Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

SKKN Rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4,5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.13 KB, 12 trang )

SKKN: RÈN KĨ NĂNG VIẾT VĂN MIÊU TẢ CHO HỌC SINH LỚP 4,5
GV thực hiện: Nguyễn Thị Hoa – Trường TH Hiền Ninh – Quảng Ninh - QB
1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn sáng kiến:
Kĩ năng viết văn có một vị trí hết sức quan trọng trong dạy học Tiếng Việt ở Tiểu
học. Nó là sự tổng hợp của tất cả các kĩ năng khác của môn Tiếng Việt: Tập đọc, Kể
chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu. Mục tiêu của người dạy và người học là “có cảm xúc
trong mỗi tiết học”. Nó không chỉ giúp các em cảm nhận được những xúc cảm trong mỗi
bài văn, bài thơ mà còn hình thành ở các em kĩ năng từ những xúc cảm đó tạo nên những
bài văn hay. Trong nội dung chương trình Tập làm văn, một thể loại quan trọng và xuyên
suốt cả bậc học là văn miêu tả. Đây là thể loại văn có tác dụng tái hiện đời sống, hình
thành và phát triển trí tưởng tượng, óc quan sát, khả năng nhận xét, đánh giá của các em
đối với sự vật, hiện tượng trong đời sống. Những bài văn miêu tả làm cho tâm hồn, trí
tuệ các em thêm phong phú, giúp các em cảm thụ văn học và cuộc sống một cách tinh tế,
sâu sắc hơn.
Tuy nhiên, một thực tế hiện nay là trong các cấp học mà đặc biệt là bậc Tiểu học,
phần lớn học sinh viết văn rất khô khan, thiếu đi ngôn ngữ mượt mà, giàu hình ảnh.
Qua thực tế giảng dạy lớp 4,5 một thời gian, tôi nhận thấy, đối với các em, gặp
nhiều khó khăn nhất là Tập làm văn mà trong đó lúng túng nhất là thể loại văn miêu tả.
Đa phần bài viết của các em chỉ mang tính chất thông báo, kể lại chứ chưa có cảm xúc,
giàu hình ảnh, bài văn khô khan. Bài văn thường ngắn ngủn, kém hình ảnh, diễn đạt
thiếu trôi chảy, thường rơi vào tình trạng liệt kê, khô cứng. Nếu tiết làm văn không được
quan sát, nhận xét, miêu tả theo đề bài cho sẵn thì các em sẽ miêu tả một cách sáo rỗng,
hời hợt thiếu cảm xúc chân thực. Đối với học sinh biết nói cho đúng, cho rõ nghĩa đã là
khó nên nói viết cho có cảm xúc, có hình ảnh và cảm nhận được cái đẹp lại càng khó
khăn hơn.
Trước thực tế đó, tôi mạnh dạn đưa ra một số kinh nghiệm của mình để nhằm khơi
dậy tiềm năng văn học trong mỗi học sinh, để các em hứng thú hơn đối với môn học
cũng như giúp các em có những kĩ năng cơ bản khi làm một bài văn miêu tả qua sáng
kiến kinh nghiệm “ Rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4,5”.
1.2. Điểm mới của sáng kiến:


Đây là một vấn đề không mới, đã có nhiều người nghiên cứu và đưa ra những giải
pháp nhất định. Nhưng khi áp dụng vào thực tế từng trường, từng địa phương vẫn chưa
mang lại hiệu quả. Chính vì vậy, tôi vẫn mạnh dạn nghiên cứu vấn đề này để đưa ra
những biện pháp mới nhằm vận dụng vào thực tế dạy học ở trường và lớp tôi. Bản thân


tôi trong quá trình giảng dạy khối lớp 4,5 đã nhận thấy việc hướng dẫn và tổ chức cho
sinh rèn luyện kĩ năng viết văn miêu tả còn gặp một số khó khăn nhất định. Bởi đối với
học sinh lớp 4,5, các em mới làm quen với thể loại văn miêu tả và tập hình thành kĩ năng
viết văn nên để viết được bài văn hay còn nhiều hạn chế. Bởi vậy khi thực hiện đề tài
này, mục tiêu mà tôi hướng đến đó là:
- Kế thừa những kinh nghiệm dạy học phân môn này từ các giáo viên đi trước, tìm
ra những giải pháp mới để vận dụng vào phương pháp dạy học theo tinh thần đổi mới
nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt trong trường Tiểu học.
- Rút ra được bài học kinh nghiệm cho bản thân trong quá trình giảng dạy.
- Hoàn thiện hơn các biện pháp mà tôi đã xây dựng và thử nghiệm ở năm học
trước và vận dụng vào lớp tôi chủ nhiệm hiện tại.
2. PHẦN NỘI DUNG
2.1. Thực trạng:
2.1.1. Thuận lợi:
*. Về phía học sinh:
- Đa số học sinh được sự quan tâm, chăm sóc của gia đình, được giáo dục trong
môi trường lành mạnh, trong xã hội phát triển, tiến bộ. Học sinh có động cơ học tập
đúng đắn và luôn muốn tìm tòi, khám phá thế giới muôn màu, muôn vẻ xung quanh.
- Trẻ em rất giàu khả năng sáng tạo. Ở lứa tuổi lớp 4,5 học sinh tỏ ra là một người
lớn và say mê học hỏi, ham hiểu biết. Tâm hồn các em còn ngây thơ, trong sáng, các em
thường thể hiện nét ngộ nghĩnh và cảm nhận về thế giới xung quanh theo từng cách
riêng với trí tưởng tượng khá phong phú.
- Công nghệ thông tin phát triển, sách và tài liệu tham khảo phong phú hơn cũng
giúp các em được xem nhiều, biết nhiều, có điều kiện đọc nhiều và hiểu về thế giới

