất hải sản, nước
mắm, trại chăn nuôi gây ảnh hưởng đến môi trường sống của con người. Do vòng
đời của ruồi nhà ngắn, khả năng sinh sản mạnh, thời gian sống của thành trùng lâu
nên trong điều kiện khí hậu thích hợp như nước ta dễ dàng bùng phát dịch ruồi.
Biện pháp khống chế mật số ruồi nhà hiện nay chủ yếu là dùng thuốc hóa
học. Tuy nhiên biện pháp này gặp phải bất lợi là phun nhiều lần, gây ô nhiễm môi
trường, chi phí cao ảnh hưởng đến an toàn sức khỏe và dẫn đến tình trạng kháng
thuốc.
Với xu thế mới của toàn thế giới hiện nay, việc kiểm soát dịch hại bằng biện
pháp sinh học thay cho các loại hóa chất phun, xịt đã không còn là điều mới mẽ đối
với các nước phát triển. Công trình nghiên cứu sử dụng ong ký sinh để phòng trừ
ruồi nhà (Musca domestica Linnaeus) là một trong những công trình nghiên cứu đã
được phát triển rộng rãi tại các nước như Mỹ, Đức, Malaysia, Israel, Nhật Bản, Hàn
Quốc.
Ở Thành phố Hồ Chí Minh cũng xuất hiện một số loài ong ký sinh nhộng
ruồi nhà là: S. endius, S. nigroaenea, D. hymalayanus (Đỗ Nguyễn Hương Thảo,
2008). Một số tác giả đã bước đầu nghiên cứu về những tác nhân phòng trừ sinh học
này như: S. endius (Đỗ Nguyễn Hương Thảo, 2008), D. hymalayanus (Nguyễn
Ngọc Vi, 2009), S. nigroaenea (Phạm Thị Mỹ Hiệp, 2009). Tuy nhiên những
nghiên cứu này chỉ nghiên cứu đặc điểm hình thái, sinh học cũng như khả năng ký
sinh của mỗi loài ong trong điều kiện phòng thí nghiệm, chưa đánh giá khả năng

kiểm soát ruồi nhà trong điều kiện tự nhiên. Điều này hết sức cần thiết vì ngay trong
điều kiện tự nhiên đã xuất hiện những loài ong này nhưng dịch ruồi vẫn bùng phát.
-1-


Trong điều kiện tự nhiên, những loài ong này đã không thiết lập được quần thể đủ
để kiểm soát ruồi nhà. Nghiên cứu sự cạnh tranh của những loài ong này cũng như
xác định tổ hợp hay một loại ong nào có khả năng kiểm soát ruồi nhà một cách hiệu
quả là điều kiện cần thiết để áp dụng biện pháp sinh học này trong kiểm soát dịch
ruồi nhà. Vì vậy đề tài “Nghiên cứu sự cạnh tranh và khả năng kiểm soát ruồi
nhà của các tổ hợp ong ký sinh Spalangia endius, Spalangia nigroaenea và
Dirhinus hymalayanus” được thực hiện nhằm cung cấp thêm các thông tin khoa
học, có thể áp dụng trong việc sử dụng các thiên địch trong chương trình quản lý
dịch hại tổng hợp (IPM) để kiểm soát ruồi nhà.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
Xác định loài ong có ưu thế trong kiểm soát ruồi nhà và tổ hợp ong có khả
năng kiểm soát ruồi nhà trong điều kiện tự nhiên.
1.3 Đối tượng nghiên cứu
Ong ký sinh của ruồi nhà M. domestica.
1.4 Yêu cầu
Xác định được loài ong ký sinh chiếm ưu thế.
1.5 Giới hạn của đề tài
Các nghiên cứu về sự cạnh tranh được nghiên cứu trong điều kiện ổn định
của phòng thí nghiệm, nghiên cứu về sự kiểm soát ruồi nhà được thực hiện trong
nhà lưới Trại Thực nghiệm Khoa Nông học trường Đại học Nông Lâm Tp.HCM.

-2-


Chương 2

TỔNG QUAN
2.1 Một số nghiên cứu về Musca domestica
2.1.1 Đặc điểm sinh học của M. domestica
Ruồi nhà M. domestica thuộc bộ Diptera, họ Muscidae, giống Musca, loài
Domestica.
Ruồi phát triển tốt nhất trong mùa hè, hoàn thành vòng đời trong 7 - 10 ngày,
tùy nhiệt độ môi trường, mỗi năm vùng nhiệt đới có khoảng 30 thế hệ, vùng ôn đới
khoảng 10 thế hệ.
Trứng
Trứng hình bầu dục, dài khoảng 1,2 mm, màu trắng, đẻ thành từng cụm nhỏ.
Mỗi ruồi cái có thể đẻ 2000 trứng, trung bình khoảng 500 trứng và chia thành nhiều
đợt, mỗi đợt 75 - 150 trứng. Khoảng 3 – 4 ngày thành trùng đẻ trứng một lần và giai
đoạn đẻ trứng kéo dài khoảng 31 ngày (Stevenson và Cocke, 1997). Tổng luợng
trứng trung bình một ruồi cái sinh sản được trong vòng đời là 370,5 trứng ở thức ăn
là dung dịch sữa 50%, có từ 5 đến 7 lứa sinh sản và càng về những lứa sinh sản sau
thì số lượng trứng càng giảm (Phạm Thị Á Châu, 2007).
Ấu trùng
Trứng nở thành ấu trùng trong khoảng 8 - 12 giờ (tùy nhiệt độ). Ấu trùng ăn
những chất hữu cơ có độ ẩm cao ngay sau khi nở. Ấu trùng không chân, màu trắng
kem, hình trụ, đầu thon nhỏ có một móc màu đen, phần đuôi thường lớn hơn, trải
qua 3 tuổi (lột xác 3 lần), dài khoảng 3 – 9 mm, đẫy sức dài 8 – 12 mm, phát triển từ
4 - 6 ngày. Kích thước ấu trùng quyết định kích thước của thành trùng (Black và
Krafsur, 1985). Khi ấu trùng đẫy sức, chúng di chuyển đến nơi khô ráo để hóa
nhộng.

