Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

CÂU HỎI VÀ ĐÁP ÁN MÔN QP AN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (295.48 KB, 51 trang )

Câu 1. Trình bày khái quát quá trình hình thành và phát triển nghệ thuật
quân sự Việt Nam. Liên hệ vận dụng (6đ)
Nghệ thuật quân sự là lý luận và thực tiễn chuẩn bị và thực hành chiến tranh, chủ
yếu là đấu tranh vũ trang; nghiên cứu các qui luật và tính chất, đặc điểm chiến tranh, xác
định những nguyên tắc và phương thức tiến hành đấu tranh vũ trang.
Nghệ thuật quân sự ra đời cùng với quân sự và xuất hiện khi có chiến tranh. Là
nghệ thuật tạo thế và sử dụng hiệu quả lực, tận dụng thời cơ để dành chiến thắng. Điều
này có nghĩa: lịch sử quân sự Việt Nam được hình thành từ thực tiễn những cuộc chiến
tranh giữ nước chống xâm lược và chiến tranh giải phóng từ cuối thế kỷ III trước Công
nguyên đến thế kỷ XX. Dân tộc Việt Nam có truyền thống đánh giặc độc đáo, mang
bản sắc riêng đó là nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện,
lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh, quyết đánh, biết đánh và biết
đánh thắng những kẻ thù xâm lược lớn mạnh hơn mình.
Cơ sở hình thành và phát triển của nghệ thuật quân sự ở Việt Nam
Một là: Truyền thống đánh giặc của dân tộc.
An Nam hành quân pháp của Thời Lý. “Binh thư yếu lược”,Vạn kiếp Tống Bí
Truyền của Trần Quốc Tuấn. “Hổ trướng khu cơ” của Đào Duy Từ. “Bình Ngô đại cáo”,
Bình Ngô Sách ( Nguyễn Trãi)…Những trận đánh điển hình nh: Nh Nguyệt, Chi Lăng,
Tây Kết, Ngọc Hồi, Đống Đa…đã để lại những kinh nghiệm quý giá.
Kinh nghiệm truyền thống đó là cơ sở để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta kế thừa,
vận dụng, phát triển trong cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và trong công cuộc
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Hai là; Chủ nghĩa Mác - Lênin về chiến tranh, quân đội và bảo vệ TQXH CN.
Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động.
Học thuyết chiến tranh, quân đội, bảo vệ Tổ quốc XHCN và kinh nghiệm nghệ thuật
quân sự được đúc rút qua các cuộc chiến tranh do C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin tổng
kết, là cơ sở để Đảng ta vận dụng, định ra đường lối quân sự trong khởi nghĩa vũ trang,
chiến tranh giải phóng ở Việt Nam.
Ba là: Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh và đường lối QS của Đảng
Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh là sự tiếp thu, kế thừa truyền thống đánh giặc của tổ


tiên, vận dụng lý luận Mác - Lênin về quân sự, kinh nghiệm của các nớc trên thế giới vào
thực tiễn cách mạng Việt Nam, là cơ sở cho sự hình thành và phát triển Nghệ thuật quân
sự Việt Nam.
Hồ Chí Minh đã từng biên dịch “Binh pháp Tôn Tử”, viết về “kinh nghiệm du kích
Tàu”, “du kích Nga”…, phát triển nguyên tắc chiến đấu tiến công, chiến đấu phòng ngự
…qua các thời kỳ đấu tranh cách mạng. Hồ Chí Minh và Đảng ta đã đề ra phương châm
chỉ đạo chiến tranh, phơng thức tác chiến chiến lợc, nắm bắt đúng thời cơ, đa chiến tranh
Việt Nam kết thúc thắng lợi.
Những yếu tổ tác động đến việc hình thành nghệ thuật quân sự Việt Nam:
- Về địa lí: Nhà nước Văn Lang trước kia, nhà nước Việt Nam ngày nay có vị trí
chiến lược quan trọng ở khu vực Đông Nam Á và biển Đông, có hệ thống giao thông
đường bộ, đường sông, đường biển, đường không bảo đảm giao lưu trong khu vực châu Á
và trên thế giới thuận lợi. Đã từ lâu, nhiều kẻ thù luôn nhòm ngó, đe dọa và tiến công xâm
lược. Để bảo vệ đất nước, bảo vệ sự trường tồn của dân tộc, cha ông ta đã đoàn kết và
phát huy tối đa ưu thế của địa hình để lập thế trận đánh giặc.


- Về kinh tế:
+ Kinh tế nước ta là tự cung tự cấp, sản xuất nông nghiệp là chính, trong đó trồng
trọt, chăn nuôi là chủ yếu, trình độ canh tác thấp
+ Quá trình phát triển, tổ tiên ta đã kết hợp chặt chẽ tư tưởng dựng nước phải đi
đôi với giữ nước, thực hiện nhiều kế sách như: “phú quốc, binh cường”, “ngụ binh ư
nông”…Tích cực phát triển sản xuất, chăn nuôi để ổn định, nâng cao đời sống nhân
dân, đồng thời phát huy tính sáng tạo trong lao động, tự tạo ra vũ khí để chống giặc
ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc
- Về chính trị, văn hoá – xã hội
+ Chúng ta có 54 dân tộc anh em chung sống hoà thuận, đoàn kết
+ Dân tộc ta đã sớm xây dựng được nhà nước, xác định chủ quyền lãnh thổ, tổ
chức ra quân đội để cùng toàn dân đánh giặc, xây dựng và bảo vệ đất nước
+ Dân tộc ta đã xây dựng được nền văn hoá truyền thống: đoàn kết, yêu nước

thương nòi, sống hoà thuận, thuỷ chung, lao động cần cù, sáng tạo, đấu tranh anh dũng
kiên cường, bất khuất
+ Chúng ta đã xây dựng được nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc với kết cấu
vững chắc: đất nước bao gồm làng, xã, thôn, bản và có nhiều dân tộc cùng chung sống,
mỗi làng, xã, thôn bản có phong tục tập quán riêng.
Nghệ thuật quân sự Việt Nam được hình thành và phát triển qua các giai đoạn
khác nhau gắn với những giai đoạn của lịch sử, chia ra các gia đoạn chỉ mang tính
tương đối đánh dấu tiến trình phát triển của lịch sử.
Giai đoạn từ Thế kỷ III Trước Công nguyên đến đầu Thế kỷ X.
Trong giai đoạn này do yêu cầu của các cuộc đấu tranh vũ trang, nền nghệ thuật
quân sự Việt Nam hình thành từ rất sớm, khởi nguồn từ Nhà nước Văn Lang và phát
triển trong quá trình lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc. Trong giai
đoạn lịch sử này, nền nghệ thuật quân sự Việt Nam tuy còn ở trình độ thấp, nhưng đã
khẳng định được những giá trị ban đầu, đặt nền móng và mở đường cho các giai đoạn
sau. Đó là nghệ thuật toàn dân đánh giặc, nghệ thuật đánh nhỏ lẻ, nghệ thuật kết hợp
giữa lực lượng với địa hình và bước đầu xuất hiện nghệ thuật tác chiến tập trung tiêu
diệt lớn quân địch để kết thúc chiến tranh.
Giai đoạn từ đầu thế kỷ X đến đầu Thế kỷ XX. Từ đầu năm 938, dân tộc Việt
Nam giành được độc lập, bước vào kỷ nguyên xây dựng bảo vệ quốc gia phong kiến
độc lập, đã phải tổ chức nhiều cuộc chiến tranh chống xâm lược. Đây là thời kỳ nền
nghệ thuật quân sự Việt Nam phát triển rực rỡ cả về lý luận và thực tiễn, bao gồm cả
về chỉ đạo chiến lược, vận dụng và loại hình tác chiến chiến lược, tổ chức các trận
chiến chiến lược và chiến thuật.
Giai đoạn từ Thế kỷ XX đến năm 1975. Từ năm 1930, dân tộc Việt Nam có
Đảng Cộng sản lãnh đạo, đã tiến hành Tổng khởi nghĩa Tháng 8 năm 1945 thành công
và 30 năm chiến tranh giải phóng giành thắng lợi vẻ cang. Nghệ thuật quân sự Việt
Nam trong giai đoạn này đã vận dụng những truyền thống đánh giặc của dân tộc và
phát triển toàn diện.
Có thể khẳng định trải qua 22 thế kỷ, dân tộc Việt Nam đã phải tiến hành nhiều
cuộc khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh lớn để giữ nước và giải phóng dân tộc. Các thế

hệ người Việt Nam xuất phát từ lòng yêu nước nồng nàn, chí khí bất khuất đã xây
dựng nền nghệ thuật Việt Nam độc đáo từ những cuộc khởi nghĩa vũ trang và chiến
tranh giữ nước và giải phóng dân tộc. Kế thừa phát triển không ngừng nền nghệ thuật
quân sự đó qua các giai đoạn khác nhau trong lịch sử, đánh thắng nhiều kẻ thù xâm
lược lớn.


Mỗi một giai đoạn phát triển đòi hỏi phải có một nghệ thuật QS phù hợp nhằm
qui định: cách thức tổ chức; hình thái, phương thức tác chiến, khai thác sử dụng có
hiệu quả NNL và PT VK TBị…Mục tiêu là giành chiến thắng hợp lí nhất.
NTQS Việt Nam hình thành, phát triển, gắn liền với các yếu tố địa lí, kinh tế.
chính trị xã hội. Từ khi có Đảng lãnh đạo, NTQS Việt Nam phát triển dựa trên nền
tảng lí luận quân sự Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và tinh hoa truyền thống quân
sự dân tộc. Từ khi có Đảng lãnh đạo, NTQS Việt Nam đã kế thừa nghệ thuật giữ nước
của tổ tiên và đã không ngừng phát triển, góp phần quyết định giành thắng lợi trong
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Liên hệ vận dụng:

Câu 2. Nêu đặc điểm, nội dung cơ bản của nghệ thuật quân sự Việt Nam.
Liên hệ vận dụng. (6đ)
Đặc điểm nghệ thuật quân sự Việt Nam
1. Nghệ thuật của chiến tranh nhân dân toàn dân đánh giặc.
Xuất phát từ tính chính nghĩa của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc hoặc chiến
tranh bảo vệ Tổ quốc của nhân dân Việt Nam ; đồng thời xuất phát từ các nhân tố khách
quan về so sánh lực lượng giữa Việt Nam và kẻ thù ở trong nước và ngoài nước, từ đặc
điểm của chiến trường Việt Nam ; nghệ thuật quân sự Việt Nam đã giải quyết đúng đắn và
phát triển sáng tạo việc phát động toàn dân chủ động đánh giặc ; đánh địch ở mọi lúc, mọi
nơi, đánh bằng mọi thứ vũ khí, đánh ở mọi điều kiện. Đồng thời xác định đúng đắn nhiệm
vụ của lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang trong cuộc chiến tranh nhân dân, toàn
diện.

Trong đấu tranh vũ trang của Việt Nam còn kết hợp với những thắng lợi của cuộc
đấu tranh chính trị, của công tác binh địch vận để phát triển tiến công quân sự, tiêu diệt
được nhiều quân xâm lược hơn. Chính vì vậy, kết hợp chặt chẽ quân sự với chính trị, tác
chiến với binh vận, kết hợp tiêu diệt lực lượng quân sự của đối phương với phát động
quần chúng giành quyền làm chủ đã trở thành những nguyên tắc chỉ đạo tác chiến chiến
lược của các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam.
Trong chiến tranh nhân dân Việt Nam, lực lượng vũ trang gồm ba thứ quân làm nòng
cốt cho toàn dân đánh giặc. Để phát huy sức mạnh đánh địch, nghệ thuật quân sự Viêt
Nam đã chỉ đạo hoạt động tác chiến của bộ đội chủ lực, đồng thời chỉ đạo hoạt động tác
chiến của lực lượng vũ trang địa phương. Phối hợp chặt chẽ hoạt động tác chiến của bộ
đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ, kết hợp đánh du kích và đánh tập trung,
kết hợp đánh nhỏ, đánh vừa và đánh lớn.
2. Tư tưởng tích cực tiến công là bản chất, cốt lõi của nghệ thuật quân sự Việt
Nam
Quán triệt tư tưởng tiến công của chiến tranh cách mạng, trong đấu tranh vũ trang,
nghệ thuật quân sự Việt Nam tích cực tiến công địch một cách liên quyết, liên tục và toàn
diện, bằng mọi lực lượng. mọi loại vũ khí, mọi hình thức, trên mọi quy mô, ở mọi nơi và
trong mọi lúc. Là Nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân, biết phát huy chỗ mạnh
của mình, đánh vào chỗ yếu của quân đối phương, chủ động tạo ra so sánh lực lượng có
lợi để tiến công và phát triển thế tiến công từ nhỏ đến lớn, từ cục bộ đến toàn bộ.