nhiều hơn.
*. Về phía giáo viên:
- Hiện nay có nhiều tài liệu giảng dạy phong phú phù hợp với từng đối tượng học sinh.
- Bản thân đã tích lũy được một số kinh nghiệm qua thời gian dạy học khối lớp 4,5.
Tôi cũng đã nghiên cứu về đề tài này hai năm liên tục nên đã có sự kế thừa, vận dụng
vào thực tế và rút ra được những kinh nghiệm trong quá trình thực hiện.
- Đa phần giáo viên đều biết ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học nên việc đưa
vào bài dạy những hình ảnh thực tế về sự vật được miêu tả nhiều hơn giúp các em quan
sát trực tiếp trong giờ học được thường xuyên hơn.
2.1.2. Khó khăn:
* Về phía học sinh:


- Để hoàn thành bài văn miêu tả đối với học sinh lớp 4,5 thường gặp một số khó
khăn nhất định. Do đặc điểm tâm lí, học sinh còn ham chơi, khả năng tập trung chú ý
quan sát của học sinh còn hạn chế, khả năng tái hiện hình ảnh, sự liên tưởng và năng lực
sử dụng ngôn ngữ chưa tốt,... Do đó khi viết văn miêu tả, học sinh còn thiếu hiểu biết về
đối tượng miêu tả hoặc không biết cách diễn đạt điều muốn tả.
- Học sinh chủ yếu ở nông thôn nên điều kiện để các em phát triển giao tiếp còn
hạn chế, chưa nhạy bén trong va chạm, vốn sống của các em chưa phong phú, việc tìm
hiểu các tài liệu tham khảo còn gặp khó khăn, vốn từ chưa phong phú nên khả năng diễn
đạt, dùng từ còn nhiều lúng túng.
- Học sinh chưa phát triển óc khái quát, thường chỉ miêu tả từng chi tiết cụ thể, lặt
vặt mà chưa có khả năng tổng hợp vấn đề cần diễn đạt.
- Gia đình của một số em chưa quan tâm sát sao đến việc học của con, việc mua
thêm các tài liệu tham khảo cũng như điều kiện cho các em tiếp cận Internet chưa
thường xuyên nên học sinh còn ngại nói, ngại viết, chưa mạnh dạn.
* Về phía giáo viên:
- Đa số giáo viên đều cho rằng dạy văn miêu tả cho học sinh là khó, bởi vì những
khó khăn mà học sinh mắc phải khi học thể loại này. Do đó nhiều giáo viên còn thiếu

linh hoạt trong vận dụng phương pháp dạy học, chưa sáng tạo trong việc tổ chức các
hoạt động học tập cho học sinh. Vì vậy, không phải giờ dạy văn miêu tả nào cũng đạt
hiệu quả mong muốn, không phải giáo viên nào cũng dạy tốt văn miêu tả.
- Ở một số tiết học, giáo viên còn nói nhiều nhưng chưa khơi gợi, huy động được
vốn hiểu biết của học sinh để vận dụng. Đa số yêu cầu học sinh học nhiều, nhớ nhiều các
bài văn mẫu để rồi bắt chước văn mẫu mà viết. Do vậy học sinh thường dễ dàng thuộc
một đoạn văn hay bài văn mẫu hơn là tự viết một bài văn của riêng mình.
- Thực tế, để đối phó với việc học sinh làm bài chưa tốt, để đảm bảo chất lượng,
nhiều giáo viên yêu cầu học sinh thuộc một bài văn mẫu để các em khi gặp đề bài tương
tự thì cứ thế mà chép ra. Do đó mà vô tình giáo viên đã tạo cho các em thói quen bắt
chước, lười suy nghĩ. Vào đầu năm học, ngay từ bài viết đầu tiên tôi nhận thấy các bài
viết của học sinh một số bài có nội dung khá sơ sài,việc sử dụng các hình ảnh gợi cảm
gợi tả rất ít, đa số rơi vào liệt kê, kể chuyện và một số khác thì có nội dung na ná giống
nhau như được viết ra từ một “sườn” cho sẵn..
Từ thực trạng trên, tôi thấy việc rút ra những kinh nghiệm dạy học cũng như
những kĩ năng cần rèn cho học sinh để nhằm đưa chất lượng viết văn của lớp đi lên, đạt
mục tiêu môn học và giúp giải quyết một số khó khăn cho giáo viên khối lớp 4,5 khi dạy
văn miêu tả. Đồng thời, tôi nhận thấy những kinh nghiệm tôi sử dụng trong đề tài này đã