-3-


Nhộng
Nhộng dài khoảng 8 mm, màu sắc thay đổi: vàng, đỏ, nâu, đen, giai đoạn

nhộng khoảng 4 ngày. Giai đoạn nhộng kéo dài từ 3-4 ngày. Nhiệt độ có ảnh hưởng
đến sự phát triển của ruồi nhà. Trong khoảng nhiệt độ từ 20±1oC đến nhiệt độ
28±1oC, nhiệt độ càng tăng thì thời gian sống của nhộng càng rút ngắn. Nhiệt độ
28±1oC là điều kiện thích hợp nhất cho sự phát triển của ruồi nhà (Phạm Thị Á
Châu, 2007). Ruồi vũ hóa từ nhộng. Khi vũ hoá đầu thành trùng sẽ đục thủng vỏ
nhộng và chui ra ngoài (Black và Krafsur, 1985).
Thành trùng
Thành trùng màu xám, dài khoảng 6 - 7 mm, có 1 cặp cánh, ruồi cái thường
lớn hơn ruồi đực. Hai mắt kép to màu hơi đỏ, nhiều mắt đơn nhỏ, ngực có 4 sọc
màu trắng hướng lên 4 mạch cánh, bụng màu tro hoặc hơi vàng có đường giữa tối.
Miệng hút, ăn những chất lỏng có vị ngọt hay những chất bị thối rữa. Thành trùng
sống 15 - 25 ngày và có khả năng sinh sản lớn nhưng thường có tỷ lệ chết cao. Ruồi
thích ánh sáng, sợ tối, thích nơi ấm áp, sợ rét buốt (Black và Krafsur, 1985).
Con cái không thể đẻ trứng ngay sau khi giao phối mà phải mất 6 - 8 ngày
sau đó. Nước là chất thường ngày không thể thiếu của ruồi, ruồi sẽ chết nếu sau 48
giờ không hút nước.
Vì vòng đời ngắn và số trứng đẻ nhiều nên ruồi có thể nhanh chóng phát sinh
thành dịch ở những nơi thích hợp phát triển.
2.1.2 Tình hình dịch ruồi M. domestica ở Việt Nam
Hiện nay dịch ruồi đã xuất hiện nhiều nơi như: xung quanh bãi rác Đông
Thạnh, Hóc Môn, Tp. Hồ Chí Minh; phường Thạnh Xuân, Quận 12 xung quanh xí
nghiệp chăn nuôi Gò Sao; Khuê Mỹ, Đà Nẵng; xung quanh xí nghiệp chăn nuôi
Phước Long, Quận 9 và tại ấp Lợi Hà, Xã Thanh Bình, Trảng Bom, Đồng Nai và
Ấp 2, ấp 5 xã An Xuyên, Cà Mau cũng nằm trong tình trạng “sống chung với ruồi”
(Hoài Sơn, 2007); người dân xã Tân Lập, huyện Tân Phước, Tiền Giang phải chui
vào màn ăn cơm để tránh ruồi; khu vực bãi rác Khuổi Kép (Cao Bằng) nạn ruồi làm
đảo lộn cuộc sống của người dân, người dân thường gọi nơi đây là “xóm rừng ruồi”;
nhiều khu vực thuộc huyện Bình Chánh xung quanh bãi rác Đa Phước như xã
Phong Phú, xã Đa Phước, xã Quy Đức xuất hiện ruồi dày đặc, mật độ ruồi trong nhà
-4-