Quán triệt tư tưởng tiến công, nghệ thuật quân sự VIệt Nam chú trọng phát huy ưu
thế chính trị và tinh thần anh dũng, mưu trí của người Việt Nam. Dân tộc Việt Nam giác
ngộ về mục tiêu chiến đấu, có tinh thần đoàn kết chặt chẽ, có truyền thống bất khuất và tài
thao lược trong chống giặc ngoại xâm.
Không ngừng nâng cao giác ngộ cách mạng, phát huy cao độ lòng dũng cảm và trí
thông minh của con người, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa con người và vũ khí, đặt
nhân tố con người là, nhân tố chính trị - tinh thần lên hàng đầu đồng thời coi trọng yếu tố
vũ khí, cơ sở vật chất và kỹ thuật, nghệ thuật quân sự Việt Nam đã tạo cho quân và dân

Việt Nam khả năng rất lớn để tiến công kẻ thù. Nghệ thuật quân sự Việt Nam phát huy tư
tưởng tiến công, trên cơ sở đánh giá đúng so sánh lực lượng hai bên một cách khách quan,
cách mạng và khoa học.
3. Nghệ thuật quân sự mang tính tổng hợp ngày càng cao.
Tính tổng hợp của nghệ thuật quân sự Việt Nam được thể hiện chủ yếu trên các mặt :
Mục đích tổng hợp, sử dụng lực lượng tổng hợp và đánh địch bằng phương thức tổng
hợp.
Về mục đích bao gồm cả quân sự và chính trị. Về quân sự, thường có các mục đích :
tiêu diệt một bộ phận quan trong sinh lực và phương tiện chiến tranh của đối phương ; thu
hồi hoặc giữ vững một khu vực đất đai, đánh bại một biện pháp tác chiến chiến lược của
đối phương… Về chính trị, thường có các mục đích : giải phóng hoặc bảo vệ nhân dân,
bảo vệ căn cứ hậu phương, hỗ trợ quần chúng đấu tranh chính trị, diệt tề, trừ gian, nổi dậy
giành quyền làm chủ, đánh bại một âm mưu chính trị của đối phương, nhằm phục vụ yêu
cầu đấu tranh chính trị, ngoại giao, củng cố tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân…
Sử dụng lực lượng tổng hợp là phương sách để nghệ thuật quân sự Việt Nam tạo ưu
thế và chiến thắng quân xâm lược. Lực lượng tổng hợp của nghệ thuật quân sự Việt Nam
bao gồm lực lượng vũ trang ba thứ quân và lực lượng chính trị của quần chúng. Tính tổng
hợp của nghệ thuật quân sự Việt Nam còn được thể hiện ở sự kết hợp chặt chẽ giữa lực,
thế, thời, mưu. Vì vậy, đi đôi với việc huy động lực lượng tổng hợp, nghệ thuật quân sự
Việt Nam rất coi trọng việc tạo thế có lợi, tạo thời cơ có lợi và nắm vững thời cơ để sử
dụng lực lượng ấy đạt kết quả cao nhất.
Với lực lượng tổng hợp, nghệ thuật quân sự Việt Nam đã sử dụng phương pháp tổng
hợp để đánh thắng địch. Đó là kết hợp tác chiến tập trung với tác chiến du kích để phát
huy hết khả năng của mọi lực lương, mọi loại vũ khí, phương tiện cả hiện đại, nửa hiện
đại và thô sơ có thể vận dụng nhiều cách đánh linh hoạt, kết hợp đánh phân tán tiêu hao
thường xuyên, rộng khắp với cách đánh tập trung ở trọng điểm, hãm quân địch vào thế bị
uy hiếp, bị tiến công từ nhiều phía, luôn căng thẳng và mệt mỏi, buộc phải phân tán lực
lượng đối phó một cách bị động.
Nội dung chủ yếu của nghệ thuật quân sự Việt Nam
1. Nghệ thuật quân sự Việt Nam lấy lực lượng vũ trang ba thứ quân làm nòng cốt

cho toàn dân đánh giặc.
Để đánh thắng những đạo quân xâm lược nhà nghề, quân đông, vũ khí mạnh, Việt
Nam không chỉ dựa vào lực lượng vũ trang mà đã dựa vào sức mạnh toàn dân, tiến hành
chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, trong đó lực lượng vũ trang ba thứ quân làm
nòng cốt.
Tính chất chiến tranh chính nghĩa giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc đã quy định
bản chất của nền nghệ thuật quân sự Việt Nam là “lấy đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí
nhân để thay cường bạo”, nhằm để giữ nước, dẹp loạn, an dân. Quần chúng tự nguyện
tham gia trong các cuộc chiến tranh chính nghĩa mang tính tất yếu, “giặc đến nhà trẻ già
cùng đánh” đã trở thành phương châm hành động của người Việt Nam. Vì vậy, nghệ thuật


quân sự Việt Nam chỉ đạo toàn dân đánh giặc, đánh giặc toàn diện; chỉ đạo đấu tranh quân
sự kết hợp với các mặt trận đấu teanh khác; chỉ đạo tác chiến tập trung chính quy của bộ
đội chủ lực, chỉ đạo tác chiến du kích phân tán, chỉ đạo nhân dân tự vũ trang đánh địch và
kết hợp các quy mô tác chiến, các hình thức đấu tranh…
Chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện là nét nổi bật nhất của truyền thống nghệ
thuật quân sự Việt Nam. Tính toàn dân quy định tính toàn diện, có đánh địch toàn diện
mới phát huy hết sức mạnh toàn dân. Đảng Cộng sản Việt Nam kế thừa truyền thống dân
tộc, trong 30 năm chiến tranh giải phóng đã lãnh đạo chiến tranh “thực sự toàn dân, thực
sự toàn diện”. Tính nhân dân được phát huy liên tục từ thấp đến cao, từ chiến tranh du
kích đến chiến chiến tranh nhân dân địa phương, bám đất chiến đấu giữ làng “một tác
không đi, một ly không rời”, kết hợp chặt chẽ chiến tranh du kích với chiến tranh chính
quy, kết hợp đánh địch bằng hai chân (quân sự, chính trị), ba mũi giáp công (quân sự,
chính trị, binh vận), trên cả ba vùng chiến lược (rừng núi, nông thôn đồng bằng và đô thị).
2. Nghệ thuật quân sự Việt Nam là nghệ thuật kết hợp phương thức chiến tranh
du kích với tác chiến chính quy.
Trong lĩnh vực đấu tranh vũ trang, tiến hành chiến tranh du kích và chiến tranh chính
quy, kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy là nội dung rất cơ bản của nghệ
thuật phát động cả nước đánh giặc. Chiến tranh du kích và chiến tranh chính quy đều giữ

đại vị chiến lược trong chiến tranh nhân dân Viêt nam.
Chiến tranh du kích là hình thức chiến đấu rộng khắp của toàn dân, là cơ sở của tác
chiến chính quy. Chiến tranh chính quy là trụ cột của của chiến tranh du kích, có tác dụng
quyết định trong việc tiêu diêt sinh lực chủ yếu của địch và giành thắng lợi cuối cùng.
Chiến tranh du kích và chiến tranh chính quy kết hợp chặt chẽ với nhau, thúc đẩy lẫn
nhau, tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch đưa chiến tranh đến thắng lợi. Đây là vấn đề có tính
quy luật của chiến tranh nhân dân Việt Nam, một dân tộc nhỏ, yếu chống lại các đạo quân
xâm lược lớn.
Ba thứ quân kết hợp với nhau, hai hình thức chiến tranh hỗ trợ nhau, thúc đẩy nhau
phát triển, cùng kết hợp với đấu tranh chính trị và các mặt đấu tranh khác càng làm cho
sức mạnh to lớn của chiến tranh nhân dân Việt Nam được phát huy mạnh mẽ.
Vì vậy, có thể khẳng định kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy là
một quy luật giành thắng lợi trong đấu tranh vũ trang ở Việt Nam. Trong chiến tranh bảo
vệ Tổ quốc, ba thứ quân đã trưởng thành, chiến tranh chính quy và chiến tranh du kích sẽ
đồng thời xuất hiện ngay từ đầu và kết hợp mật thiết với nhau.
3. Nghệ thuật quân sự Việt Nam kết hợp chặt chẽ giữa lực, thế, thời, mưu, phát
huy quyền chủ động đánh địch.
Dân tộc Việt Nam thường phải chống lại kẻ thù xâm lược lớn mạnh hơn mình, nếu
chỉ đơn thuần dùng lực để đánh thì không thắng nổi, bị thua, bị mất nước, mất độc lập chủ
quyền. Khát vọng tư do và chiến thắng đặt ra cho nhân dân Việt Nam phải quyết đánh,
biết đánh, biết thắng kẻ thù - đối tượng tác chiến lớn mạnh hơn mình. Đó là kết hợp đánh
địch bằng lực với đánh bằng mưu kế: “mưu sinh ra thế, kế đẻ ra thời, đánh bằng mưu kế
thắng bằng thế thời”.
Lực trong nghệ thuật quân sự Việt Nam là lực tổng hợp: cả quân sự, chính trị, binh
vận, cả con người và vũ khí, ý chí quyết tâm, trình độ tổ chức chỉ huy, kỹ, chiến thuật,
không gian, thời gian, địa hình, khí hậu thời tiết…
Mưu sâu, thế hiểm, thế trận mạnh, tạo thời cơ tốt, hãm địch vào thế bất lợi, thế thua:
Trần Quốc Tuấn - nhà quân sự nổi tiếng của Việt Nam ở th ế k ỷ XIII khái quát: “đánh ở
chỗ không có thành, công ở chỗ không có lũy, chiến ở nơi không có trận, nhẹ nhàng như
mưa bay trên không…” hoặc “bỏ chỗ thực đánh chỗ hư, đó là cái diệu của việc binh”.



Ông chỉ rõ nếu giặc đến ào ạt như lửa, như nước, phải biết gìm địch lại, căng địch ra, làm
mất nhuệ khí của chúng rồi mới đánh lớn.
Đánh đúng thời cơ thì lực lượng nhỏ thành sức mạnh lớn, lực lượng lớn thành sức
mạnh lớn hơn, Có lực, có thế mà không khéo dùng mưu vẫn có thể không thắng mà có
thắng cũng hạn chế.
4. Nghệ thuật quân sự Việt Nam vận dụng cách đánh linh hoạt, sáng tạo, phù hợp
với đối tượng tác chiến.
Để đánh bại một quân đội xâm lược hiện đại, có số quân đông, có hỏa lực mạnh và
sức cơ động cao lại rất ngoan cố, xảo quyệt, cần phải có tinh thần dám đánh và có cách
đánh linh hoạt, sáng tạo phù hợp với đối tượng tác chiến.
Nghệ thuật quân sự Việt Nam biết phát huy cái mạnh và cách đánh sở trường của
Việt nam không cho địch phát huy cái mạnh và cái sở trường của chúng, lấy cái mạnh của
Việt Nam đánh thẳng vào chổ yếu của đối phương, liên tiếp tiêu diệt lực lượng và phá tan
mọi âm mưu chiến lược của đối phương trên quy mô ngày càng lớn, tiến tới đánh bại
chúng hoàn toàn.
5. Nghệ thuật quân sự Việt nam kết hợp tác chiến với các mặt đấu tranh, coi trọng
và phát huy cao độ yếu tố chính trị tinh thần.
Kẻ thù vũ trang xâm lược nước ta, chúng ta phải vũ trang toàn dân, tổ chức lực
lượng vũ trang, dùng đấu tranh vũ trang để đánh lại chúng, đó là điều tất yếu. Tuy nhiên,
muốn phát huy được sức mạnh to lớn của toàn dân để đánh thắng một kẻ thù có quân số
đông, có trang bị mạnh…Việt Nam phải đánh địch một cách toàn diện, phải đánh cả về
quân sự, đồng thời lại phải đánh địch về chính trị, kinh tế, văn hóa, ngoại giao… phải
dùng nhiều hình thức đấu tranh, trong đó đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị là
những hình thức đấu tranh cơ bản nhất.
Trong đó tác chiến có vai trò trực tiếp quyết định trong việc tiêu diệt lực lượng địch,
chuyển hóa thế so sánh lực lượng, bảo vệ nhân dân, hỗ trợ quần chúng đấu tranh chính trị
và nổi dậy giành quyền làm chủ, để giành thắng lợi lớn nhất. Đấu tranh chính trị luôn là
cơ sở cho đấu tranh vũ trang phát triển, đồng thời một phương thức tiến công kẻ địch.