mang lại hiệu quả khả quan ở lớp 4 trong năm học 2014 - 2015.Vì vậy, tôi muốn phát
triển, hoàn thiện thêm và nhân rộng tại khối lớp 4,5 trong năm học 2015 - 2016.
2.2. Một số biện pháp giúp dạy học tốt văn miêu tả:
2.2.1. Người giáo viên phải nắm chắc đặc điểm tâm sinh lí của học sinh để từ
đó tìm ra hướng đi đúng, tìm ra phương pháp phù hợp khi lên lớp:
Tâm lí học sinh tiểu học là luôn muốn khám phá, tìm hiểu những điều mới mẻ. Do
đó giáo viên cần hình thành, rèn luyện cho các em cách quan sát, tư duy, tưởng tượng,
miêu tả đối tượng một cách bao quát, tránh sa vào kể lan man, không trọng tâm.
Ở lứa tuổi học sinh Tiểu học từ hình thức đến tâm hồn, mọi cái mới chỉ là sự bắt
đầu của một quá trình. Do đó những tri thức để các em tiếp thu phải được sắp xếp theo

một trình tự nhất định. Trí tưởng tượng càng phong phú bao nhiêu thì việc làm văn miêu
tả sẽ càng thuận lợi bấy nhiêu.
Văn miêu tả là loại văn thuộc phong cách nghệ thuật, đòi hỏi viết bài phải giàu
cảm xúc, tạo nên cái “hồn” chất văn trong bài viết. Muốn vậy, giáo viên phải luôn nuôi
dưỡng ở các em tâm hồn trong sáng, một cái nhìn hồn nhiên, một tấm lòng dễ xúc động
và luôn hướng tới cái thiện.
2.2.2. Cần giúp học sinh hiểu rõ đặc điểm cơ bản của văn miêu tả ngay từ tiết
học đầu tiên của thể loại này:
Văn miêu tả mang tính chất thông báo thẩm mĩ, dù yêu cầu là miêu tả chân thực
nhưng không được sao chép, chụp ảnh lại sự vật một cách máy móc mà phải thể hiện
được sự đánh giá, nhận xét, tưởng tượng phong phú, thể hiện được cái riêng biệt của mỗi
người. Nếu các bài văn miêu tả mà ai cũng miêu tả giống nhau thì sẽ không ai thích đọc.
Phải giúp các em nắm được trong văn miêu tả, ngôn ngữ sử dụng phải là ngôn ngữ giàu
hình ảnh, giàu cảm xúc, giàu nhịp điệu, âm thanh. Đây là điểm khác biệt giữa văn miêu
tả và các thể loại văn khác. Từ nhận thức đó giúp các em biết thận trọng hơn khi chọn
lọc từ ngữ, biết gọt dũa hơn từng ý, từng lời trong bài văn của mình.
2.2.3. Khi dạy học văn miêu tả, giáo viên cần lưu ý:
- Nhiệm vụ của Tập làm văn ở bậc Tiểu học là mở rộng vốn sống, rèn luyện tư
duy, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mĩ, hình thành nhân cách cho học sinh. Trong
đó, văn miêu tả góp phần phát triển tư duy hình tượng của trẻ để được rèn luyện, phát
triển nhờ các biện pháp so sánh, nhân hóa khi miêu tả.
Để thực hiện được nhiệm vụ đó mà không biến các em thành những “thợ” viết
văn, người giáo viên cần kích thích được các em yêu văn và có nhu cầu viết văn, giúp
các em biết khám phá điều thú vị về đối tượng miêu tả qua những câu hỏi gợi mở. Ví dụ:
Cho học sinh quan sát bức tranh(hoặc cây) hoa phượng nở và hỏi: Quan sát tranh(cây),


em thấy cây hoa có đặc điểm gì mà nhà văn Xuân Diệu đã ví như “muôn ngàn con bướm
thắm đậu khít nhau”? Từ đó các em sẽ tìm ra được điểm tương đồng thú vị giữa hoa
phượng và muôn ngàn con bướm thắm đậu khít nhau. Hay khi muốn học sinh tả lại cảnh