dân 10 - 50 con/m2, nơi chứa thức ăn, chứa rác gia đình là 100 - 200 con/m2; ở các
xã vùng Loan, huyện Đức Trọng (Lâm Đồng) ruồi phủ kín khắp các cánh đồng, nhà
cửa, ruồi đậu đặc kín trên mọi vật dụng, người dân phải ăn cơm trong mùng. Nhiều
gia đình dùng thuốc xịt để diệt ruồi với số lượng ruồi diệt được mỗi ngày lên đến
một vài kg, nhưng ruồi vẫn dày đặc, khu vực ruồi nhiều nhất là các cụm dân cư
quanh cánh đồng chè của Công ty trà Đà Loan do công ty này bón phân hữu cơ (bã
mía, phân gà) cho vườn chè Ô Long nên ruồi tập trung về nhiều, sinh sản dày đặc.
2.1.3 Phương pháp phòng trừ ruồi
Biện pháp cơ học - Vệ sinh môi trường
Làm mất, làm giảm nơi đẻ trứng của ruồi.
Không để ruồi tiếp xúc với thức ăn, đồ dùng và con người.
Theo Bs. Vũ Hướng Văn, có thể diệt ruồi bằng cách bẻ gãy các giai đoạn
phát triển của chúng như sau:
Diệt ruồi: dùng vỉ đập, bẫy bằng chai thủy tinh (đổ nước vào 2/3 chai và bôi
đường mật vào bên trong miệng chai), bẫy lưới có chất dẫn dụ, bẫy dính, bẫy đèn.
Diệt trứng: vệ sinh môi trường, triệt nơi sinh sản của ruồi, vệ sinh chuồng
trại tốt, trong sản xuất nông nghiệp không để nguồn phân tồn đọng, trữ phân đúng
cách.
Diệt giòi: làm môi trường sinh sống của giòi trở nên khô ráo, chuồng trại
phải có hệ thống thoát nước tốt, rác thải, chất thải hữu cơ cần xử lý đúng cách như
chôn sâu ít nhất 20 cm, phủ đất lên trên rồi nện chặt để hạn chế ấu trùng nở, dùng
vôi bột, đất bột khô, cát khô, than xỉ đổ vào nơi có nhiều giòi hoặc dùng lá xoan (vò
nát ngâm vào nước 40 - 60 phút) đổ vào nơi có giòi.
Diệt nhộng: nhộng ruồi chỉ phát triển được ở lớp đất xốp, bởi vậy cần đầm
nén chặt đất xung quanh nhà tiêu, chuồng gia súc, láng vôi, xi măng, lát gạch.
Biện pháp vật lý
Sử dụng những loại bẫy ruồi như: bẫy dính (dạng khô hoặc dạng ướt, bẫy có
thêm mật, đường, trái cây hoặc thịt kết hợp với chất dính để giữ ruồi và được thay

mới sau khoảng 2 - 4 ngày sử dụng), bẫy điện (sử dụng các chất hấp dẫn ruồi đến ăn
và bị dính vào các chất dính hoặc bị điện giật chết), hoặc bẫy đèn bằng tia cực tím

-5-


(có thể sử dụng để ước lượng mật độ quần thể ruồi, thường được sử dụng ở các nhà
hàng). Bẫy ruồi dùng được cả trong nhà và ngoài trời.
Biện pháp dân gian
Đặt vài cây cà chua trong phòng; đặt vài cọng hành sống lên mặt thức ăn để
tránh ruồi đậu lên; đặt ở cửa ra vào một số cây tỏa hương về đêm như cây bạc hà;
cho nước sạch vào các túi nylon, treo trong nhà.
Các biện pháp cơ học, vệ sinh môi trường, biện pháp vật lý có ưu điểm là
hạn chế dùng thuốc hóa học, không ảnh hưởng đến sức khỏe con người và môi
trường, ít gây hại thiên địch nhưng nếu chỉ sử dụng một cách riêng lẻ thì hiệu quả
không cao, đặc biệt là khi đã xảy ra dịch ruồi.
Biện pháp hóa học
Dùng bả diệt ruồi, phun hóa chất nơi ruồi đẻ trứng, phun trực tiếp diệt thành
trùng. Hóa chất thường sử dụng là các hợp chất nhóm pyrethroid:
alphacypermethrin, cyfluthrin, deltamethrin, permethrin, lambdacyhalothrin (Bs.
Nguyễn Võ Hinh).
Carlson và Beroza (1973) cho rằng các bẫy đường có thêm 0,5 mg
muscalure (pheromone giới tính) thì hiệu quả diệt ruồi cao gấp 7 lần. Theo
Chapman và ctv (1998) phần lớn các bả độc bẫy ruồi hiện nay đều có chứa
muscalure.
Cyromazine (N - cyclopropyl - 1, 3, 5 - triazine - 2, 4, 6 - triamine) là chất
điều hòa sinh trưởng cũng được sử dụng để phòng trừ ruồi (Crespo và ctv, 2002).
Tuy biện pháp hóa học diệt ruồi nhanh, được sử dụng rộng rãi nhất là khi có
dịch nhưng phải hạn chế vì những bất lợi nếu sử dụng lâu dài như: hình thành tính
kháng thuốc trong quần thể ruồi làm hiệu quả phòng trừ giảm trong khi giá thuốc

tăng, gây ô nhiễm nguồn nước tự nhiên, nước sinh hoạt, có khi còn để lại dư lượng
thuốc trong các sản phẩm chăn nuôi như thịt, sữa gây hại cho người, động vật, thiên
địch và môi trường sống (Nguồn www.fly control.co.za/muscidifurax.htm).
Biện pháp đấu tranh sinh học
Phòng trừ sinh học là sử dụng côn trùng ký sinh, động vật ăn thịt, nấm hoặc
quần thể cạnh tranh với dịch hại (thiên địch) để duy trì quần thể dịch hại ở mức thấp
hơn trung bình, làm giảm thiệt hại (De Bach, 1964). Phòng trừ ruồi bằng cách sử
-6-