Nghệ thuật quân sự Việt nam coi trọng yếu tố chính trị - tinh thần, dựa trên sự hiểu rõ
tính chất chính nghĩa của cuộc chiến tranh, của viêc mình làm, giác ngộ mục đích chiến
đấu vì nước, vì dân và vì chính bản thân mình. Phát huy cao độ yếu tố chính trị - tinh thần
là phát huy nhân tố con người, đặt con người vào vị trí trung tâm, quyết định thắng lợi
chiến tranh. Đồng thời cũng là phát huy mặt ưu thế lớn nhất quân đội nhân dân Việt Nam
tiến hành chiến tranh tự vệ chính nghĩa.
Những nội dung chủ yếu của nền nghệ thuật quân sự Việt Nam được rút ra từ thực
tiễn chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và giải phóng dân tộc. Những nội dung ấy có mối quan hệ
rất khăng khít và hợp thành một hệ thống không tách rời. Trên cơ sở đánh giá đúng so
sánh lực lượng hai bên một cách khách quan, dân tộc Việt Nam đã đứng lên đánh quân
xâm lược và đã phát huy tài chỉ đạo chiến tranh để đánh bại chúng, đưa chiến tranh nhân
dân Việt Nam phát triển theo đúng quy luật của nó đến thắng lợi hoàn toàn.
Liên hệ vận dụng:
Câu 3. Trình bày mục tiêu, quan điểm bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Liên hệ thực tiễn (6đ).
Nghị quyết ĐH đảng XI, xác đinh: thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ


quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững hoà
bình, ổn định chính trị và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; chủ động đấu tranh,
làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự
nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Mục tiêu:
Mục tiêu tổng quát: Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ;Giữ vững chủ quyền biển đảo, biên giới, vùng trời; Bảo vệ Đảng, Nhà nước,
nhân dân và chế độ XHCN; Bảo vệ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước; bảo vệ lợi ích
quốc gia, dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, TTATXH và nền văn hoá; Giữ vững ổn
định chính trị và môi trường hoà bình, phát triển đất nước theo định hướng XHCN;
Chủ động ngăn chặn làm thất bại mọi âm mưu, hđ chống phá của các thế lực thù địch
và sẵn sang ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi TT mang tính toàn cầu, không bị

động, bất ngờ trong mọi tình huống.
Mục tiêu cụ thể
Về chính trị:
- Bảo vệ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và hiệu lực quản lý của
Nhà nước đối với toàn xã hội, bảo vệ mục tiêu và con đường phát triển theo đinh
hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.
- Bảo vệ mọi thành quả cách mạng Việt Nam đã giành đươc; giữ vững ổn định
chính trị đất nước, đảm bảo cho sự thành công của công cuộc công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
- B/v và phát huy khối ĐĐK toàn dtộc,làm thất bại mọi âm mưu thủ đoạn của các
thế lực thù địch hòng chia rẽ,phá hoại khối đđk toàn dtộc,đkết giữa Đảng-Nh/n với
nhdân ta;vô hiệu hoá mọi âm mưu,thủ đoạn,tập hợp llượng, hìnhthành tổ chức chtrị đối
lập.
Về kinh tế - xã hội
- Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu
xuyên suốt trong Chiến lược. Phải phát triển bền vững về kt, giữ vững ổn định kt vĩ
mô, bảo đảm an ninh kt.
- Tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài hoà với phát triển văn hóa, thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân.
- Phát triển kinh tế-xã hội phải luôn coi trọng bảo vệ và cải thiện môi trường, chủ
động ứng phó với biến đổi khí hậu. Nước ta có điều kiện phát triển nhanh và yêu cầu
phát triển nhanh cũng đang đặt ra hết sức cấp thiết.
- Phát triển nhanh và bền vững phải luôn gắn chặt với nhau trong quy hoạch, kế
hoạch và chính sách phát triển kinh tế-xã hội.
Về tư tưởng, văn hóa
Bảo vệ nền tảng tư tưởng của xã hội ta là chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh.
Tăng cường tuyên truyền, giáo dục tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc, trách
nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia và kiến thức quốc phòng, an
ninh, làm cho mọi người hiểu rõ những thách thức lớn tác động trực tiếp đến nhiệm vụ

bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới, như: chiến tranh bằng vũ khí công nghệ cao, tranh
chấp chủ quyền biển đảo, vùng trời, “diễn biến hoà bình”, bạo loạn chính trị, khủng
bố, tội phạm công nghệ cao, tội phạm xuyên quốc gia...
Về đối ngoại
Nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ vững môi trường hoà bình, thuận lợi cho
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống


nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế của đất nước; góp phần tích cực vào cuộc
đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Về quốc phòng-an ninh
Tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh cả về tiềm lực và thế trận; xây dựng
khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững mạnh; xây dựng thế trận lòng dân vững chắc
trong thực hiện chiến lược bảo vệ Tổ quốc. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng,
an ninh; quốc phòng, an ninh với kinh tế trong từng chiến lược quy hoạch, kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội; chú trọng vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển đảo.
Xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ, từng bước hiện đại, có số lượng hợp lý, với chất lượng tổng hợp và sức chiến
đấu cao, đồng thời quan tâm xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, dân quân
tự vệ rộng khắp, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống. Đẩy mạnh
phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh; tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật, bảo
đảm cho các lực lượng vũ trang từng bước được trang bị hiện đại, trước hết là cho lực
lượng hải quân, phòng không, không quân, lực lượng an ninh, tình báo, cảnh sát cơ
động. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, nghệ thuật quân sự, an ninh, đánh
thắng chiến tranh bằng vũ khí công nghệ cao của các lực lượng thù địch.
Bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội
nhân dân và Công an nhân dân; nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về quốc phòng, an
ninh. Hoàn thiện các chiến lược quốc phòng, an ninh và hệ thống cơ chế, chính sách về
quốc phòng, an ninh trong điều kiện mới; tiếp tục bổ sung, hoàn thiện hệ thống văn
bản pháp luật, các quy chế phối hợp quân đội, công an và các tổ chức chính trị - xã hội.

Quan điểm
Một là, giữ vững vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp, về mọi mặt của Đảng đối
với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc;
Hai là, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; lấy việc
giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội là lợi ích cao nhất
của TQ;
Ba là, kết hợp chặt chẽ giữa hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội với bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam; coi sức mạnh bên trong là nhân
tố quyết định, nắm chắc nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là
nhiệm vụ then chốt. Kết hợp chặt chẽ các nhiệm vụ kinh tế, QP AN, đối ngoại;
Bốn là, xây dựng sức mạnh tổng hợp về chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa, xã
hội, quốc phòng - an ninh, đối ngoại; phát huy sức mạnh của cả khối đại đoàn kết toàn
dân tộc, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành
thống nhất của Nhà nước, lực lượng vũ trang làm nòng cốt; tăng cường tiềm lực quốc
phòng, an ninh; không ngừng xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, gắn với thế trận
an ninh nhân dân phù hợp với hoàn cảnh mới;
Năm là, ra sức phát huy nội lực, đồng thời tranh thủ tối đa và khai thác mọi thuận
lợi bên ngoài. Quán triệt đường lối độc lập tự chủ, kiên trì chính sách đối ngoại rộng
mở, đa dạng hóa, đa phương hóa theo phương châm “thêm bạn, bớt thù”, vừa hợp tác
vừa đấu tranh, cố gắng gia tăng hợp tác, tránh xung đột, đối đầu; tránh bị cô lập, lệ
thuộc;
Sáu là, quán triệt tinh thần cách mạng tiến công, chủ động phòng ngừa, sớm phát
hiện và triệt tiêu những nhân tố có thể dẫn đến đột biến bất lợi.
Liên hệ thực tiễn


Câu 4. Trình bày mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Liên hệ thực tiễn (6đ)
Nghị quyết ĐH đảng XI, xác đinh: thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững hoà

bình, ổn định chính trị và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; chủ động đấu tranh,
làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự
nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Mục tiêu
Mục tiêu tổng quát: Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ;Giữ vững chủ quyền biển đảo, biên giới, vùng trời; Bảo vệ Đảng, Nhà nước,
nhân dân và chế độ XHCN; Bảo vệ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước; bảo vệ lợi ích
quốc gia, dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, TTATXH và nền văn hoá; Giữ vững ổn
định chính trị và môi trường hoà bình, phát triển đất nước theo định hướng XHCN;
Chủ động ngăn chặn làm thất bại mọi âm mưu, hđ chống phá của các thế lực thù địch
và sẵn sang ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi TT mang tính toàn cầu, không bị
động, bất ngờ trong mọi tình huống.
Mục tiêu cụ thể
Về chính trị:
- Bảo vệ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và hiệu lực quản lý của
Nhà nước đối với toàn xã hội, bảo vệ mục tiêu và con đường phát triển theo đinh
hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.
- Bảo vệ mọi thành quả cách mạng Việt Nam đã giành đươc; giữ vững ổn định
chính trị đất nước, đảm bảo cho sự thành công của công cuộc công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
- B/v và phát huy khối ĐĐK toàn dtộc,làm thất bại mọi âm mưu thủ đoạn của các
thế lực thù địch hòng chia rẽ,phá hoại khối đđk toàn dtộc,đkết giữa Đảng-Nh/n với
nhdân ta;vô hiệu hoá mọi âm mưu,thủ đoạn,tập hợp llượng, hìnhthành tổ chức chtrị đối
lập.
Về kinh tế - xã hội
- Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu
xuyên suốt trong Chiến lược. Phải phát triển bền vững về kt, giữ vững ổn định kt vĩ
mô, bảo đảm an ninh kt.
- Tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài hoà với phát triển văn hóa, thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân.

- Phát triển kinh tế-xã hội phải luôn coi trọng bảo vệ và cải thiện môi trường, chủ
động ứng phó với biến đổi khí hậu. Nước ta có điều kiện phát triển nhanh và yêu cầu
phát triển nhanh cũng đang đặt ra hết sức cấp thiết.
- Phát triển nhanh và bền vững phải luôn gắn chặt với nhau trong quy hoạch, kế
hoạch và chính sách phát triển kinh tế-xã hội.
Về tư tưởng, văn hóa
Bảo vệ nền tảng tư tưởng của xã hội ta là chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh.
Tăng cường tuyên truyền, giáo dục tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc, trách
nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia và kiến thức quốc phòng, an
ninh, làm cho mọi người hiểu rõ những thách thức lớn tác động trực tiếp đến nhiệm vụ


bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới, như: chiến tranh bằng vũ khí công nghệ cao, tranh
chấp chủ quyền biển đảo, vùng trời, “diễn biến hoà bình”, bạo loạn chính trị, khủng
bố, tội phạm công nghệ cao, tội phạm xuyên quốc gia...
Về đối ngoại
Nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ vững môi trường hoà bình, thuận lợi cho
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế của đất nước; góp phần tích cực vào cuộc
đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Về quốc phòng-an ninh
Tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh cả về tiềm lực và thế trận; xây dựng
khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững mạnh; xây dựng thế trận lòng dân vững chắc
trong thực hiện chiến lược bảo vệ Tổ quốc. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng,
an ninh; quốc phòng, an ninh với kinh tế trong từng chiến lược quy hoạch, kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội; chú trọng vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển đảo.
Xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ, từng bước hiện đại, có số lượng hợp lý, với chất lượng tổng hợp và sức chiến
đấu cao, đồng thời quan tâm xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, dân quân

tự vệ rộng khắp, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống. Đẩy mạnh
phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh; tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật, bảo
đảm cho các lực lượng vũ trang từng bước được trang bị hiện đại, trước hết là cho lực
lượng hải quân, phòng không, không quân, lực lượng an ninh, tình báo, cảnh sát cơ
động. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, nghệ thuật quân sự, an ninh, đánh
thắng chiến tranh bằng vũ khí công nghệ cao của các lực lượng thù địch.
Bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội
nhân dân và Công an nhân dân; nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về quốc phòng, an
ninh. Hoàn thiện các chiến lược quốc phòng, an ninh và hệ thống cơ chế, chính sách về
quốc phòng, an ninh trong điều kiện mới; tiếp tục bổ sung, hoàn thiện hệ thống văn
bản pháp luật, các quy chế phối hợp quân đội, công an và các tổ chức chính trị - xã hội.
Các nhiệm vụ cơ bản:
Một là, giữ vững hòa bình, ổn định để thực hiện thắng lợi sự nghiêp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng XHCN; Giữ vững môi trường quốc tế
thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc; Duy trì nền hòa bình lâu dài và sự
ổn định chính trị, không để xảy ra bạo loạn chính trị và “tự diễn biến”; Ngăn chặn đẩy
lùi nguy cơ DBHB; nguy cơ can thiệp quân sự và xung đột vũ trang, xâm phạm chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ ở nước ta
Hai là, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, kết hợp chặt chẽ với bảo vệ Đảng,
bảo vệ vững chắc an ninh chính trị nội bộ. Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam, kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; Chú trọng công tác xây dựng Đảng,
chỉnh đốn Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức, cả về đạo đức, lối sống. Triển khai
sâu, rộng và tnực hiện có hiệu quả theo tinh thần nội dung Nghị quyết Trung ương 4
Đại hội Đảng khóa XI; Tiếp tục đẩy mạnh, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng,
các tổ chức cơ sở sở phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong tình hình mới;
Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ đảng viên vững vàng về chính trị, đủ phẩm
chất, năng lực đáp ứng yêu cầu tình hình; Nâng cao chất lượng và hiệu quả của công
tác tư tưởng, lý luận .Tăng cường nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, làm sáng tỏ
một số vấn đề về đảng cầm quyền, về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã

hội ở nước ta và những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình đổi mới