đẹp ở quê hương em, giáo viên nên để học sinh lựa chọn cảnh mà các em cho là đẹp rồi
quan sát thực tế cảnh đó, ghi chép lại những hình ảnh đẹp, nổi bật nhất từ đó xây dựng
nên một dàn ý cho bài văn của riêng các em.
- Giáo viên chọn những đề bài phù hợp, gần gũi với học sinh để các em có thể
trực tiếp quan sát. Ví dụ: Trong phần tả cảnh, ở sách Hướng dẫn học Tiếng Việt 5 có các
đề bài gợi ý, giáo viên có thể lựa chọn những đề bài phù hợp với học sinh ở vùng nông
thôn như: Tả một ngày mới bắt đầu ở quê em; Tả một đêm trăng đẹp; Tả cảnh trường
em trước buổi học,..mà không chọn các đề bài yêu cầu tả các cảnh vật mà các em ít khi
được quan sát như: Tả một khu vui chơi, giải trí mà em thích hay Tả cảnh nhộn nhịp ở
một ngã tư đường phố;...
- Hướng dẫn học sinh phân tích kĩ yêu cầu của đề bài để tránh lạc đề khi miêu tả
cũng như giúp các em hình dung khái quát về sự vật mình sẽ tả.
- Hướng dẫn học sinh quan sát tỉ mỉ, nhiều lượt để tìm ra nét tiêu biểu của sự vật,
không sa vào kể lan man đầy đủ các chi tiết mà chỉ cần tả được những đặc điểm nổi bật
mà mình cảm nhận sâu sắc.
- Giáo viên chuẩn bị kĩ những câu hỏi gợi mở, hướng dẫn học sinh quan sát. Học
sinh phải được quan sát (ở lớp hoặc ở nhà) để ghi lại những đặc điểm nổi bật về sự vật
để phục vụ cho bài văn miêu tả.
2.2.4. Cung cấp vốn từ và giúp học sinh biết cách dùng từ, đặt câu, sử dụng các
biện pháp nghệ thuật khi miêu tả:
Muốn bài văn hay, có “hồn” thì các em phải có vốn từ ngữ phong phú và biết lựa
chọn từ ngữ khi miêu tả cho phù hợp. Chính vì vậy, giáo viên cần giúp các em mở rộng
thêm vốn từ của mình qua các phân môn Tập đọc, Luyện từ và câu và cả các môn học
khác. Hướng dẫn các em lập và ghi chép vào sổ tay văn học theo chủ đề, chủ điểm.
Hướng dẫn học sinh khi đặt câu cả nói và viết trước hết phải đúng ngữ pháp, diễn đạt
mạch lạc và có sử dụng các biện pháp so sánh, nhân hóa hay dùng những từ ngữ gợi tả,
gợi cảm, giàu nhạc điệu, giàu hình ảnh. Thể loại văn miêu tả các em đã được làm quen ở
lớp 4 nên khi lên lớp 5, đòi hỏi các em phải có sự phát triển hơn trong phần nội dung
cũng như nghệ thuật. Ví dụ: Cùng là miêu tả cây cối nhưng ở lớp 4, mức độ yêu cầu của
bài viết chủ yếu là có bố cục rõ ràng, miêu tả được các bộ phận nổi bật hay miêu tả được

các thời kì phát triển, tác dụng của cây, tình cảm của người viết. Nhưng đối với lớp 5,
mức độ yêu cầu phải cao hơn, bài viết phải vừa đúng trọng tâm, vừa phải có sự quan sát


bao quát về cây và kết hợp tả cảnh vật thiên nhiên xung quanh hay hoạt động của con
người, chim chóc, bướm ong,...liên quan đến cây.
2.2.5. Dạy viết bài văn phải kết hợp hài hòa được nhiều yếu tố: nội dung, nghệ
thuật và cảm xúc:
Một bài viết hay là một bài văn được kết hợp hài hòa của nhiều yếu tố: nội dung,
nghệ thuật và cảm xúc. Do đó trong mỗi tiết Tập làm văn, tôi tập trung giải quyết 3
nhiệm vụ:
- Xây dựng nội dung: Giáo viên cần lưu ý hệ thống câu hỏi trong sách giáo khoa
để học sinh hoàn thiện bố cục bài văn. Tiếp đến là học sinh cần chú ý đến nội dung bài
văn. Muốn bài văn phong phú, học sinh phải biết cách trả lời câu hỏi. Thường mỗi câu
hỏi cần giúp các em biết cách trả lời bằng một đoạn văn chứ không phải là bằng một câu
cộc lốc. Ví dụ: Trong bài 31C: Ôn tập về tả cảnh(Tiết 1 - Sách Hướng dẫn học Tiếng
Việt 5 tập 2B), ở hoạt động 1, giáo viên có thể mở rộng yêu cầu đối với câu trả lời:
Quan sát và nói về vẻ đẹp của cảnh trong các bức ảnh bằng một đoạn văn. Ví dụ: Cảnh
bình minh trên vịnh Hạ Long (Quảng Ninh) như thế nào? Học sinh cần trả lời bằng một
đoạn văn ngắn: Bình minh trên vịnh Hạ Long đẹp lung linh và huyền ảo. Từ phía chân
trời xa, mặt trời như một quả cầu lửa đang từ từ nhô lên, chiếu soi những tia nắng hồng
lên mặt biển. Những dãy núi như còn đang ngái ngủ muốn nằm dài trên mặt biển và đắp
lên mình một chiếc chăn màu xanh thẫm. Mặt biển dịu dàng vỗ về cho núi bằng những
con sóng nhẹ lăn tăn.....
- Đưa nghệ thuật vào bài văn: Đối với học sinh tiểu học, nghệ thuật chỉ đơn giản
là việc chọn lọc từ ngữ, hình ảnh và sử dụng các biện pháp so sánh, nhân hóa phù hợp.
Giáo viên có thể gợi ý bằng các câu hỏi dựa vào đặc điểm của sự vật mà học sinh muốn
tả, ví dụ:
+Ta có thể tả hình dáng của người bằng những từ nào? (dong dỏng, vạm vỡ, rắn
chắc, mảnh khảnh, cân đối, mập mạp, to khỏe,...)