dụng ong ký sinh có nhiều thuận lợi hơn sử dụng thuốc trừ sâu, chi phí ít hơn (tính
cả chi phí cho sức khỏe và môi trường) (Andress và Campbell, 1994).
Các thiên địch thường được dùng trong đấu tranh sinh học ruồi nhà còn có:
nấm Metarhizium anisopliae, Beauveria bassiana, nấm ký sinh Entomophthora
muscae. Chúng gây chết phổ biến trên quần thể ruồi trưởng thành. Tuyến trùng
Paraiotonchium musca domesticae cũng là một tác nhân phòng trừ sinh học đầy
hứa hẹn trên nhộng ruồi nhà xung quanh các trang trại chăn nuôi gà (Geden và ctv,
1992).
2.2 Những nghiên cứu về ong ký sinh trong phòng trừ ruồi nhà
2.2.1 Đặc điểm sinh học của ong ký sinh
Ong ký sinh thuộc bộ cánh màng, thường tấn công ruồi vào giai đoạn nhộng
và thường là loài đơn ký sinh (Axtell và Rutz, 1986). Ong ký sinh nhộng ruồi nhà
ngoài tự nhiên gồm họ Chalcididae (Hymenoptera: Pteromalidae) và nhiều loài khác
trên khắp thế giới. Trong số đó có một số loài quan trọng như Muscidifurax spp.,
Spalangia spp., Ichneumonids spp. (Geden và ctv, 1992).
Thường trên mỗi nhộng bị ký sinh chỉ vũ hóa 1 cá thể ong nhưng có một số
loài vũ hóa nhiều hơn như N. vitripenis vũ hóa 7 - 10 cá thể (Axtell, 1986). S.
cameroni cũng đẻ nhiều trứng, loài này có thể phân biệt giữa ký chủ đã bị ký sinh
và chưa bị ký sinh. Thường ong ký sinh chọn những ký chủ chưa bị ký sinh để đẻ
trứng. Mỗi ong ký sinh có thể đẻ 25 trứng trong suốt đời sống. Điểm hạn chế của

loài này là chỉ tìm thấy nhộng nằm trên bề mặt khoảng 5 cm, nó phân bố khắp nước
Mỹ và hoạt động chủ yếu vào mùa hè cho đến mùa thu ở Bắc California. Ở Bắc
California nhiều thí nghiệm cho thấy những nhộng xuất hiện trên gần bề mặt và trên
các vật liệu tương đối khô thường bị ký sinh bởi M. raptor, nhộng nằm ở độ sâu
tương đối sâu thì thích hợp hơn cho loài S. cameroni. Ở Bắc Florida quản lý việc
phóng thích S. endius cho thấy loài này ký sinh thành công cả những nhộng nằm
trên lẫn dưới mặt đất.
Theo Clifford và ctv thì loài S. nigroaenea ký sinh nhộng ruồi nhà và ruồi
Haematobia irritans ở Mississippi có tuổi thọ đực cao hơn cái, tỷ lệ giới tính là 1:1.
Khi nhộng chuyển sang màu đen và cứng thì ong cái không ký sinh. Ấu trùng vừa
nở đã tấn công ký chủ để dinh dưỡng. Thời gian vũ hóa từ 25 – 37 ngày (ở 23,3 –
-7-


26,1oC). Ong cái hơi lớn hơn ong đực một chút, bụng thon dài và hẹp hơn, ong đực
nhỏ hơn, bụng ngắn và tròn hơn. Kích thước của thành trùng thường cân xứng với
nhộng ký chủ. Khi ký sinh nhộng ruồi nhà thì vũ hóa ra cá thể ong có kích thước to
gấp 2 lần so với ký sinh nhộng ruồi H. irritans. Ong trưởng thành bò nhanh nhưng ít
bay khi vừa vũ hóa, sau vũ hóa 2 ngày chúng bay rất nhanh, ong có tính hướng
sáng, đặc tính này giúp cho việc thu thập ong thành trùng trong nhân sinh khối với
số lượng lớn. Kỹ thuật nuôi riêng từng cá thể được sử dụng để sản xuất ong cái
trinh khiết. Tiềm năng sinh học của S. nigroaenea cao, 1 ong cái có thể ký sinh 8 20 nhộng.
M. raptor được bán phổ biến để phòng trừ ruồi nhà, nó phân bố khắp nước
Mỹ, xuất hiện suốt năm và đẻ khoảng 100 trứng trong suốt đời sống. Loài S. endius
cũng phân bố khắp nước Mỹ, con cái đẻ trung bình 34 trứng trong suốt đời sống và
có khả năng tìm kiếm nhộng ở độ sâu khoảng 2 - 13 cm, loài này cũng hoạt động
suốt mùa hè và mùa thu ở Bắc Carolina (Mann và ctv, 1990).
M. raptor, S. nigroaenea, S. endius, N. vitripennis đã được dùng rộng rãi.
Spalangia spp. có thể tìm thấy nhộng nằm sâu khoảng 5 cm, có khi đến 10 cm. Điều
kiện quá ẩm hoặc khô sẽ ảnh hưởng đến sự phân bố của S. cameroni và S. endius.