Ba là, Phát triển kinh tế gắn với giải quyết tốt các vấn đề xã hội; đẩy mạnh CNH,
HĐH; xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đồng thời chủ động hội nhập quốc tế. Hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; bảo đảm ổn định kinh tế
vĩ mô; huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực; Phát triển mạnh công nghiệp
và xây dựng theo hướng hiện đại, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh; Phát triển
nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững; Phát triển hài hoà, bền
vững các vùng, xây dựng đô thị và nông thôn mới; Phát triển toàn diện các lĩnh vực
văn hóa, xã hội hài hoà với phát triển kinh tế; Bảo vệ và cải thiện chất lượng môi
trường, chủ động ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai
Bốn là, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Mở rộng dân chủ xã
hội chủ nghĩa đi đôi với việc tăng cường trật tự, kỷ cương chú trọng giải quyết các vấn
đề dân tộc, tôn giáo, nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân
trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Năm là, tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia và toàn vện lãnh thổ
là nhiệm vụ trong yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước và của toàn dân, trong đó
Quân dội nhân dân và Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt. Xây dựng Quân đội
nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại,
có số lượng hợp lý, với chất lượng tổng hợp và sức chiến đấu cao, đồng thời quan tâm
xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên mạnh,…; Củng cố, hoàn thiện thế
trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân; Xây dựng các cơ quan nội
chính, pháp luật trong sạch, vững mạnh; Chuẩn bị tốt các phương án chủ động xử trí
các tình huống xấu;
Sáu là, tiếp tục triển khai thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, mở rộng,
đa dạng hoá, đa phương hoá.Đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, mở rộng hợp tác quốc té
theo tinh thần: “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng
đồng quốc tế, phần đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”; Ưu tiên phát triển hợp tác
với các nước láng giềng, trong ASEAN và các nước khác, chú trọng thúc đẩy quan hệ

với các nước lớn.
Liên hệ thực tiễn.
Câu 5. Mục tiêu và các giải pháp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Liên
hệ thực tiễn (6đ)
Ngày 25-10-2013, Hội nghị Trung ương 8 (khóa XI) ban hành Nghị quyết số 28NQ/TW về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Nghị quyết thể hiện sâu
sắc sự phát triển tư duy nhận thức lý luận của Đảng về bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
XHCN. Nghị quyết số được ban hành trên cơ sở thành tựu, kinh nghiệm về lý luận và
thực tiễn qua gần 30 năm đổi mới đất nước, nhất là kế thừa kết quả 10 năm thực hiện
Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Đây là Nghị quyết chuyên đề về nhiệm vụ BVTQ của Đảng ta. Trong đó, xác định rõ
mục tiêu, quan điểm, phương châm chỉ đạo, nhiệm vụ và các giải pháp thực hiện
BVTQ trong bối cảnh mới của tình hình thế giới, khu vực, hội nhập quốc tế. Chúng ta
cần quán triệt sâu sắc những nội dung cơ bản sau:
Một là, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà
nước đối với sự nghiệp BVTQ. Đây là một nội dung quan trọng, nhân tố quyết định
thắng lợi của sự nghiệp BVTQ. Trong bối cảnh nước ta hội nhập quốc tế ngày càng
sâu, rộng và các thế lực thù địch tranh thủ mọi sơ hở của ta để chống phá thì việc tăng


cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước càng cần phải được coi trọng.
Đó cũng là nhân tố bên trong quyết định sự thành bại của cách mạng, sự mất còn của
chế độ XHCN ở nước ta. Nghiên cứu lịch sử và một số cuộc chiến tranh khu vực gần
đây cho thấy, nguyên nhân cơ bản dẫn tới mất ổn định của một quốc gia đều xuất phát
từ vấn đề nội bộ. Nếu tình hình nội bộ ổn định, đất nước phát triển, đời sống nhân dân
được đảm bảo và cải thiện thì lòng tin vào chế độ được giữ vững và do đó các thế lực
bên ngoài không có cớ và thời cơ để can thiệp.
Để giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội nói
chung, sự nghiệp BVTQ nói riêng thì Đảng phải mạnh. Những năm qua, bên cạnh
những mặt mạnh, công tác xây dựng Đảng còn nhiều hạn chế, mà Hội nghị Trung
ương 4 (khóa XI) đã chỉ ra là: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có

cả đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống”. Các hiện tượng tham nhũng, lợi ích nhóm, mất
đoàn kết nội bộ,… tuy đã được khắc phục một bước, nhưng vẫn còn diễn ra, làm cho
lòng tin của một bộ phận nhân dân vào Đảng, Nhà nước bị giảm sút. Do đó, Nghị
quyết Trung ương 8 (khóa XI), khi xác định mục tiêu BVTQ, ngoài mục tiêu chung,
còn nhấn mạnh các mục tiêu cụ thể trong những năm trước mắt; trong đó, mục tiêu đầu
tiên là “Tạo được chuyển biến rõ rệt trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà
nước; ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Theo đó, Nghị quyết đề ra giải pháp nâng
cao chất lượng công tác xây dựng Đảng, bảo vệ Đảng, bảo vệ chính trị nội bộ, xây
dựng nhà nước pháp quyền XHCN là: Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung
ương 4 (khóa XI) về công tác xây dựng Đảng, tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong
Đảng, nhất là ở cấp chiến lược, củng cố lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước;
đổi mới mạnh mẽ, nâng cao chất lượng công tác cán bộ, tăng cường sự lãnh đạo của
các cấp ủy Đảng, quản lý của chính quyền các cấp đối với nhiệm vụ BVTQ; xác định
rõ trách nhiệm của người đứng đầu các cấp ủy, chính quyền, tổ chức trong thực hiện
nhiệm vụ BVTQ.
Hai là, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Trong lịch sử xã
hội loài người, thời đại nào cũng vậy, dân tộc bao giờ cũng gắn liền với một chế độ
chính trị nhất định; trong đó, dân tộc có quyền lựa chọn cho mình một chế độ chính trị
nhất định, chế độ chính trị phù hợp thì tồn tại, phát triển và được bảo vệ. Ngược lại,
nếu chế độ chính trị không phù hợp, thì chính dân tộc đó sẽ quyết định việc thay thế nó
bằng một chế độ chính trị khác phù hợp hơn. Đối với dân tộc ta, trong hai cuộc kháng
chiến chống Pháp, chống Mỹ, Đảng ta luôn giương cao hai ngọn cờ: độc lập dân tộc và
CNXH và đã giành thắng lợi trọn vẹn. Thực tiễn cũng đã chứng minh, chỉ có kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH nước ta mới có độc lập dân tộc thực sự và
sự thực trong gần 30 năm đổi mới vừa qua, CNXH đã thể hiện được tính ưu việt của
nó, mặc dù mô hình này chưa có tiền lệ trong thực tiễn và cần tiếp tục hoàn thiện trong
thời gian tới. Những năm qua, vấn đề dân tộc luôn được Đảng ta đặc biệt coi trọng và
trên thực tế đã tạo được sự đồng thuận cao trong nhân dân, nhất là đối với kiều bào ta

ở nước ngoài. Tuy nhiên, còn có ý kiến khác nhau về mối quan hệ giữa độc lập dân tộc
và CNXH. Một số người cho rằng không cần thiết phải gắn độc lập dân tộc với
CNXH. Vậy nhận thức đó đúng hay sai?
Cần thấy rằng, thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta là quá trình lâu dài, trải qua
nhiều giai đoạn khác nhau và ở đó CNXH chưa thể hoàn chỉnh ngay được, ngay cả các
đặc trưng của CNXH mà Đảng ta khái quát trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011), cũng chưa phải đã thể hiện


được đầy đủ. Vấn đề đặt ra là, chúng ta phải đầu tư nghiên cứu, tiếp tục làm sáng tỏ
các vấn đề lý luận về CNXH mà thực tiễn đang đặt ra hiện nay. Đồng thời, khắc phục
các hạn chế của nó, xây dựng CNXH thực sự ưu việt. Nghị quyết Trung ương 8 (khóa
XI) nhấn mạnh sự cần thiết phải gắn bó chặt chẽ giữa BVTQ với các yếu tố tự nhiên,
lịch sử với yếu tố chính trị - xã hội; đặc biệt là bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc phải gắn với bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế
độ XHCN. Như vậy có thể khẳng định bất luận trong hoàn cảnh nào, toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân cũng phải luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.
Đây là mục tiêu và cũng là quan điểm của Đảng ta. Chừng nào chúng ta xa rời mục
tiêu đó, tức là tách rời độc lập dân tộc với CNXH thì chừng đó sẽ chệch hướng và thất
bại. Do đó, cần phải quán triệt thật sâu sắc thật vững vấn đề đặc biệt quan trọng này.
Ba là, phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của đất nước, nhất là vai trò của
nhân dân đối với sự nghiệp BVTQ. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc,
để chống lại kẻ thù xâm lược lớn mạnh hơn ta gấp nhiều lần, chúng ta đã phát huy sức
mạnh tổng hợp của toàn dân tộc. Kế thừa truyền thống đó, Nghị quyết Trung ương 8
(khóa XI) tiếp tục khẳng định sức mạnh BVTQ là sức mạnh tổng hợp của cả nước, bao
gồm sức mạnh trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và của các lực lượng; kết
hợp sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế, nhưng suy cho cùng sức mạnh của
nhân dân mới là điều căn bản nhất. Dưới thời nhà Hồ, khi trả lời nhà vua về kế sách
chống giặc giữ nước, Hồ Nguyên Trừng đã nói: “Thần không sợ giặc mạnh, chỉ sợ
lòng dân không theo” và chính vì không được lòng dân nên mặc dù có thành cao, hào