+ Miêu tả hoạt động của người, em cần kết hợp với các yếu tố nào cho sinh động?
(Kết hợp lồng với tình cảm của mình đối với người được tả, kết hợp với miêu tả cảnh vật
nơi diễn ra hoạt động của người đó,...)
+ Những cảnh vật thiên nhiên có thể nhân hóa, so sánh không ? Em hãy viết 1-2
câu miêu tả cảnh có sử dụng biện pháp so sánh hoặc nhân hóa.
Với cách dẫn dắt như vậy, học sinh sẽ nêu ra ý kiến của mình, giúp các em biết
chắt lọc và sử dụng hình ảnh so sánh, nghệ thuật nhân hóa vào bài viết của mình.
Đối với học sinh lớp 5, các em đã được làm quen với thể loại miêu tả ở lớp 4 nên
việc dẫn dắt có thể ngắn gọn hơn. Cần chú trọng việc cung cấp vốn từ cho các em, giúp


các em nắm vững các biện pháp liên kết câu, liên kết đoạn qua các bài học trong môn
Tiếng Việt.
- Đưa cảm xúc vào bài văn: Để giúp các em lồng cảm xúc, tình cảm của mình vào
từng ý văn, giáo viên có thể nêu những gợi ý cụ thể. Ví dụ:
+ Hoa hồng đẹp đến khó tả được, khi ngắm hoa em cảm thấy thế nào? (Hoa đẹp
lộng lẫy ngất ngây lòng người).
+ Hương chuối chín thơm, quả cam chín mọng gợi cho em cảm giác gì? (Thèm
được ăn)
+ Được ăn trái ngon, em suy nghĩ gì về người trồng? (Biết ơn)....
+ Đứng trước cảnh đẹp của quê hương, em có cảm xúc gì? (Yêu quý, tự hào và
mong muốn gắn bó hơn với quê hương,...)
+ Ngôi trường gần gũi, thân thiết,gắn bó với em có biết bao kỉ niệm gợi cho em
cảm xúc gì khi miêu tả về nó?(Thấy tự hào, yêu mến,...)
+ Vào giờ ra chơi, em thường chơi những trò chơi gì? Em cảm thấy thế nào sau
giờ chơi?(Thích thú, thoải mái,...)
+ Trước những tình cảm mà mẹ(bố, ông, bà...)đã dành cho em, em phải làm gì để
đáp lại?(Chăm học, yêu thương, kính trọng, không làm cho bố, mẹ, ông, bà...buồn,...)
Với những câu hỏi gợi ý, dẫn dắt như vậy sẽ giúp học sinh biết đưa cảm xúc, tình
cảm của mình vào bài văn, làm cho bài văn gần gũi và thể hiện dấu ấn cá nhân của từng

em trong bài viết.
2.2.6. Hướng dẫn học sinh xây dựng đoạn văn mở bài và kết bài một cách cẩn
thận:
Bài văn không thể thiếu các phần mở bài và kết bài, những phần này thường thu
hút người đọc chú ý cách đặt vấn đề và cảm nghĩ của người viết. Vì vậy rèn cho học sinh
xây dựng đoạn văn mở bài và kết bài là cần thiết.
- Đoạn mở bài: Có hai cách mà học sinh được học là mở bài trực tiếp và mở bài
gián tiếp. Không nhất thiết phải bắt buộc học sinh làm mở bài theo cách nào mà để các
em tự chọn cách mở bài phù hợp với khả năng của từng em. Lưu ý học sinh khi viết mở
bài gián tiếp cần bám sát yêu cầu đề, tránh lan man, rườm rà. Có thể cho học sinh làm
việc theo nhóm để các em nhận xét lẫn nhau.
- Đoạn kết bài: Đoạn kết bài rất quan trọng vì nó thể hiện tình cảm của người viết
với đối tượng miêu tả. Thực tế là học sinh thường hay liệt kê cảm xúc của mình làm cho
phân kết bài khô cứng, thiếu tính chân thực. Chủ yếu các em thường hay làm kết bài
không mở rộng. Kiểu kết bài này có ưu điểm là ngắn gọn, song chưa hay, chưa hấp dẫn
người đọc, không lắng đọng cảm xúc trong lòng người đọc. Do đó đòi hỏi người giáo