S. endius hoạt động ở nhiệt độ thấp hơn và tuổi thọ cũng dài hơn so với các loài
khác trong cùng một giống (Morgan và Patterson, 1989). Loài S. cameroni ký sinh
cao đối với nhộng được vùi dưới sâu, nó xuất hiện ở bất kỳ ẩm độ nào. Còn S.
nigroaenea thích hợp với nguồn nhộng nơi ẩm ướt (King 1997; Geden, 2002).
Trong phòng trừ ruồi nhà loài S. cameroni ký sinh hiệu quả hơn M. raptor vì tấn
công được nhộng ở bất kỳ độ sâu và độ tuổi nào (King, 1997). Muscidifurax sp. tấn
công nhộng ở độ sâu khoảng 13cm hoặc thấp hơn, ở nguồn phân khô và ẩm. Loài
M. raptor và M. zaraptor ký sinh kém vào mùa nóng, khô.
M. raptor được tìm thấy từ nguồn nhộng ở các hầm phân heo ở tỉnh Postdam,
Đức, nó là một loại ong ký sinh nhỏ, kích thước từ 1,5 - 2,3 mm. Ong cái đẻ trứng
vào nhộng và mỗi nhộng chỉ vũ hóa thành 1 ong sau khoảng 17 ngày. M. raptor ký
sinh chủ yếu trên nhộng ruồi nhà (Coch, 1981).
Theo Lê Tuấn Khả (2006) M. raptor thuộc kiểu biến thái hoàn toàn, quá
trình phát dục trải qua 4 giai đoạn: trứng, ấu trùng, nhộng và trưởng thành. Ấu trùng
-8-


sống trong cơ thể ký chủ, lấy thức ăn trực tiếp từ ký chủ, chỉ có 1 cá thể ong vũ hóa
từ 1 ký chủ. Trong 24 giờ 1 ong cái có thể tấn công tối đa 20 nhộng 1 ngày tuổi, 25
nhộng 4 ngày tuổi, tỷ lệ đực cái khi cho ong cái tiếp xúc với nhộng 1 ngày tuổi là
cao nhất. Khả năng sinh sản tập trung vào những ngày đầu tiên sau vũ hóa, đặc biệt
là ngày thứ nhất và thứ hai. Tỷ lệ vũ hóa rất cao 97,71%, tỷ lệ đực: cái là 1,04:1.
Thời gian phát triển phụ thuộc vào nhiệt độ. Trong khoảng nhiệt độ khảo sát thì
nhiệt độ càng cao, thời gian phát triển của ong càng ngắn lại, thấp nhất là 15 ngày
(ở 28oC) và cao nhất là 44 ngày (ở 23oC). Ở 28oC tuổi thọ ong cái có và không có
hoạt động ký sinh tương đương nhau. Thức ăn thích hợp là mật 30%. Tuổi thọ ong
cái cao hơn ong đực. Ong vũ hóa trong 4 - 5 ngày, nhiều nhất là ở ngày 15, 16, 17
sau khi tiếp xúc nhộng, ong tập trung vũ hóa vào buổi sáng, chỉ có một số ít vũ hóa
vào buổi trưa và chiều.
Theo Đỗ Nguyễn Hương Thảo (2008): S. endius chiếm ưu thế hơn so với

S. nigroaenea và D. hymalayanus trong các mẫu điều tra tại Tam Hà, Thủ Đức,
Thành phố Hồ Chí Minh. Ong S. endius là côn trùng biến thái hoàn toàn. Thời gian
đẻ trứng khoảng 20 phút. Trứng phát triển trong ký chủ 1 ngày, ấu trùng từ 8 - 10
ngày, nhộng từ 5 - 7 ngày, sau vũ hóa thành trùng sống 19 - 34 ngày. Khi nhân nuôi
nên sử dụng nhộng 1 - 2 ngày tuổi, và tỷ lệ ong: nhộng là 1ong: 30 nhộng. Khi tiến
hành phóng thích nên sử dụng tỷ lệ ong: nhộng là 1:10, 1:20 hay 1:30. Loài S.
endius có khả năng ký sinh ngay sau khi vũ hóa, khả năng ký sinh giảm khi tuổi thọ
tăng và 48 giờ sau vũ hóa khả năng ký sinh của ong cao nhất (59 - 60%). Ong S.
endius cái sinh sản theo kiểu đơn tính Arrenotokia, ong cái không giao phối ký sinh
chỉ vũ hóa ra giới tính đực.
Theo Nguyễn Ngọc Vi (2009): ong D. hymalayanus có đặc tính nội ký sinh
và đơn ký sinh, ký sinh cao khi sử dụng nhộng 1 ngày tuổi với tỷ lệ 1 ong: 30
nhộng. Trung bình trong 38 ngày sau vũ hóa 1 ong cái ký sinh và vũ hóa thành công
khoảng 187 cá thể, trong đó có khoảng 150 ong cái. Tuổi thọ ong cái có hoạt động
giao phối cao hơn không hoạt động giao phối, thức ăn thích hợp là mật 30%. Tuổi
thọ ong đực có hay không giao phối đều tương đương nhau, tuổi thọ ong cái cao
hơn ong đực. Khả năng ký sinh của D. hymalayanus giảm dần theo độ sâu, ký sinh
cao ở độ sâu 0 - 3 cm.
-9-


Theo Phạm Thị Mỹ Hiệp (2009): ong S. nigroaenea là loài ong có đặc tính
nội ký sinh và đơn ký sinh, mỗi nhộng bị ký sinh chỉ vũ hóa ra một cá thể ong.
S. nigroaenea cái sinh sản kiểu đơn tính Arrenotokia, khi không được giao phối thì
ký sinh chỉ vũ hóa ra giới tính đực. Tỷ lệ ký sinh của ong cái không giao phối cao
hơn ong cái có giao phối. Hiệu quả ký sinh cao khi cho ong đã vũ hóa 2 ngày tiếp
xúc với nhộng 1 ngày tuổi và tỷ lệ ong ký sinh/nhộng là 1/30. Trong suốt thời gian
sống, một ong ký sinh cái có thể ký sinh thành công cho ra từ 40 đến 126 ong ở thế
hệ sau, trung bình là 73 con, trong đó có 55 con cái và kiểm soát khoảng 360 nhộng
ruồi. Tuổi thọ của ong S. nigroaenea trung bình khoảng 11 ngày.