sâu, nhà Hồ đã không ngăn được quân xâm lược và bị mất nước. Ngày nay, sức mạnh
của nhân dân vẫn là yếu tố quyết định, nhưng sức mạnh đó huy động được đến đâu cho
sự nghiệp BVTQ còn tùy thuộc vào lòng tin và sự đồng thuận của nhân dân đối với
Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN. Vì vậy, để phát huy sức mạnh tổng hợp của đất
nước, vai trò của nhân dân đối với sự nghiệp BVTQ đòi hỏi cấp ủy, chính quyền các
cấp phải gắn bó mật thiết với nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, giải quyết kịp
thời những vướng mắc trong nhân dân và điều cốt yếu là phải đem lại lợi ích ngày
càng nhiều hơn cho nhân dân. Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) nhấn mạnh: phải
“thường xuyên bám sát cơ sở, nắm chắc tình hình, chủ động xử lý đúng đắn, kịp thời
mọi tình huống gây mất ổn định chính trị - xã hội”; “củng cố sự đoàn kết, thống nhất
trong Đảng, lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước, tăng cường khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, bảo đảm ổn định chính trị - xã hội, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận”.
Bốn là, giữ nước phải giữ từ thời bình. Kế thừa tư tưởng “giữ nước từ khi nước
chưa nguy”, Đảng ta đã không ngừng phát triển, hoàn thiện tư duy, nhận thức của mình
về BVTQ trong điều kiện mới; trong đó, giữ nước phải được thực hiện ngay từ thời
bình là một trong những quan điểm cơ bản. Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) đã
khẳng định: “giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội là lợi
ích cao nhất của đất nước”. Như vậy, theo Đảng ta, không phải cứ tiến hành chiến
tranh hoặc hoạt động liên quan đến chiến tranh mới được coi là giữ nước, mà giữ nước
tối ưu là làm cho đất nước không phải tiến hành chiến tranh. Phát triển quan điểm trên,
chúng ta đã nhấn mạnh đến vấn đề bảo vệ vững chắc Tổ quốc từ xa. BVTQ từ xa
không chỉ xét về mặt địa lý, mà chủ yếu là chủ động chuẩn bị BVTQ ngay khi đất
nước đang hòa bình và phát triển; thực hiện ngăn ngừa và đẩy lùi nguy cơ xung đột và
chiến tranh. Đồng thời, không coi nhẹ vấn đề tự bảo vệ và khẳng định phải xây dựng
lực lượng vũ trang nhân dân “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”,
trong đó có một số lực lượng tiến thẳng lên hiện đại để BVTQ. Nghị quyết Trung ương
8 (khóa XI) cũng chỉ rõ phương châm BVTQ là: Đối với nội bộ, lấy việc giáo dục,


thuyết phục, phòng ngừa là chính đi đôi với giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương, xử lý

nghiêm minh hành vi vi phạm pháp luật. Đối với các tranh chấp, bất đồng với các nước
liên quan thì kiên trì giải quyết bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế.
Đảng ta cũng chỉ rõ phương thức đấu tranh là kết hợp đấu tranh vũ trang và phi vũ
trang, nhưng lấy đấu tranh phi vũ trang là chủ yếu nhằm chủ động ngăn ngừa, làm thất
bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; khắc phục tình trạng
sơ hở, mất cảnh giác. Phòng ngừa, ngăn chặn hiệu quả các nguy cơ xung đột, chiến
tranh biên giới, biển, đảo, chiến tranh mạng; không để xảy ra bạo loạn, khủng bố, hình
thành tổ chức chính trị đối lập trong nước.
Năm là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tranh thủ sự ủng hộ của
bạn bè quốc tế. Đây là quan điểm mang tính truyền thống của dân tộc ta. Phát huy
truyền thống này, trong công cuộc đổi mới, Đảng ta đã phát triển từ nhận thức cứng về
bạn, thù trước đây đến việc xác định đối tác, đối tượng hiện nay và nhấn mạnh, cần có
cách nhìn biện chứng trong sự tồn tại đan xen và chuyển hóa lẫn nhau giữa đối tác và
đối tượng. Theo đó, trong mỗi đối tác có thể có mặt mâu thuẫn với lợi ích của ta cần
phải đấu tranh; trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt đồng thuận cần tranh thủ hợp
tác. Nhận thức biện chứng trong xác định đối tác, đối tượng đó đã mở ra điều kiện
thuận lợi cho quan hệ hợp tác quốc tế, bảo đảm tranh thủ ngày càng tốt hơn sự ủng hộ
của cộng đồng quốc tế đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Để thực hiện
“trong ấm, ngoài êm”, thêm bạn bớt thù, cùng với xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân
tộc, chúng ta cần “quán triệt đường lối độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động, tích cực
hội nhập quốc tế. Kiên trì chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa;
thêm bạn, bớt thù, vừa hợp tác, vừa đấu tranh. Tăng cường hợp tác tạo thế đan xen lợi
ích chiến lược giữa nước ta với các nước, nhất là các nước lớn, các đối tác chiến lược,
các nước láng giềng và các nước trong khu vực; tránh xung đột, đối đầu, tránh bị cô
lập, lệ thuộc”.
Sáu là, xây dựng lực lượng vũ trang thực sự là lực lượng chính trị, lực lượng
chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân, làm nòng cốt cho
toàn dân trong sự nghiệp BVTQ. Chúng ta đều biết, sức mạnh BVTQ là sức mạnh tổng
hợp, trong đó có sức mạnh quân sự, nhưng cần nhận thức đúng vai trò của sức mạnh
quân sự trong các giai đoạn của cách mạng để không quá đề cao hoặc coi nhẹ sức

mạnh này. Xét cho cùng, trong chiến tranh, sức mạnh của đất nước cũng phải thông
qua sức mạnh quân sự để trực tiếp giành thắng lợi trên chiến trường; còn trong thời
bình thì sức mạnh quân sự chính là khả năng răn đe hiệu quả trong các tình huống
quốc phòng, an ninh, BVTQ. Vì vậy, Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) nhấn mạnh
việc tăng cường sức mạnh quân sự bảo đảm vừa phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của
đất nước, vừa đủ sức BVTQ trong mọi tình huống. Để xây dựng sức mạnh quân sự
phải coi trọng nhiều yếu tố; trong đó, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân mà trực
tiếp là Quân đội nhân dân vững mạnh có ý nghĩa hết sức quan trọng. Việc xây dựng,
nâng cao chất lượng tổng hợp của Quân đội, trước hết là nâng cao chất lượng về chính
trị, bảo đảm cho lực lượng này thực sự là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu
trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Xây dựng Quân đội có tổ chức
hợp lý, tinh, gọn, cơ động, có sức mạnh chiến đấu cao, có vũ khí, trang bị hiện đại,
nhất là một số vũ khí chiến lược; nâng cao khả năng phòng thủ tác chiến tầm cao, tầm
xa, khả năng kiểm soát vùng trời, vùng biển, đảo xa bờ, tác chiến ban đêm, sẵn sàng
đánh thắng trong các tình huống xung đột và chiến tranh. Cùng với đó, chú trọng xây
dựng lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp, lực lượng dự bị động viên hùng
hậu, có chất lượng cao; đồng thời, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức


của lực lượng Công an nhân dân, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ BVTQ trong tình hình
mới./.
Liên hệ thực tế
Câu 6: Tại sao nói Đảng CSVN lãnh đạo QPAN là tất yếu khách quan? Liên
hệ thực tiễn?
1. Nêu và phân tích khái niệm QPAN:
- Quốc phòng: Là công cuộc giữ nước của một quốc gia gồm tổng thể hoạt động
đối nội và đối ngoại về quân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học của Nhà nước và
nhân dân để phòng thủ đất nước, tạo nên sức mạnh toàn diện, cân đối, trong đó sức
mạnh quân sự là đặc trưng, lực lượng vũ trang làm nòng cốt nhằm giữ vững hoà bình,
đẩy lùi, ngăn chặn các hoạt động gây chiến của kẻ thù và sẵn sàng đánh thắng chiến

tranh xâm lược dưới mọi hình thức và quy mô.
An ninh: Là sự ổn định và phát triển bền vững của chế độ xã hội chủ nghĩa và
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, sự bất khả xâm phạm độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. An ninh quốc gia gồm an ninh chính
trị, an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng - văn hoá, an ninh xã hội, an ninh quân sự, an
ninh đối ngoại… Trong đó an ninh chính trị là hạt nhân (cốt lõi, xuyên suốt), an ninh
kinh tế là trọng tâm (nền tảng), an ninh tư tưởng văn hoá là động lực, an ninh quân sự là
điểm dựa.
- Nội hàm Quốc phòng
- Nội hàm An ninh
2. Tính tất yếu khách quan Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý sự nghiệp quốc
phòng - an ninh
- Truyền thống, kinh nghiệm dựng nước, giữ nước của dân tộc ta
+ Vấn đề có tính quy luật đồng thời truyền thống, kinh nghiệm của dân tộc ta là:
dựng nước phải đi đôi với giữ nước…
+ Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải đi đôi với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa…
+ Quốc phòng - an ninh mạnh hay yếu liên quan đến sự mất, còn của đất nước,
chế độ.
+ Bất cứ một giai cấp, nào giữ địa vị thống trị xã hội cũng đều phải chăm lo đến
củng cố quốc phòng - an ninh, xây dựng lực lượng vũ trang
- Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản
Việt Nam
+ Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về bạo lực cách
mạng trong thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội
+ Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về quy luật giai
cấp, đấu tranh giai cấp, bản chất chính trị của chiến tranh, của hoạt động quốc phòng
- an ninh
+ Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, của Đảng ta về
nguyên tắc xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, xây dựng nền quốc phòng toàn
dân, an ninh nhân dân

- Đặc điểm, tính chất hoạt động quân sự, quốc phòng - an ninh
+ Đặc điểm, tính chất của hoạt động quốc phòng - an ninh
+ Đặc điểm địa lý tự nhiên của nền quốc phòng - an ninh
+ Đặc điểm cơ cấu dân cư, sắc tộc trong nền quốc phòng - an ninh


+ Đặc điểm phát triển kinh tế - xã hội trong nền quốc phòng toàn dân
- Tình hình quốc tế, khu vực, nhiệm vụ của cách mạng trong giai đoạn mới
+ Kinh nghiệm của các nước trên thế giới
+ Những diễn biến nhanh chóng, phức tạp của tình hình quốc tế, khU vực, từ âm
mưu, thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch càng đòi hỏi phải tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước đối với quốc phòng - an
ninh
+ Yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng trong điều kiện mới
+ Thực trạng tình hình quốc phòng - an ninh
Phần liên hệ
- Khái quát tầm quan trọng của Đảng đối với SN QP,AN
- Trách nhiệm của cá nhân, đơn vị..

Câu 7: Trình bày nội dung xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố?
Liên hệ thực tiễn địa phương (6đ)
Khái niệm KVPT:
KVPT Tỉnh, Thành phố là một tổ chức quốc phòng - an ninh địa phương theo địa
giới hành chính; Là bộ phận hợp thành, là nền tảng của lực lượng và thế trận quốc
phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân cả nước. Được xây dựng vững mạnh về mọi
mặt theo kế hoạch chung thống nhất, dưới sự lãnh đạo của cấp uỷ đảng, điều hành của
chính quyền địa phương. Nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp tại chỗ, độc lập tự lực,
ngăn ngừa và đối phó với mọi tình huống cả thời bình và thời chiến để bảo vệ Tỉnh,
Thành phố; phối hợp với các địa phương, đơn vị khác bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam XHCN.

* Nội dung Xây dựng
Xây dựng KVPT là quá trình kiện toàn tổ chức, nâng cao kết quả hoạt động trên
mọi lĩnh vực của các tổ chức trong hệ thống chính trị để thực hiện mục tiêu xây dựng
thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
1. Xây dựng tiềm lực chính trị - tinh thần
- Xây dựng tiềm lực chính trị - tinh thần trong KVPT giữ vị trí nền tảng trong
toàn bộ nội dung xây dựng KVPT. Xây dựng tiềm lực chính trị - tinh thần phải chăm lo
xây dựng đồng bộ, toàn diện cả lĩnh vực chính trị tư tưởng; công tác tổ chức và thực
hiện tốt hệ thống chính sách của Đảng và Nhà nước; lấy xây dựng thế trận lòng dân
vững chắc, xây dựng xã, phường, thị trấn vững mạnh toàn diện làm nền tảng.
- Trong xây dựng tiềm lực về chính trị - tinh thần cần tập trung các nội dung sau:
+ Xây dựng hệ thống chính trị (Đảng, chính quyền, và các tổ chức chính trị - xã
hội) trong sạch vững mạnh; nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý điều hành và tổ chức
thực hiện nhiệm vụ củng cố QP-AN tạo sức mạnh chính trị - tinh thần trong KVPT.
+ Giáo dục, bồi dưỡng kiến thức QP - AN cho cán bộ, công chức và toàn dân
trong KVPT, chú trọng giáo dục về hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, đường lối QPTD; đường lối CTND và chủ trương xây dựng tỉnh thành KVPT
vững chắc của Đảng và Nhà nước.
+ Xây dựng chương trình phối hợp thực hiện chính sách về dân tộc, tôn giáo, giữ
vững ổn định chính trị, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; thực hiện đồng
bộ các chính sách và pháp luật của Nhà nước nhằm phát huy dân chủ và giữ kỷ cương


