Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Cảm nhận về tình bà cháu trong bài thơ bếp lửa của bằng việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (33.73 KB, 9 trang )

Cảm nhận về tình bà cháu trong bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt.

I.Mở bài:
- Bằng Việt thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ của
dân tộc ta. Thơ ông trong trẻo, mượt mà và tràn đầy cảm xúc, thường khai thác những kỉ

niệm thời thơ ấu và gợi những ước mơ của tuổi trẻ. “Bếp lửa” là bài thơ in đậm dấu ấn
phong cách nghệ thuật độc đáo ấy. Ra đời năm 1963, khi tác giả đang là sinh viên học tập
ở nước ngoài, thi phẩm là dòng kỉ niệm xúc động về người bà và tình bà cháu, thể hiện
lòng kính yêu trân trọng, biết ơn của người cháu đối với bà, cũng là đối với gia đình, quê
hương, đất nước.
II. Thân bài:
1.Khái quát ( Dẫn dắt vào bài):
- Là một trong những sáng tác đầu tay của Bằng Việt, “Bếp lửa” được đánh giá là một bài
thơ hay về tình bà cháu. Tình cảm ấy thể hiện qua dòng hồi tưởng của người cháu về
những năm tháng tuổi thơ với biết bao kỉ niệm. Mỗi kỉ niệm lại được bao bọc trong một
nỗi nhớ thương vừa dâng trào, vừa sâu lắng.
2. Phân tích, cảm nhận:
- Mở đầu bài thơ là hình ảnh bếp lửa lung linh, chập chờn:


Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.

Ba tiếng “một bếp lửa” được nhắc lại hai lần, trở thành điệp khúc da diết ngay từ những
dòng thơ đầu tiên. “Bếp lửa chờn vờn sương sớm” là hình ảnh quen thuộc đối với mỗi gia
đình Việt Nam trước đây. Bếp lửa thật ấm áp giữa cái lạnh chờn vờn “sương sớm”,thật
thân thương với bao tình cảm “ấp iu nồng đượm”.Từ láy“chờn vờn” rất thực như gợi nhớ,
gợi thương đến dáng hình bập bùng của ngọn lửa, mờ ảo trong làn sương buổi sớm. “Ấp
iu” gợi bàn tay kiên nhẫn, khéo léo và tấm lòng chi chút của người nhóm bếp. Hình ảnh


bếp lửa hiện lên huyền ảo, hình ảnh người bà hiện ra tảo tần – bà đã chịu đựng bao“nắng
mưa” để nuôi cháu thành người. Nhớ về bà, cảm xúc của cháu được gọi thành tên: “Cháu
thương bà biết mấy nắng mưa”.Vậy nên, trong tâm tưởng của người cháu nơi xa, sự xuất
hiện của hình ảnh bếp lửa đã khơi gợi mạch nguồn cảm xúc để cháu nhớ về bà, nhớ về
tình bà cháu. Bếp lửa gợi dậy cả một ký ức của tuổi ấu thơ – như một thước phim quay
chậm tất cả đã ùa về:

Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy


Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay.

Mùi khói cay nhèm của bếp rơm, bếp rạ đã đi vào kí ức của Bằng Việt từ những ngày còn
thơ bé. Đó cũng là một tuổi thơ cay cực gắn liền với gian đoạn đau thương, khủng khiếp .
Đau thương bởi bóng đen ghê rợn của nạn đói năm 1945.Trong làn khói sương của kỉ
niệm, nhà thơ nhớ lại những kí ức bi thương nhất. Đó là cái “đói mòn đói mỏi”,hình
ảnh “khô rạc ngựa gầy” của hơn hai triệu người dân ở làng quê Việt Nam, là dáng hình
của người cha trong lao động vất vả. Song, cũng chính trong khoảng thời gian ấy, bếp lửa
vẫn cháy sáng,vẫn ấm nóng nồng đượm bởi tình bà. Cảm xúc hiện tại, kỉ niệm năm xưa
hòa lẫn “Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay”.
Đó còn là kỉ niệm về người bà lụi cụi, chắt chiu, nhóm lên ngọn lửa ấm ấp để nuôi
dưỡng, bao bọc, chở che cho đứa cháu:
Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Tu hú kêu bà con nhớ không bà?

Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế

Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
Mẹ cùng cha công tác bận không về


Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?

Tám năm sống cùng bà là tám năm cháu nhận được sự yêu thương, che chở, dưỡng nuôi
tâm hồn từ tấm lòng bà – “bà bảo cháu nghe, bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học”. Cảm
ơn cái công ơn ấy, người cháu càng thương bà: “Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó
nhọc”. Bà và bếp lửa là chỗ dựa tình thần, là sự chăm chú, đùm bọc dành cho cháu. Bếp
lửa của quê hương, bếp lửa của tình bà lại gợi thêm một kỉ niệm của tuổi thơ – kỉ niệm
gắn với tiếng chim tu hú trên đồng quê mỗi độ hè về. Tiếng chim như giục giã, như k hắc
khoải một điều gì da diết khiến lòng người trỗi dậy những hoài niệm, nhớ mong. Đưa âm
thanh tiếng chim tuhú vào dòng hồi tưởng là một sáng tạo độc đáo của nhà thơ Bằng Việt
– nó khiến cho không gian kỉ niệm như có chiều sâu, và nỗi nhớ thương bà của cháu càng
trở nên thăm thẳm, vời vợi. Tiếng chim tu hú đã trở thành một mảnh tâm hồn tuổi thơ
cháu. Có thể nói, ngời sáng từ những dòng thơ là hình ảnh người bà tần tảo,giàu tình yêu
thương. Bà là cha, là mẹ của đứa cháu trong những năm tháng gian khổ.
Đọng lại trong kỉ niệm của người cháu là:

Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi


Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh

Đoạn thơ có sự kết hợp giữa tự sự và miêu tả, đã tái hiện một cách chân thực cuộc sống

đầy những mất mát, đau thương của dân tộc ta những năm chống Pháp. Và cũng thấm
thía tình làng nghĩa xóm đoàn kết, bao bọc lúc hoạn nạn, khó khăn. “Mẹ cùng cha công
tác bận không về”, cháu sống trong sự cưu mang, dạy bảo của bà, sớm có ý thức tự lập,
sớm phải lo toan. Điều khiến cháu xúc động nhất là một mình bà già nua, nhỏ bé đã
chống chọi để trải qua những năm tháng gian nan, đau khổ mà không hề kêu ca, phàn
nàn. Bà mạnh mẽ, kiên cường trong hoàn cảnh chiến tranh đạn lửa. Đặc biệt là lời dặn
cháu của bà đã làm ngời sáng vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam giàu lòng vị
tha, giàu đức hi sinh:

Mày có viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên

Vậy là bà đã gồng mình gánh vác mọi lo toan để các con yên tâm công tác. Bà không chỉ
là chỗ dựa cho đứa cháu thơ, là điểm tựa cho các con đang chiến đấu mà còn là hậu
phương vững chắc cho cả tiền tuyến, góp phần không nhỏ vào cuộc kháng chiến chung
của dân tộc. Bà thật là giàu lòng yêu thương.Chan chứa trong từng lời thơ, ta cảm nhận


một lòng biết ơn, niềm tự hào của đứa cháu đã trưởng thành khi nghĩ về người bà thân
yêu.
Từ những hồi tưởng về kỉ niệm tuổi thơ sống bên bà, người cháu đã suy ngẫm về bà, về
cuộc đời bà:
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm

Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ


Nếu từ đầu bài thơ, hình ảnh bà và bếp lửa song hành thì đến đây hoà vào làm một, nhòe
lẫn, tỏa sáng bên nhau. Những từ láy gợi cảm “lận đận, nắng mưa” kết hợp với cụm từ
chỉ thời gian “mấy chục năm rồi” và các phó từ “tận, vẫn” gợi tả một cách sinh động cuộc
đời gian nan, vất vả và sự tần tảo, đức hi sinh, chịu thương,chịu khó của bà. Từ
“nhóm” được nhắc lại nhiều lần với cả nghĩa gốc, nghĩa chuyển tạo cho đoạn thơ có
giọng điệu thiết tha, sâu lắng. Bà nhóm bếp lửa mỗi sớm mai là nhen lên tình yêu thương,
niềm vui sưởi ấm, sự san sẻ tình làng nghĩa xóm, những tâm tình, ước vọng của tuổi


thơ.Như vậy, có tới mười lần tác giả nhắc tới bếp lửa và hiện diện cùng hình ảnh ấy là
người bà – người phụ nữ Việt Nam muôn thưở giàu đức hi sinh. Bếp lửa là tình bà ấm
sáng, bếp lửa là bàn tay bà chăm chút, bếp lửa gắn với khó khăn,gian khổ đời bà. Chính
vì thế, nhà thơ đã cảm nhận được sự kì diệu thiêng liêng từ bếp lửa bình dị và quen
thuộc: “Ôi, kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”Bằng Việt đã phát hiện bếp lửa được bà nhen
lên không chỉ bằng nhiên liệu củi rơm mà còn được nhen lên trong ngọn lửa lòng bà,
ngọn lửa của sự sống, tình yêu thương, niềm tin bất diệt. Bởi vậy, từ hình ảnh bếp lửa, bài
thơ gợi đến hình ảnh ngọn lửa có ý nghĩa trừu tượng và khái quát:
Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dằng.

Tóm lại, bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa – truyền
cho cháu niềm tin, tình yêu thương để cháu vững vàng trong hành trình dài rộng của cuộc
đời.Với tất cả những ý nghĩa trên, hình ảnh người bà và bếp lửa đã trở thành điểm tựa và
nỗi nhớ khi cháu đi xa:
Giờ cháu đã đi xa, có ngọn khói trăm tàu,
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả,
Nhưng vẫn chẳng bao giờ quên nhắc nhở:
- Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa ?



Điệp từ “trăm” mở ra một thế giới rộng lớn với bao điều mới mẻ. Tuổi thơ đã lùi xa, đứa
cháu nhỏ năm xưa giờ đã lớn khôn, đã được chắp cánh bay xa đến những chân trời cao
rộng có “ khói trăm tàu”,”lửa trăm nhà”,”niềm vui trăm ngả” nhưng vẫn không quên bếp
lửa của bà, không nguôi nhớ thương bà, nên vẫn“không quên nhắc nhở”: “Sớm mai này
bà nhóm bếp lên chưa”.Nỗi nhớ bà trở thành nỗi nhớ thường trực,hình ảnh bà trở thành
hình ảnh thiêng liêng trong tâm hồn, làm ấm lòng, nâng bước người cháu trên suốt chặng
đường dài rộng của cuộc đời. Hình ảnh bà cũng chính là hình ảnh quê hương đất nước
một thời gian khó, đạn lửa.
3. Ý kiến đáng giá, bình luận:
- Có thể nói rằng qua bài thơ, bằng việc sáng tạo nhiều hình ảnh mang ý nghĩa biểu
tượng, đặc biệt là hình ảnh bếp lửa, ngọn lửa; thể thơ tám chữ phù hợp với cảm xúc hồi
tưởng và suy ngẫm; Bằng Việt đã để lại trong người đọc chúng ta tình bà cháu vô cùng
cao đẹp. Tình cảm ấy là sự khởi đầu của tình yêu thương con người, tình yêu đất nước.
Ngọn lửa của tình bà theo suốt những năm tháng cuộc đời nhà thơ, nuôi dưỡng, ấp ủ, chở
che, mang đến cho cháu nghị lực.Ngọn lửa ấy sưởi ấm tấm lòng nhà thơ cũng như mỗi
người đọc chúng ta.
III. Kết bài:

- Tình bà cháu là tình cảm cao đẹp được Bằng Việt thể hiện rất sâu sắc trong bài thơ “Bếp
lửa”.Bếp lửa – tình bà, tấm lòng yêu thương của bà trong mỗi chúng ta là những gì thiêng


liêng nhất. Nó nhắc nhở ta biết sống, biết yêu thương, xứng đáng với tầm lòng bà.



×