2.2.2 Thành phần loài và tỷ lệ ký sinh của ong ký sinh trên nhộng ruồi nhà
Có 8 loài ong ký sinh được tìm thấy tại Úc bao gồm: S. cameroni, S. endius,
S. nigroaenea, S. nigra, M. raptor, Pachycrepoideus vindemmiae, D. himalayanus,
N. vitripennis. Trong đó Spalangia sp. chiếm ưu thế hơn cả, giết 27% nhộng. Nhộng
ruồi nhà thu từ bên ngoài thường có khoảng 46% đã bị kí sinh. Các loại ong chiếm
ưu thế là S. cameroni (58%), Muscidifurax sp. (36%). Và một số ong khác như S.
endius và S. nigroaenea (Green và ctv, 1989). Petersen và Meyer (1983) tìm thấy
31% nhộng ruồi nhà và ruồi S. calcitrans bị ký sinh bởi S. nigroaenea Đông
Nebraska. Người ta còn phát hiện ra loài ong ký sinh S. nigroaenea tại Cachoeira
Dourada và Itumbiara (Brazil). S. nigroaenea thích nghi ở điều kiện nhiệt độ trung
bình. Theo Klunker (1994) khi điều tra nhộng ruồi nhà bị ký sinh tại Land
Brandenburg, trong những năm 1987 - 1990. Kết quả là tỷ lệ ký sinh có thay đổi
nhiều giữa các mùa trong năm, cao nhất là 47%, tỷ lệ ruồi vũ hóa thấp nhất là 7%.
Loài ong chiếm ưu thế là M. raptor, S. cameroni và S. nigroaenea. Ngoài ra còn có
loài S. nigra, S. subpunctata, N. vitripennis và cả ấu trùng của Aleochara spp.
nhưng rất hiếm. Xuất hiện hiện tượng ký sinh bậc hai (8,1% tổng số ký sinh) và
nhiều nhất là trên M. raptor. Xuất hiện hiện tượng đa ký sinh (trên 12,8%) tổng số
ký sinh. Meyer và ctv (1990) ghi nhận nhộng thu được từ hai vùng sản xuất sữa ở
miền Nam California thì Spalangia spp. chiếm 74,3% và Muscidifurax spp. chiếm
19,6%.
Mann và ctv (1990) tìm thấy trên nhộng ruồi có 4 loại ong ký sinh là M.
raptor, M. zaraptor, S. cameroni và S. endius. Theo Rueda và ctv (1997) 5 loài
- 10 -


thuộc bộ cánh màng ký sinh trên nhộng ruồi nhà là: S. nigroaenea, S. nigra, M.
raptor, P. vindemiae và N. vitripennis (loài phổ biến nhất là S. nigroaenea và M.
zaraptor). Trong đó 4 loài S. nigroaenea, S. nigra, M. raptor, P. vindemiae được
tìm thấy trên nhộng ruồi Stomoxys calcitrans L. và ruồi Chrysomya megacephala,
còn 2 loài S. nigroaenea và P. vindemiae được tìm thấy trên nhộng ruồi Phaenicia

sericata (Meigen). S. nigroaenea là loài phổ biến nhất ở xung quanh chuồng trại
chăn nuôi gia súc, xung quanh bãi rác thải.
Sulaiman và ctv (1990) tìm thấy 9 loài ký sinh nhộng ruồi nhà. Trong đó
Spalangia sp. là giống phổ biến nhất bao gồm: S. endius, S. cameroni, S. gemina,
S. nigroaenea và 2 loài chưa định danh được. Hai loài khác là P. vindemmiae,
D. himalayanus và 1 loài chưa định danh được thuộc bộ Hymenoptera. Chúng ký
sinh trên ký chủ là nhộng của các loài ruồi sau: M. domestica, Chrysomya
megacephala, Fannia sp. và Ophyra sp. Trong đó S. endius là loài phổ biến nhất tấn
công M. domestica và C. magacephala tại các bãi rác.
Tại Florida loài ong xuất hiện phổ biến là S. cameroni, sau đó là S. endius và
M. raptor. Ngoài ra còn một số loài khác như N. vitripenis và S. nigroaenea (Geden
và Hogsette, 2006). D. hymalayanus và S. nigroaenea là côn trùng nội ký sinh
nhộng ruồi nhà, được ghi nhận đầu tiên ở Saudi Arabia. Trong đó S. nigroaenea là
loài phổ biến nhất đạt 93% trong tổng số ong ký sinh. Một loài ký sinh khác nữa là
N. vitripennis, đẻ nhiều trứng trên nhộng ruồi nhưng hiếm gặp ngoài tự nhiên
(Dabbour, 1983).
Simmonds (1973) cho rằng Dirhinus sp. tấn công được cả nhộng ruồi đục
trái. Greene và ctv (1998) cho rằng S. nigroaenea là tác nhân phòng trừ sinh học
ruồi nhà ở Western Kansas cần được nhân sinh khối và phóng thích. Tỷ lệ ký sinh
khoảng 23 - 58%, tùy thuộc vào tỷ lệ ký sinh và ký chủ. Loài ong này giết chết
nhộng không chỉ bằng cách đẻ trứng vào mà còn bằng cách dinh dưỡng trực tiếp.
Người ta đã nghiên cứu đánh giá hiệu quả phòng trừ khi sử dụng các tỷ lệ ong:
nhộng khác nhau. Kết quả là S. nigroaenea hình thành tốt khi mật độ ong thay đổi
còn mật độ ký chủ được giữ cố định, nếu tỷ lệ ký sinh: ký chủ thay đổi trong
khoảng 1:5 đến 1:50 thì tỷ lệ 1:20 cho hiệu quả ký sinh cao nhất.