viên phải biết gợi ý để học sinh làm phần kết bài mở rộng bằng cảm xúc của mình một
cách tự nhiên thông qua những câu hỏi mở. Sau đó cho các em nhận xét, sửa sai và chắt
lọc những đoạn kết bài hay. Bài văn hay là thể hiện được cảm xúc của người viết một
cách chân thực, hồn nhiên, xuất phát từ chính tâm hồn các em.
Vì vậy giáo viên cần chú ý rèn cho học sinh cách bộc lộ cảm xúc trong bài văn
một cách thường xuyên, liên tục từ tiết đầu tiên của mỗi loại bài, đến những tiết luyện
tập xây dựng đoạn văn, tiết viết bài và ngay cả trong tiết trả bài.
2.2.7. Thực hiện nghiêm túc tiết trả bài:
Mỗi loại bài thường dành một tiết kiểm tra để học sinh thực hành viết văn. Quá
trình đánh giá bài viết của học sinh phải được thực hiện thật cẩn thận, nghiêm túc thì
mới có tác dụng rèn kĩ năng viết văn cho học sinh. Giáo viên cần giúp học sinh hiểu
được các nhận xét chung của giáo viên về kết quả bài viết của cả lớp và của mình. Giúp

các em biết sửa lỗi dùng từ, ngữ pháp, diễn đạt, chính tả, bố cục bài văn. Qua tiết trả bài
cũng giúp các em học hỏi những câu văn, đoạn văn hay của bạn. Với mục đích như vây
nên tiết trả bài cần thay đổi hình thức hoạt động để học sinh đỡ nhàm chán. Chữa lỗi cho
học sinh theo từng loại lỗi được thống kê khi đánh giá, nhận xét. Giáo viên chú ý nhận
xét kĩ những ưu điểm, tồn tại trong từng bài văn cho từng em, chú ý khuyến khích, động
viên học sinh khi nhận xét. Sau đó giáo viên trả bài và cho học sinh hoạt động nhóm để
các em trao đổi với nhau về cách làm bài của mình. Từ đó học sinh sẽ thấy rõ ưu, nhược
điểm trong bài làm của mình, của bạn và biết tự sửa chữa hoặc viết lại đoạn văn của
mình cho đạt yêu cầu. Sau những trao đổi như vậy cũng giúp học sinh tránh được những
lỗi không đáng có trong thực hành viết văn và giao tiếp hàng ngay. Đối với các lớp dạy
học theo mô hình trường học mới VNEN, hoạt động theo nhóm đã thành thạo nên trong
tiết trả bài có thể sử dụng phiếu giao việc cho các nhóm như sau:
PHIẾU GIAO VIỆC
Hoạt động 1:
- Việc 1: Cặp đôi đọc bài làm; Nhận xét về nội dung, bố cục bài văn; Tìm câu, đoạn bạn
diễn đạt chưa hay(nếu có); Nêu ý kiến chia sẻ để giúp bạn diễn đạt hay hơn.
- Việc 2: Nhóm trưởng tổ chức chia sẻ đoạn văn, bài văn hay của bạn trong nhóm.
Hoạt động 2:
Cá nhân đọc lại bài viết của mình, chọn một đoạn chưa hay và viết lại cho hay hơn.

Hoạt động 3:


- Việc 1: Cá nhân có bài viết tốt, được khen đọc bài viết của mình trước lớp.
- Việc 2: Đọc cho nhau nghe một số câu văn, bài văn hay mình đã sưu tầm được.
2.2.8. Chuẩn bị chu đáo kế hoạch bài học:
Để có được kế hoạch bài học cụ thể, rõ ràng, có chất lượng, có tác dụng thiết thực,
đem lại hiệu quả cao, người giáo viên phải huy động tối đa tất cả năng lực của mình
như: năng lực hiểu biết và chế biến tài liệu, năng lực hiểu học sinh, năng lực ngôn
ngữ,..lòng yêu nghề và sự nhiệt tình đối với học sinh để chuyển hóa được những kiến