xã hội trong KVPT. Thực hiện tốt chính sách đối với gia đình liệt sỹ, thương binh, gia
đình có công với cách mạng và chính sách hậu phương quân đội theo quy định của
pháp luật.
+ Phát triển công tác đối ngoại nhân dân ở các địa phương thuộc KVPT có chung
đường biên giới với các nước láng giềng theo quan điểm đường lối đối ngoại của
Đảng.
+ Giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; thông tin , tuyên tuyên truyền nhằn

phát và ngăn chặn sự xâm nhập các văn hóa phẩm độc hại; phòng chống các tệ nạn xã
hội, vi phạm pháp luật, tội phạm; xây dựng đời sống văn hóa, tinh thần lành mạnh
trong KVPT.
+ Xây dựng thế trận lòng dân: tập trung xây dựng thế trận lòng dân vững chắc
làm cơ sở, nền tảng cho triển khai các nhiệm vụ trên địa bàn, tạo niềm tin của nhân dân
với Đảng, với đội ngũ cán bộ các cấp, đối với chế độ, đối với công cuộc đổi mới.
2. Xây dựng tiềm lực kinh tế
Xuất phát từ vị trí vai trò của tiềm lực kinh tế đối với nhiệm vụ xây dựng KVPT,
cần phải tính toán, lựa chọn định hướng xây dựng chiến lược phát triển KTXH của tỉnh
phù hợp với việc tăng cường công tác bảo đảm hoạt động quốc phòng, trong đó công
tác quân sự địa phương của tỉnh, cần tập trung vào những nội dung định hướng cơ bản
trong xây dựng tền lực kinh tế của khu vực phòng thủ:
Một là, huy động mọi nguồn lực, tập trung làm tốt công tác quy, bao gồm: Quy
hoạch phát triển kinh tế-xã hội…; phát triển công nghiệp…; phát triển nông nghiệp…;
xây dựng vùng…; phát triển mạng lưới bưu chính…; xây dựng mạng lưới giao
thông…; sử dụng đất…; phát triển các dịch vụ phải gắn với củng cố tiềm lực quốc
phòng…; phát triển KH-CN…; xây dựng kế hoạch, huy động lực lượng dự bị động
viên…; xây dựng lực lượng dân quân tự vệ…;phát triển hệ thống y tế…; hệ thống kho
dự trữ quốc gia…
Hai là, tổ chức triển khai xây dựng, bổ sung, điều chỉnh kế hoạch để chủ động đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ trong mọi tình huống.
Ba là, Nghiên cứu điều chỉnh dân cư, xây dựng và phát triển các khu kinh tế quốc
phòng trn cơ sở tình hình nhiệm vụ quốc phòng, an ninh của địa phương...
Bốn là, Hoàn thiện cơ chế, chính sách, phương án huy động nguồn lực từ các
ngành kinh tế cho nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trong điều kiện mới. Trong đó, đặc
biệt chú trọng đến phát triển công nghiệp quốc phòng.
3 Xây dựng tiềm lực khoa học công nghệ
Tiềm lực KHCN thể hiện ở trình độ khai thác và ứng dụng có hiệu quả KH và CN
vào mục tiêu phát triển KTXH và phục vụ các hoạt động QPAN. Đặc biệt, hiện nay
cách mạng KH và CN hiện đại phát triển với tốc độ vũ bão, mang tính đột phá trong

kinh tế và trên mọi mặt của đời sống xã hội. ..đồng thời, sự phát triển của KH, CN
cũng làm nảy sinh những khó khăn, thách thức mới cực kỳ gay gắt. Các thế lực thù
địch đang ra sức lợi dụng sự phát triển của KH và CN để tiến hành chống phá chúng ta
không chỉ ở lĩnh vực quân sự mà trên tất cả các mặt của đời sống xã hội.
Trong xây dựng tiềm lực KH và CN các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương cần
quán triệt sâu sắc Nghị quyết Đại hội Đảng X: "Xây dựng công nghiệp quốc phòng
trong hệ thống công nghiệp quốc gia dưới sự chỉ đạo, quản lý điều hành trực tiếp của
Chính phủ, đầu tư c chọn lọc theo hướng hiện đại, vừa phục vụ quốc phòng vừa phục
vụ dân sinh".
“Tiếp tục sắp xếp và nâng cao khả năng bảo đảm của công nghiệp quốc phòng,
tập trung đầu tư vào những khâu đặc thù phục vụ QP, AN mà công nghiệp dân sinh


không có khả năng đảm bảo. Mở rộng phương thức huy động với xây dựng công
nghiệp quốc phòng; có chính sách khuyến khích nhà máy công nghiệp quốc phòng sản
xuất các sản phẩm dân dụng để tăng thêm năng lực phát triển”.
Căn cứ vào tình hình thực tế, những ưu thế phát triển cũng như thực hiện nhiệm
vụ QPAN được giao, tỉnh xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch đảm bảo nghiên
cứu khoa học phát triển kinh tế với tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; gắn đầu
tư xây dựng cơ bản với sản xuất kinh doanh, sản xuất các mặt hàng phục vụ dân sinh.
Đầu tư phát triển nghiên cứu KH trong ứng dụng hoạt động quân sự, trong đó đi
sâu nghiên cứu, tổng kết các cuộc chiến tranh từ đó phát triển nghệ thuật quân sự phù
hợp với chiến tranh công nghệ cao từ khâu đổi mới tổ chức biên chế, huấn luyện
nguồn nhân lực, trang bị vũ khí kỹ thuật... Trước mắt là phòng chống có hiệu quả âm
mưu chiến lược DBHB, sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược ở mọi quy mô, cấp
độ từng bước tăng cường tiềm lực quân sự đảm bảo đủ sức bảo vệ Tổ quốc.
4. Xây dựng tiềm lực quân sự - an ninh
Từ vị trí, yêu cầu của nhiệm vụ xây dựng tiềm lực quân sự - an ninh trong khu
vực phòng thủ, chúng ta cần tập trung xây dựng.
- Xây dựng về lực lượng:

1. Xây dựng lực lượng vũ trang KVPT vững mạnh về chính trị - tư tưởng.
2. Xây dựng và thực hiện kế hoạch huấn luyện nâng cao khả năng sẵn sàng chiến
đấu và chiến đấu của lực lượng vũ trang trong KVPT.
3. Xây dựng nghệ thuật tác chiến trong KVPT đáp ứng yêu cầu của chiến tranh
công nghệ cao.
4. Xây dựng cơ sở vật chất hậu cần và lượng dự trữ sẵn sàng chiến đấu cho lực
lượng vũ trang KVPT.
5. Xây dựng kế hoạch bảo đảm trang bị cho lực lượng vũ trang trong KVPT.
6. Tổ chức LLVT trong KVPT thực hiện theo quy định của pháp luật.
7. Xây dựng thế trận quân sự trong KVPT.
8. Xây dựng công trình quốc phòng, khu quân sự, công trình an ninh trong KVPT
thực hiện theo Nghị định số 71/2005/NĐ-CP ngày 06 tháng 6 năm 2005 của Chính phủ
về quản lý đầu tư xây dựng công trình đặc thù (các đ/c tự nghiên cứu).
9. Bảo vệ công trình quốc phòng khu quân sự trong KVPT
Trong khu vực phòng thủ của tỉnh cần đặc biệt quan tâm xây dựng các lực lượng:
Bộ đội địa phương là lực lượng nòng cốt trong xây dựng, hoạt động tác chiến của
KVPT; được tổ chức theo quy định của Bộ Quốc phòng. Biên chế tổ chức của bộ đội
địa phương không đồng nhất. Thường cấp tỉnh có 1 đến 2 trung đoàn bộ đội địa phương
và một số tiểu đoàn, đại đội binh chủng chiến đấu và binh chủng bảo đảm. Cấp huyện có
1 đến 2 tiểu đoàn bộ đội địa phương và một số đại đội, trung đội binh chủng chiến đấu và
binh chủng bảo đảm.
Bộ đội biên phòng là lực lượng nòng cốt, chuyên trách quản lý bảo vệ chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ, an ninh, trật tự biên giới quốc gia trên đất liền, các hải đảo, vùng
biển và tại các cửa khẩu theo phạm vị nhiệm vụ do pháp luật quy định. Tổ chức biên
chế, chức năng, nhiệm vụ, phương pháp hoạt động của Bộ đội biên phòng được Pháp
lệnh về Bộ đội biên phòng quy định. Cấp uỷ, chính quyền, lực lượng vũ trang và nhân
dân địa phương có trách nhiệm tham gia xây dựng Bộ đội biên phòng.
Công an tỉnh, thành phố được tổ chức biên chế và hoạt động theo Luật Công an
nhân dân và các Nghị định của Chính phủ. Lực lượng công an phải gắn nhiệm vụ AN
với nhiệm vụ QP, chủ động phối hợp với cơ quan quân sự và các ban, ngành khác

trong quá trình xây dựng, hoạt động giữ gìn an ninh chính trị - trật tự an toàn xã hội.


Đặc biệt, cần phân rõ chức năng, quan hệ hiệp đồng trong đấu tranh giải quyết những vụ
việc về an ninh trật tự, nhất là ở cơ sở xã, phường.
Dân quân tự vệ là lực lượng vũ trang quần chúng không thoát ly sản xuất, công tác
có nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu, phục vụ chiến đấu bảo vệ địa phương, cơ sở.
Tổ chức, biên chế và chế độ phục vụ được Luật Dân quân tự vệ năm 2010 và Nghị định
58/NĐ-CP hướng dẫn thực hiện. DQTV, phải chăm lo xây dựng vững mạnh về chính trị,
huấn luyện quân sự và chuyên môn phù hợp với nhiệm vụ chính trị của từng địa
phương, bảo đảm có thể hoàn thành nhiệm vụ trong thời bình, sẵn sàng tham gia chiến
đấu bảo vệ tổ quốc khi có chiến sự xảy ra.
Lực lượng dự bị động viên giữ vị trí chiến lược quan trọng cả trước mắt cũng như
lâu dài. Lực lượng dự bị động viên được xây dựng theo Pháp lệnh lực lượng dự bị
động viên, bao gồm: Con người, đơn vị động viên và phương tiện, cơ sở vật chất động
viên. KVPT có trách nhiệm quản lý xây dựng lực lượng dự bị động viên của địa
phương mình. Đồng thời, phối hợp với đơn vị bộ đội chủ lực để quản lý, huấn luyện và
sẵn sàng bổ sung cho cấp trên theo phương thức quy định. Các địa phương cần có kế
hoạch tạo nguồn, đăng ký, quản lý nguồn và phối hợp với đơn vị bộ đội chủ lực để tổ
chức biên chế theo đúng chuyên nghiệp quân sự. Chuẩn bị sẵn cơ sở vật chất để thực
hiện lệnh động viên.
Trong KVPT có thể có bộ đội chủ lực đứng chân, triển khai nhiệm vụ theo kế
hoạch của cấp trên. KVPT cần giải quyết tốt mối quan hệ hiệp đồng giữa lực lượng vũ
trang địa phương, cấp uỷ, chính quyền và nhân dân trên địa bàn với các đơn vị bộ đội
chủ lực trong quá trình tác chiến cũng như trong quá trình bộ đội chủ lực làm nhiệm vụ
xây dựng cơ sở trên địa bàn. KVPT có trách nhiệm tạo điều kiện giúp đỡ bộ đội chủ lực
hoàn thành nhiệm vụ theo ý định của cấp trên.
- Xây dựng thế trận quân sự trong KVPT
+ Thế trận KVPT tỉnh là thế trận toàn diện trong đó thế trận quân sự là hạt nhân
được liên kết chặt chẽ với thế trận trên các lĩnh vực khác tạo thành thế trận liên hoàn,

vững chắc chủ động ngăn ngừa, đẩy lùi mọi nguy cơ và đối phó với các tình huống
trong cả thời bình thời chiến.
+ Thế trận quân sự trong khu vực phòng thủ tỉnh gồm 10 thành phần chủ yếu:
Một là, hệ thống xã vững mạnh toàn diện
Hai là, các KVPT cấp huyện
Ba là, KVPT then chốt cấp tỉnh, cấp huyện
Bốn là, căn cứ chiến đấu cấp tỉnh, cấp huyện
Năm là, căn cứ hậu phương cấp tỉnh, cấp huyện
Sáu là, căn cứ hậu cần kỹ thuật cấp tỉnh, cấp huyện
Bảy là, sở chỉ huy các cấp
Tám là, các mục tiêu trọng yếu
Chín là, các điểm tựa, các cụm điểm tựa, khu vực phòng ngự, khu vực bố trí trận
địa chiến đấu và đảm bảo các đơn vị bộ đội chủ lực, bộ đội biên phòng (nếu có), bộ đội
địa phương, dân quân tự vệ
Mười là, các khu kinh tế quốc phòng.
Mỗi thành phần có vị trí, vai trò, nội dung xây dựng, cách thức, phương pháp tiến
hành.
* Liên hệ thực tiễn (các đồng chí tự liên hệ)
- Khái quát đặc điểm tình hình của Tỉnh: vị trí địa lý, phát triển khinh tế
- Tình hình QPAN trên địa bàn …
- Đánh giá sơ bộ thực hiện n/v xây dựng KVPT của tỉnh thời gian qua…


- Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong thực hiện n/v xây dựng KVPT
Câu 8. Nêu vị trí, yêu cầu, nội dung xây dựng tiềm lực quân sự, an ninh trong
khu vực phòng thủ? Làm rõ nội dung xây dựng hệ thống xã (phường) vững mạnh
toàn diện (chiến đấu) và khu vực phòng thủ cấp tỉnh, cấp huyện? Liên hệ thực
tiễn (6 điểm)
- Khái niệm khu vực phòng thủ
KVPT Là một tổ chức QP-AN địa phương theo địa phương theo địa giới hành

chính; Là bộ phận hợp thành, là nề tảng của lực lượng và thế trận QPTD, thế trân
ANND cả nước;Được xây dựng vững mạnh về mọi mặt theo kế hoạch chung thống
nhất, dưới sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng, điều hành của chính quyền địa phương; Nhằm
phát huy sức mạnh tổng hợp tại chỗ, độc lập tự lực, ngăn ngừa và đối phó với mọi tình
huống cả thời bình và khi thời chiến để bảo vệ tỉnh, thành phố;Phối hợp với các địa
phương đơn vị khác bảo vệ vững chắc Tổ quốc VN XHCN.
Khu vực phòng thủ tỉnh thành phố là một tỏ chức quốc phòng – an ninh ở địa
phương, được tổ chức theo địa giới hành chính. Trong không gian địa lý đó, nhiệm vụ
quốc phòng, nhiệm vụ an ninh, lực lượng quốc phòng, lực lượng an ninh, biện pháp
quốc phòng, biện pháp an ninh được kết hợp chặt chẽ, hoà quện tương tác, hỗ trợ lẫn
nhau từ cơ sở đến tỉnh thành phố. Là sự kết hợp chặt chẽ thế trận quốc phòng toàn dân
với thế trận an ninh nhân dân trên từng địa bàn theo kế hoạch thống nhất của quân khu,
hợp thành thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân cả nước.
Nội dung xây dựng khu vực phòng thủ
Xây dựng khu vực phòng thủ là một quá trình nhằm kiện toàn tổ chức, nâng cao
kết quả hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị để thực hiện mục tiêu xây
dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Phải kết hợp chặt chẽ
xây dựng phát triển kinh tế – xã hội với tăng cường quốc phòng - an ninh từng bước
xây dựng địa phương vững chắc. Quá trình xây dựng có nội dung phải xây dựng ngay,
có nội dung xây dựng từng bước, có nội dung chuẩn bị kế hoạch trước, khi có tình
huống hoặc chiến tranh mới xây dựng hoàn chỉnh. Xây dựng khu vực phòng thủ gồm
có các nội dung chủ yếu sau:
Một là, xây dựng tiềm lực chính trị - tinh thần.
Hai là, xây dựng tiềm lực kinh tế.
Ba là, xây dựng tiềm lực khoa học công nghệ.
Bốn là, xây dựng tiềm lực quân sự - an ninh.
Trong các nội dung trên, nội dung xây dựng tiềm lực quân sự - an ninh là
nhiệm vụ giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa. Tiềm lực quân sự, an ninh được xây dựng trên cơ sở tổng hợp của các
tiềm lực khác.

a. Vị trí vai trò: là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên, trọng yếu, TLQS-AN được xây
dung trên cơ sở kết qur tổng hợp của quá trình xây dung các TL khác theo những định hướng
cụ thể của Nhà nước trong tong giai đoạn, thời kỳ..
b. Yêu cầu : Quán triệt đường lối quốc phòng toàn dân, CTND của Đảng và Nhà
nước; Xây dựng tiềm lực Quân sự – an ninh trong khu vực phòng thủ phải nằm trong
quy hoạch tổng thể và chiến lược phát triển kinh tế xã hội; Xây dựng KVPT về QS và
AN phải chú trọng XD đồng bộ toàn diện cả lực lượng và thế trận, thường xuyên kiểm
tra, điều chỉnh, bổ sung cả thế bổ trí, cơ cấu lực lượng…tăng cường tổ chức phòng thủ


có hiệu quả trên các khu vực trọng điểm bảo đảm không bị động, bất ngờ trong mọi
tình huống.
c. Nội dung xây dựng
Thứ nhất, Về xây dựng lực lượng:
Lực lượng của KVPT tỉnh là lực lượng tổng hợp, bao gồm lực lượng chính trị, lực
lượng kinh tế, văn hoá - xã hội, lực lượng quân sự và an ninh. Trong đó lực lượng quân
sự, an ninh là nòng cốt .
Luật quốc phòng của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005) xác định:
“Lực lượng vũ trang nhân dân gồm: Quân đội nhân dân, Công an nhân dân, Dân quân
tự vệ”.
Trong xây dựng khu vực phòng thủ của tỉnh, thành phố cần đặc biệt quan tâm xây
dựng các lực lượng: Bộ đội địa phương, bộ đội biên phòng, lực lượng dự bị động viên,
công an tỉnh (thành phố), dân quân tự vệ.
Thứ hai, Về xây dựng thế trận quân sự
Thế trận KVPT tỉnh là thế trận toàn diện trong đó thể trận quân sự là hạt nhân
được liên kết chặt chẽ với thế trận trên các lĩnh vực khác tạo thành thế trận liên hoàn,
vững chắc chủ động ngăn ngừa, đẩy lui mọi nguy cơ và đối phó với các tình huống
trong cả thời bình thời chiến.
Thế trận quân sự trong KVPT tỉnh, TP gồm 10 thành phần chủ yếu:
Một là: Hệ thống xã (phường) vững mạnh toàn diện (chiến đấu)

Hai là: Các KVPT cấp huyện ;
Ba là: KVPT then chốt cấp tỉnh, cấp huyện
Bốn là: Căn cứ chiến đấu cấp tỉnh,cấp huyện;
Năm là: Căn cứ hậu phương cấp tỉnh, cấp huyện;
Sáu là: Căn cứ hậu cần kỹ thuật cấp tỉnh, cấp huyện
Bảy là: Sở chỉ huy các cấp ;
Tám là: Các mục tiêu trọng yếu ;
Chín là: Các điểm tựa, cụm điểm tựa, khu vực phòng ngự, khu vực bố trí trận địa
chiến đấu và bảo đảm của các đơn vị bộ đội chủ lực, Bộ đội biên phòng (nếu có) bộ
đội địa phương, dân quân tự vệ ;
Muời là: Các khu kinh tế quốc phòng.
Mỗi một thành phần có vị trí, vai trò, nội dung xây dựng, cách thức, phương pháp
tiến hành khác nhau.
Đối với xây dựng hệ thống xã, phường vững mạnh toàn diện thời bình, sẵn
sàng chuyển thành xã, phường chiến đấu trong thời chiến.
Hệ thống thế trận này có vị trí đặc biệt quan trọng, là cơ sở hạt nhân hình thành
thế trận khác; thế trận này vững có ảnh hưởng làm cả thế trận khác sẽ vững; đây là
trọng tâm xuyên suốt của thế trận khu vực phòng thủ. Trong kháng chiến, cấp xã là nơi
trực tiếp đối phó với địch; cung cấp sức người, sức của cho cách mạng. Ngày nay,
trong thời bình, làng xã là nơi các phần tử phản động sinh sống, ẩn nấp lợi dụng chống
phá ta trên nhiều lĩnh vực, là nơi hàng ngày, hàng giờ lực lượng thù địch lợi dụng để
tạo ra những xung đột, điểm nóng chính trị - xã hội hòng thực hiện âm mưu diễn biến
hòa bình, bạo loạn lật đổ.
Do đó, nội dung xây dựng cần tập trung vào xây dựng, kiện toàn hệ thống lãnh
đạo Đảng trong sạch, vững mạnh; hệ thống chính quyền tinh gọn, hoạt động có hiệu
lực; phát huy vai trò các tổ chức đoàn thể nhân dân, trưởng thôn, tổ trưởng dân phố,
già làng, trưởng bản, trưởng tộc,…; khuyến khích và tạo điều kiện cho nhân dân vươn
lên làm giàu hợp pháp, duy trì và phát huy những truyền thống, tập quán tốt đẹp; xây



dựng lực lượng dân quân tự vệ có số lượng hợp lý, chất lượng cao; thường xuyên kiểm
tra, rà soát phương án tác chiến, bảo đảm trật tự an ninh thôn xóm và chuẩn bị cơ sở
vật chất cần thiết để bảo vệ địa phương theo kế hoạch tác chiến chung.
Trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và khu vực, các địa phương
cần lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện để đáp ứng với
nhiệm vụ quốc phòng – an ninh trong tình hình mới:
- Coi trọng nhiệm vụ xây dựng cơ sở vững mạnh về chính trị, xây dựng thế trận
lòng dân thật sự vững chắc.
- Đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, kết hợp chặt chẽ với quốc phòng – an ninh;
kết hợp quốc phòng – an ninh với kinh tế - xã hội trên từng địa bàn; tích cực thực hiện
đổi mới nội dung, quy mô hình thức, biện pháp kết hợp và nâng cao chất lượng hệ
thống chính trị cơ sở.
- Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân ở cơ sở vững mạnh về mọi mặt, góp phần
giữ vững ổn định chính trị, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội ở cơ
sở.
- Phát huy vai trò quản lý, điều hành của chính quyền, vai trò làm tham mưu của
cơ quan quân sự, công an và các ban, ngành, đoàn thể tạo thành sức mạnh tổng hợp
của toàn dân với công tác quốc phòng – an ninh ở cơ sở.
- Bảo đảm ngân sách cho nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội gắn với củng cố,
xây dựng quốc phòng – an ninh; thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội và các
chính sách kinh tế - xã hội khác ở cơ sở.
Xây dựng khu vực phòng thủ then chốt cấp tỉnh, cấp huyện
Vị trí: Đây là khu vực địa bàn, mục tiêu trọng yếu của tỉnh, thành phố; là vị trí
chiến lược quan trọng không chỉ đối với tỉnh, thành phố mà đối với cả vùng rộng lớn.
Khu vực phòng thủ then chốt là nơi quyết định sự vững chắc của khu vực phòng thủ,
đó là các trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội của địa phương.
Nội dung xây dựng: phải tập trung xây dựng cơ sở chính trị vững chắc; xây dựng
hệ thống xã, phường vững mạnh toàn diện làm nền tảng liên kết với điểm tựa, cụm
điểm tựa của bộ đội địa phương. Đầu tư xây dựng một số công trình kiên cố, cùng với
việc bảo đảm các mặt công tác khác (thông tin, y tế, lương thực,…); tăng cường lãnh

đạo, chỉ đạo, chỉ huy sẵn sàng chủ động ứng phó với mọi tình huống.
Số lượng: mỗi tỉnh, thành phố thường tổ chức một khu vực phòng thủ then chốt; ở
cấp huyện thường tổ chức một khu vực phòng thủ then chốt; tùy theo nhiệm vụ và tiềm
lực của địa phương. Khu vực phòng thủ then chốt của cấp huyện và cấp tỉnh có vị trí
địa lý phù hợp với đặc điểm của từng địa phương, có thể nằm gọn trong phạm vi thị
trấn, thị xã, cũng có thể trên phạm vi một số xã, phường, thị xã của một số huyện.
Cách thức tiến hành: tỉnh, thành phố phải quan tâm đến công tác quy hoạch xác
định vị trí; xác định lộ trình (kế hoạch) xây dựng từng nhiệm kỳ, từng năm, từng quý;
thường xuyên tiến hành thanh tra, kiểm tra, bổ sung, điều chỉnh.
Tự Liên hệ thực tiễn tập trung vào
- Nêu đặc điểm vị trí địa lý;
- Kết cấu dân số;
- Phát triển kinh tế xã hội;
- Vấn đề dân tộc tôn giáo;
- An ninh chính trị trên địa bàn;....
- Thực hiện nhiệm vụ QP-AN;
Công tác tuyển quân?
- Công tác chính trị tư tưởng?