- 11 -


2.2.3 Hiệu quả của việc sử dụng ong ký sinh trong phòng trừ ruồi nhà

Muscidifurax sp. là tác nhân sinh học đáng chú ý để phòng trừ ruồi nhà vì dễ
nhân nuôi, khả năng sinh sản cao, thời gian phát triển ngắn (Geden và Hogsette,
2006). Ong ký sinh đã được phóng thích với số lượng lớn và làm giảm quần thể ruồi
đáng kể, cũng có vài trường hợp thất bại nhưng nguyên nhân thành công và thất bại
vẫn chưa làm rõ (Geden và ctv, 1992). S. cameroni có tiềm năng phòng trừ ruồi nhà
và ruồi S. calcitrans. Loài này thường chọn nhộng còn sống để ký sinh, và phòng
trừ ruồi khá thành công ở các trang trại chăn nuôi tại Đan Mạch (Skovgard và
Jespersen, 2000). S. nigroaenea được quan tâm, đưa ra khuyến cáo sử dụng để ngăn
chặn quần thể ruồi nhà tại các trang trại sản xuất sữa ở Saudi Arabia (Alahmed,
1999).
Có nhiều nghiên cứu về kiểm soát sinh học trên ruồi nhà và ruồi S. calcitrans
bằng cách phóng thích ong S. cameroni (Skovgard và Nachman, 2004). M. raptor
và S. nigroaenea đã được dùng để phòng trừ ruồi S. calcitrans ở Nebraska (Andress
và Campbell, 1994) và đã được thương mại với số lượng lớn (Andress và Campbell,
1994). N. vitripennis cũng có hiệu quả phòng trừ ruồi nhà và ruồi S. calcitrans ở các
trang trại chăn nuôi ở Nebraska (Peterson và ctv, 1983).
Việc phóng thích ong M. raptorellus và S. cameroni tại Kogan và Legner đã
làm quần thể ruồi nhà đáng kể (Geden và Hogsette, 2006). Phương pháp đấu tranh
sinh học đã có nhiều ứng dụng như sử dụng S. endius ở Florida, M. raptor ở
NewYork và S. nigroaenea ở Illinois (Geden và ctv, 1992).
Morgan và ctv (1989) đã phân tích khả năng thành công khi phóng thích ong
ký sinh ra tự nhiên. Sau đó Andress và Campbell (1994) phóng thích ong M. raptor


S. cameroni để phòng trừ ruồi rác S. calcitrans tại các trang trại chăn nuôi gia

súc và trại sữa trong năm 1990 và 1991 và đạt hiệu quả ký sinh cao.
Lần đầu tiên ở Úc, loài ong ký sinh trên nhộng ruồi thuộc giống Spalangia
được nhân sinh khối và đem ra thương mại. Nhà côn trùng học Dan Papacek đã
nuôi chúng trong suốt 4 năm qua tại phòng thí nghiệm với số lượng lớn để phóng

thích ra các trang trại chăn nuôi công nghiệp.