thức từ tài liệu đưa đến cho học sinh những giờ dạy nhẹ nhàng, tự nhiên mà hiệu quả
nhất. Có kế hoạch bài học chu đáo tức là giáo viên chuẩn bị tốt mọi nội dung thực hiện
trên lớp từ tiết lý thuyết đến tiết thực hành, từ các tiết xây dựng đoạn văn đến tiết trả bài,
từ phần kiểm tra bài cũ đến phần củng cố bài học, từ nội dung bài học đến đồ dùng dạy
học, các phương pháp lên lớp và hình thức tổ chức tiết học.
2.2.9. Dạy học tốt các phân môn khác của môn Tiếng Việt:
Tập làm văn là tổng hợp của tất cả các phân môn khác của môn Tiếng Việt. Do đó
khi dạy học cần chú ý dạy tốt tất cả các phân môn.
Phân môn Luyện từ và câu giúp học sinh phát triển vốn từ, cách dùng từ, đặt câu.
Phân môn Chính tả rèn cho các em viết đúng, viết nhanh, viết đẹp, trình bày bài văn rõ
ràng, sạch sẽ. Phân môn Tập đọc giúp các em đọc tốt, cảm thụ bài văn tốt. Phân môn Kể
chuyện giúp các em bồi dưỡng tình cảm, biết quý trọng cái tốt, phê phán cái xấu, biết
diễn đạt trôi chảy khi thực hành kể chuyện giúp các em rèn luyện ngôn ngữ nói.
2.3. Những kĩ năng cần rèn luyện cho học sinh khi viết văn miêu tả:
2.3.1. Tìm hiểu đề bài:
Khi học văn miêu tả cần tìm hiểu yêu cầu của đề. Đề thường cho biết rõ đối tượng
cần miêu tả(đồ vật, con vật, cây cối, tả cảnh vật, tả người) trong phạm vi cụ thể. Khi
hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề, giáo viên cần yêu cầu các em gạch chân những từ ngữ
quan trọng của đề bài, các em cần xác định rõ mình sẽ tả cái gì, tả như thế nào?....
2.3.2. Quan sát, tìm ý, chọn ý:
Cần lưu ý với học sinh khi quan sát không chỉ quan sát bằng mắt mà cần phải cảm
nhận cả bằng các giác quan khác(xúc giác, thính giác, vị giác,..) và còn bằng cả tâm hồn.
Khi quan sát cần biết gắn liền với suy nghĩ, cảm xúc của người viết để từ đó biết tìm ý
và lựa chọn ý phù hợp, tránh viết tràn lan vào bài văn. Quan sát phải liên hệ giúp các em
tìm ra được cái mới mẻ, riêng biệt về sự vật mình sẽ tả bằng sự liên tưởng hình ảnh này
với hình ảnh khác.
2.3.3. Sắp xếp ý:
Cần giúp học sinh biết khi sắp xếp ý cần phải:



- Sắp xếp theo trình tự không gian: Từ xa đến gần, từ ngoài vào trong hoặc từ trên
xuống dưới, từ dưới lên trên, tả từng bộ phận,...
- Sắp xếp theo trình tự thời gian: Cái gì xảy ra trước thì miêu tả trước, cái gì xảy
ra sau thì miêu tả sau, sắp xếp thời gian thuận chiều sẽ dễ hiểu hơn, tránh miêu tả lộn
xộn trong quá trình viết bài.
2.3.4. Trình bày những điều mà mình quan sát được theo trình tự:
- Đã quan sát tỉ mỉ chưa?
- Đã sắp xếp theo trình tự hợp lí chưa?
- Hoạt động nào được tả chính?
- Đã chọn lọc nét tiêu biểu chưa?
- Các hình ảnh được miêu tả đã có sự trau chuốt về từ ngữ và phù hợp chưa hay
còn mang tính liệt kê?
- Giữa các câu văn, các đoạn văn đã có sự liên kết chặt chẽ chưa?
- Đã bộc lộ được cảm xúc khi miêu tả chưa?
2.4. Kết quả:
Qua thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy chất lượng viết văn của lớp tôi được nâng cao
rõ rệt. Từ chỗ học sinh còn sao chép, phụ thuộc vào văn mẫu, câu văn khô khan dần các
em đã tự mình viết được bài văn mạch lạc, xây dựng được những bài văn hay, câu văn
giàu hình ảnh, dạt dào cảm xúc. Số học sinh viết bài khá tốt ngày càng cao. Những em
trước đây viết không được bây giờ đã biết viết những bài văn dù đơn giản nhưng đúng
nội dung, biết diễn đạt trôi chảy. Học sinh có khả năng quan sát, tìm ý cho bài văn của
mình. Trước đây các em còn lơ là giờ đã hứng thú hơn với giờ học văn miêu tả. Học sinh
mạnh dạn, tự tin, có phương pháp học sáng tạo. Chất lượng bài viết văn miêu tả có
chuyển biến rõ rệt. Sau khi nghiên cứu và áp dụng đề tài này vào thực tiễn dạy học của
lớp, tôi nhận thấy kết quả có sự thay đổi rõ rệt. Số bài viết đạt điểm cao tăng lên, số bài
viết sao chép và đạt điểm dưới 5 giảm đi nhiều.Tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng viết
văn của lớp vào tuần học thứ 4 và qua hai đợt kiểm tra trong năm học theo kế hoạch của
nhà trường, kết quả cụ thể như sau:
Kết quả các bài viết văn của lớp 52 qua các đợt kiểm tra:
Kiểm tra đợt