- 12 -


Nhiều công ty cung cấp côn trùng ký sinh để phòng trừ ruồi ở các trại chăn
nuôi. Ví dụ loài ong ký sinh S. nigroaenea được dùng để phòng trừ ruồi nhà và ruồi
S. calcitrans. Giống Muscidifurax (M. zaraptor và M. raptor) thường tấn công
nhộng ruồi nhà trong khi giống Spalangia (S. nigra, S. cameroni, S. endius) thường
tấn công nhộng ruồi S. calcitrans (Lee Townsend, 2007). S. endius và N. vitripennis
được bán để phóng thích và phòng trừ ruồi ở các trang trại tại Kansas nhưng khả
năng thiết lập quần thể của chúng kém có thể là do điều kiện tự nhiên không thích
hợp. Có 2 nhóm ký sinh nhộng xuất hiện trong tự nhiên ở Kansas là Spalangia sp.
và Muscidifurax sp. Đối với giống Spalangia thì S. nigroaenea trội hơn so với S.
cameroni. Đối với giống Muscidifurax thì loài M. zaraptor và M. raptor có cùng tỷ
lệ. Loài S. nigroaenea thích nghi tốt trong điều kiện tự nhiên ở Kansas, được tìm
thấy trên nhộng ruồi nhà và ruồi S. calcitrans (Greene và ctv, 1998).
Khi phóng thích ong ký sinh tại các trang trại ở Texas thì có dưới 15%
nhộng ruồi bị ký sinh, Spalangia sp. và Muscidifurax sp. chiếm tỷ lệ cao nhất và
loài ký sinh hiệu quả nhất là S. cameroni (41%), S. nigroaenea (17 %), S. endius
(14%), M. raptor và M. zaraptor (5%). Loài có khả năng thiết lập quần thể tốt tại
các trang trại chăn nuôi ở Texas là: M. zaraptor, M. raptor, S. nigroaenea, S.
endius, S. cameroni. Loài có khả năng thiết lập quần thể kém là N. vitripennis,
Urolepis rufipes, S. nigra, P. vindemiae.
2.3 Sự cạnh tranh của ong ký sinh
Sự cạnh tranh cùng loài
Nếu nhiều loài cùng phát triển đến khả năng chịu đựng K của môi trường thì
sự thiếu thức ăn sẽ trở thành yếu tố giới hạn. Lúc đó, cá thể nào có đặc điểm khác
biệt nhất trong quần thể sẽ ít bị cạnh tranh hơn. Do đó, sự cạnh tranh trong cùng
một loài sẽ làm tăng tính đa dạng của quần thể, nhằm giảm thiểu sự cạnh tranh giữa

các cá thể. Thí dụ sự tạo nên biotype của rầy nâu Nilaparvata lugens để khai thác
một giống lúa kháng rầu nào đó vừa mới được đưa vào canh tác trong khu vực. Thí
dụ điển hình nhứt có lẽ là sự đa dạng hóa ở các loài côn trùng có biến thái hoàn
toàn. Trong khi ấu trùng sống trong nước và ăn chất hữu cơ thì thành trùng của một
số loài muổi thuộc họ (Culicidae, Diptera) bay trong không khí và chích hút máu
con người và động vật. Nhờ đó chúng có thể sống và duy trì được mật số cao trong
- 13 -


cùng một môi trường. Để được như thế thành trùng phải tìm nguồn thức ăn dồi dào
để đẻ trứng và ấu trùng thích nghi để biến thành cái máy ăn và chuyển hóa năng
lượng thật nhanh và hiệu quả trước khi nguồn thức ăn đó bị phân hủy. Người ta chia
ra hai hình thức cạnh tranh trong cùng loài:
- Cạnh tranh độc chiếm
Cá thể nào chiếm được ưu thế sẽ chiếm lấy tất cả những gì mà chúng cần và
cá thể kia phải chấp nhận những gì còn lại. Quần thể có ưu thế sẽ phát triển cho đến
khi đạt khả năng chịu đựng K và duy trì ở đó qua thời gian vì có đủ thức ăn. Thí dụ
như ở loài côn trùng có xã hội và có lãnh thổ, mỗi cá thể thành trùng thường đánh
dấu lãnh thổ (thức ăn, ký chủ) của mình bằng kairomone để cho các loài đến sau
phải tránh xa. Các loài ong ký sinh sau khi đẻ trứng trên ký chủ thường để lại
kairomone cho các cá thể hoặc loài đến sau biết mà không tiếp tục đẻ trứng trên ký
chủ đó nữa, bảo vệ sự phát triển của ấu trùng bên trong.
- Cạnh tranh ôn hòa
Trong đó mỗi thành viên của quần thể cùng khai thác nguồn tài nguyên giới
hạn, và mật số của quần thể sẽ tăng và giảm theo chu kỳ.
Sự cạnh tranh khác loài
Hai loài cùng có điều kiện sinh thái rất giống nhau thì không thể cùng sống
chung lâu dài, bởi vì sớm hay muộn sự cạnh tranh về thức ăn sẽ đưa đến tuyệt
chủng hay di chuyển đến nơi khác của loài có khả năng cạnh tranh kém hơn. Thí dụ,
hai loài rệp cam Toxoptera aurantii và T. citricidus (Aphididae, Homoptera) không

thể cùng hiện diện như nhau trên một cây ký chủ. Rầy nâu Nilaparvata lugens và
rầy lưng trắng Sogatella furcifera cùng họ Delphacidae, cùng chích hút trên thân
cây lúa nên ít khi xuất hiện cả hai loài cùng lúc trên cùng một giống. Trái lại rầy
nâu và rầy xanh Nephotettis spp họ Cicadellidae cùng chích hút nhưng khác nơi trên
cây lúa nên vẫn thường thấy cả hai cùng lúc trên thân cây và lá của cây lúa.
Một thí dụ điển hình về sự cạnh tranh loại trừ của 3 loài ong ký sinh trên rệp
sáp Aonidiella aurantti (Diaspedidae, Homoptera) của cam quýt ở miền nam
California, Mỹ. Khi loài Aphytis lingnanensis (Encyrtidae, Hymenoptera) được du
nhaaph vào từ Địa Trung Hải thì nó loại trừ loài địa phương A. chrysomphali ký
sinh kém hiệu quả hơn. Sau đó, một loài khác du nhập từ Ấn Độ (A. Melinus) lại
- 14 -


×