Tuần học thứ 4
Cuối kì 1
Cuối năm

Số HS
27
27
27

Điểm 9-10
SL
%
2
7,4
7
26,0
15
55,6

Điểm 7-8
SL
%
10
37,0
10
37,0
10
37,0

Điểm 5-6

SL
%
11 40,8
10 37,0
2
7,4

Điểm 3-4
SL
%
4
14,8
0
0
0
0


3. PHẦN KẾT LUẬN
3.1. Ý nghĩa của sáng kiến:
Với vị trí, vai trò và tầm quan trọng của nội dung tập làm văn ở Tiểu học, tôi thấy
việc giáo viên nắm vững các đặc điểm của văn miêu tả để dạy cho học sinh là hết sức
cần thiết. Phải nắm vững đặc điểm của văn miêu tả kết hợp với phương pháp dạy học
tích cực, cần coi trọng những sản phẩm mà các em tự tạo ra, không nên bắt buộc các em
phải viết được hoàn hảo như văn mẫu. Có như vậy các em mới hình thành cho mình kĩ
năng viết văn miêu tả. Học tốt văn miêu tả sẽ giúp các em cảm nhận được thế giới xung
quanh sâu sắc hơn, tâm hồn phong phú hơn. Văn miêu tả ở lớp 4,5 sẽ là tiền đề cho các
em học tiếp các dạng văn ở lớp cao hơn. Sau 2 năm liền áp dụng phương pháp trên vào
dạy học ở lớp 4,5 tôi nhận thấy chất lượng các bài viết của học sinh từng bước được
nâng lên rõ rệt như: từ chỗ các bài viết ban đầu còn khá sơ sài, sắp xếp ý rời rạc đến các

bài viết giàu hình ảnh, giàu nhạc điệu, âm thanh và liên kết chặt chẽ hơn; các tiết học
diễn ra nhẹ nhàng, thoải mái, các em nói viết ngày càng tự nhiên, lời văn có hình ảnh
sinh động và hấp dẫn hơn.
Đối với bản thân, trong mỗi giờ dạy cũng tạo cho mình được sự say mê hứng thú
hơn. Các tiết học Tập làm văn cũng nhẹ nhàng và hiệu quả hơn trước.
3.2. Kiến nghị:
Để giúp học sinh có thể viết văn miêu tả tốt hơn cần:
* Đối với giáo viên:
- Mỗi người giáo viên đều phải tìm hiểu và nắm vững đặc điểm của văn miêu tả để kết
hợp với các phương pháp dạy học, kĩ thuật dạy học thích hợp nhằm thu hút học sinh.
- Một số học sinh còn thiếu tự tin, chưa mạnh dạn, vì vậy giáo viên cần kết hợp với
nhóm trưởng và Hội đồng tự quản kịp thời khuyến khích, hỗ trợ.
- Giáo viên đảm bảo dạy học theo hướng đổi mới phương pháp, lấy học sinh làm trung
tâm để các em chủ động, sáng tạo và suy nghĩ độc lập, tự nhiên, không gò bó, rập khuôn.
*Đối với phụ huynh: Mua sắm thêm một số tài liệu tham khảo cho học sinh; chủ
động nhắc nhở các em học tập, đọc sách nhiều hơn.
*Đối với nhà trường, thư viện: Trang bị các phương tiện dạy học, tư liệu, tài liệu
tham khảo, hướng dẫn cho giáo viên và học sinh.
Trên đây là một số biện pháp tôi đã thực hiện trong quá trình giảng dạy nhằm bồi
dưỡng niềm say mê, yêu thích văn miêu tả cho học sinh lớp 4,5. Những kinh nghiệm
trên tôi đã vận dụng trong dạy học và đạt được những kết quả khả quan trong năm học
2014- 2015 và năm học 2015 - 2016 tại trường tôi. Trong những năm tiếp theo, tôi sẽ


tiếp tục vận dụng linh hoạt vào quá trình công tác dạy học của mình để chất lượng viết
văn của học sinh ngày một tốt hơn. Là một giáo viên trẻ, kinh nghiệm tích lũy chưa
nhiều nên trong quá trình thực hiện, tôi đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ song
cũng không tránh khỏi những thiếu sót. Qua cách trình bày chắc chắn diễn đạt chưa
được lưu loát. Vậy tôi rất mong nhận được sự quan tâm giúp đỡ và đóng góp chân thành
của các cấp lãnh đạo, các đồng chí đồng nghiệp để tôi có thể rút kinh nghiệm trong quá

trình dạy học.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
XẾP LOẠI CỦA HĐKH PHÒNG GD&ĐT QUẢNG NINH
.............................................................................................................................................................................................................................
.............................................................................................................................................................................................................................
.............................................................................................................................................................................................................................
.............................................................................................................................................................................................................................
.............................................................................................................................................................................................................................



×