- Xây dưng thế trận và lược lượng trong KVPT?
- Tổ chức diễn tập luyện tập ở KVPT tỉnh (TP)?....
Khẳng định sẽ không có một khuôn mẫu nào cho việc xây dựng KVPT mà phải
dựa vào khả năng, nhiệm vụ của từng địa phương, cơ sở…Sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa luôn gắn với nhiệm vụ phát triển kinh tế kết hợp
với quốc phòng, an ninh vững chắc. Trong đó, phát triển kinh tế tạo ra những điều
kiện vững chắc để tăng cường quốc phòng an ninh; tăng cường quốc phòng, giữ vững
an ninh và toàn vẹn lãnh thổ tạo môi trường hoà bình, ổn định cho sự phát triển kinh
tế - xã hội.
Câu 9. Phân tích làm rõ âm mưu, thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc và các thế

lực thù địch thực hiện “chiến lược diến biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, chống phá
cách mạng Việt Nam. Liên hệ thực tiễn. (6 điểm)
1. Khái niệm “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ
- “Diễn biến hòa bình” là chiến lược cơ bản của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực
thù địch; sử dụng tổng hợp các phương thức phi vũ trang để thẩm thấu, công phá vào
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; làm suy yếu, chuyển hóa từ bên trong nhằm lật
đổ chế độ của các nước xã hội chủ nghĩa, đưa các nước này đi theo quỹ đạo của chủ
nghĩa tư bản mà không cần chiến tranh (mặc dù kết quả mà nó mang lại giống như một
cuộc chiến tranh).
- Bạo loạn lật đổ là một phương thức chống phá các nước xã hội chủ nghĩa và độc
lập dân tộc, bằng thủ đoạn bạo lực, là hoạt động có tổ chức, bao gồm cả chính trị, vũ
trang; do bọn phản động trong nước tiến hành, được sự chỉ đạo và hỗ trợ, phối hợp của
chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch bên ngoài; nhằm lật đổ chế độ, dựng chính
quyền phản động ở Trung ương hoặc địa phương.
2. Âm mưu, thủ đoạn của chiến lược "DBHB" đối với Việt Nam
- Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch luôn coi Việt Nam là một trọng điểm
trong chiến lược "DBHB" chống chủ nghĩa xã hội
+ Từ đầu năm 1950 đến 1975: chủ nghĩa đế quốc dùng quân sự để xâm lược và
muốn biến Việt Nam thành thuộc địa vĩnh viễn của chúng nhưng cuối cùng đã bị thất
bại hoàn toàn. Âm mưu không thành, chúng chuyển sang chiến lược mới như: "bao
vây cấm vận kinh tế", "cô lập về ngoại giao", kết hợp với "DBHB", bạo loạn lật đổ
nhằm xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
+ Từ năm 1975- 1994: lợi dụng nước ta gặp nhiều khó khăn về kinh tế, xã hội do
hậu quả của chiến tranh để lại và sự biến động chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô,
Đông âu, và các thế lực thù địch càng ráo riết đẩy mạnh "DBHB" đối với Việt Nam
+ Từ năm 1995 đến nay: trước những thắng lợi to lớn của công cuộc đổi mới toàn
diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa do Đảng cộng sản Việt Nam khởi
xướng và lãnh đạo, các thế lực thù địch lại tiếp tục điều chỉnh thủ đoạn chống phá cách
mạng nước ta. Chúng tuyên bố xoá bỏ "cấm vận kinh tế", bình thường hoá quan hệ
ngoại giao để chuyển sang thủ đoạn mới, đẩy mạnh hoạt động xâm nhập như "dính

líu", "ngầm", "sâu, hiểm" nhằm chống phá cách mạng Việt Nam.
- Mục tiêu nhất quán của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch trong sử dụng
chiến lược "DBHB" đối với cách mạng Việt Nam là tuyên truyền, xuyên tạc nhằm loại
bỏ chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện âm mưu xoá bỏ vai trò
lãnh đạo của Đảng, xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa, lái nước ta theo con đường chủ
nghĩa tư bản và lệ thuộc vào chúng...Để đạt được mục tiêu đó, các thế lực thù địch


không từ bỏ bất kỳ thủ đoạn chống phá nào như sử dụng bạo lực phi vũ trang, bạo lực
vũ trang, kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội ... Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù
địch chống phá cách mạng nước ta hiện nay là toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội, tinh vi, thâm độc và nhiều thủ đoạn tinh vi khó nhận biết cụ thể:
+ Thủ đoạn về chính trị, tư tưởng, văn hóa – xã hội:
Một là, xuyên tạc chủ nghĩa Mác – Lênin và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam . Chúng quy kết chủ nghĩa Mác – Lênin có sai lầm từ gốc rễ. Hoặc cho rằng,
chủ nghĩa Mác – Lênin đã lỗi thời, lạc hậu không còn phù hợp với thời đại ngày nay,
đặc biệt, đối với phương Đông và Việt Nam.
Hai là, phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh. Chúng nhấn mạnh đến tính dân tộc trong
tư tưởng của Người để đối lập với chủ nghĩa Mác – Lênin, thực chất là phủ nhận tư
tưởng Hồ Chí Minh. Mặt khác, công khai, trực diện phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh.
Chúng mở chiến dịch bịa đặt, dựng phim, xuất bản một số tác phẩm nhằm hạ thấp uy
tín, hình ảnh cao đẹp của Chủ tịch Hồ Chí Minh như: phim “Sự thật về Hồ Chí Minh”,
“Hồ Chí Minh sinh bình khảo” của Hồ Tuấn Hùng, “Đỉnh cao chói lọi” của Dương
Thu Hương.
Ba là, chống lại quan điểm, đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam. Lực lượng cơ
hội chính trị trong nước nhận định: Đảng Cộng sản có hai chiến tuyến đó là chủ nghĩa
Mác – Lênin và vai trò thống trị độc tôn. Muốn loại bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam trước hết phải loại bỏ hai chiến tuyến này, đồng thời tập trung “đánh” vào
vấn đề nhân sự và các báo cáo chính trị trong các kỳ đại hội của Đảng.
Bốn là, các thế lực thù địch kích động đòi thực hiện chế độ "đa nguyên chính trị,

đa đảng đối lập", "tự do hoá" mọi mặt đời sống xã hội, từng bước phá bỏ vai trò lãnh
đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Chúng tập hợp,
nuôi dưỡng các tổ chức, phần tử phản động trong nước và ngoài nước, lợi dụng các
vấn đề "dân chủ', "nhân quyền", "dân tộc", "tôn giáo" để chia rẽ mối quan hệ giữa
Đảng với nhân dân và khối đại đoàn kết dân tộc, làm mất đi vai trò lãnh đạo của Đảng.
Tận dụng những sơ hở trong đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước ta, sẵn
sàng can thiệp trắng trợn bằng sức mạnh quân sự để lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam.
Năm là, đòi “tự do dân chủ, tự do báo chí, tự do bầu cử”. Chúng huy động tối đa
các phương tiện thông tin đại chúng và tăng cường liên kết giữa các tổ chức phản động
người Việt lưu vong ở nước ngoài để chống phá Việt Nam. Ở trong nước chúng lôi kéo
một số phóng viên, nhà báo trẻ làm báo theo kiểu “tự do” của phương Tây. Lợi dụng
triệt để thong tin để phát tán các tài liệu có nội dung xấu, phản động. Lợi dụng xu thế
mở rộng hợp tác quốc tế, du nhập những sản phẩm văn hoá đồi trụy, lối sống phương
Tây, để kích động lối sống tư bản trong thanh niên, từng bước làm phai mờ bản sắc
văn hoá và giá trị văn hoá của dân tộc Việt Nam.
Sáu là, sử dụng đòn lật án để đánh vào uy tín của Đảng. Chúng tuyên truyền, đề
nghị Đảng: “phải công khai xin lỗi nhân dân về những vụ án oan sai, nhất là vụ xét lại
chống Đảng và các vụ án khác, phục hồi danh dự” cho những kẻ chống đối.
Bảy là, tìm cách “bôi đen”, hạ uy tín các đồng chí lãnh đạo chủ chốt nhằm kích
động chia rẽ đoàn kết nội bộ.
Chúng tập trung vào “chiến lược con người” để đào tạo một lớp người thân Mỹ và
phương Tây. Chúng đã bộ lộ rõ ý đồ lợi dụng hợp tác giáo dục, đào tạo để chuyển hóa
Việt Nam.
+ Thủ đoạn về kinh tế:


Thứ nhất, gây khó khăn, cản trở các hoạt động kinh tế đối ngoại của Việt Nam.
Thông qua “rào cản kỹ thuật” để ngăn chặn hàng hóa Việt Nam xuất khẩu sang thị
trường các nước tư bản phát triển nhằm gây khó khăn cho ta.

Thứ hai, sử dụng các thiết chế tài chính, tiền tệ quốc tế để ép ta cải cách chính trị,
điều chỉnh pháp luật
Thứ ba, Chúng muốn chuyển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam dần theo quĩ đạo kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, khích lệ thành
phần kinh tế tư nhân phát triển, từng bước làm mất vai trò chủ đạo của thành phần kinh
tế Nhà nước. Lợi dụng sự giúp đỡ, viện trợ kinh tế, đầu tư vốn, chuyển giao công nghệ
cho Việt Nam để đặt ra các điều kiện và gây sức ép về chính trị, từng bước chuyển hoá
Việt Nam theo con đường tư bản chủ nghĩa.
Thứ tư, sử dụng vấn đề kinh tế để chia rẽ, chuyển hóa nội bộ. Các lực lượng phản
động hiện nay cho rằng, trong Ban chấp hành Trung ương và Bộ chính trị Đảng cộng
sản Việt Nam xuất hiện hai phái: “phái kinh tế” và “phái chính trị”, cần tập trung chia
rẽ hai phái này.
Thứ năm, sử dụng đồng minh tại Asean để bao vây, cô lập, chuyển hóa Việt Nam.
+ Thủ đoạn trong lĩnh vực dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo:
Một là, xuyên tạc, vu cáo Đảng, Nhà nước ta vi phạm dân chủ, nhân quyền, đàn
áp tôn giáo, dân tộc. Các thế lực thù địch liên tục lợi dụng các phương tiện thông tin
đại chúng, phát tán tài liệu, tổ chức các cuộc hội thảo, họp báo, điều trần ra các nghị
quyết, báo cáo để tuyên truyền xuyên tạc tình hình, vu cáo Việt Nam “thiếu dân chủ, vi
phạm nhân quyền, không có tự do tôn giáo, đối xử không công bằng với người dân
tộc”,…
Hai là, chỉ đạo, tiếp tay cho lực lượng phản động người Việt Nam ở nước ngoài
phối hợp với bọn phản động trong nước chống phá cách mạng Việt Nam.
Theo thống kê chưa đầy đủ, đến nay có khoảng 300 tổ chức, nhóm phản động lưu
vong được thành lập ở nước ngoài.
Chúng công khai hậu thuẫn cho những đối tượng chống đối trong các tôn giáo cả
về tinh thần lẫn vật chất để thúc đẩy chủ trương ly khai trong nội bộ một số tổ chức tôn
giáo. Thời gian qua, chúng liên tục kích động, kêu gọi đòi lại đất đai, cơ sở vật chất
như vụ 42 Nhà Chung, giáo sứ Thái Hà, La Vang,…
Được bên ngoài hỗ trợ, bọn phản động, cực đoan trong nước tích cực viết và phát
tán tài liệu xuyên tạc quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta, vu

cáo ta “vi phạm nhân quyền, tự do tôn giáo”; tìm cách tụ tập lực lượng, nhất là lực
lượng người dân tộc thiểu số, kích động chia rẽ đoàn kết dân tộc, kích động ly khai, di
cư tự do của đồng bào các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, Tây Bắc, Tây Thanh Hóa,
Nghệ An và Tây Nam Bộ.
+ Thủ đoạn trên lĩnh vực quốc phòng - an ninh: Các thế lực thù địch lợi dụng xu
thế mở rộng hợp tác quốc tế, thực hiện xâm nhập, tăng cường hoạt động tình báo thu
thập bí mật quốc gia. Chúng kích động đòi phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng trong
lĩnh vực quốc phòng, an ninh và đối với lực lượng vũ trang. Đối với quân đội và công
an, các thế lực thù địch chủ trương vô hiệu hoá sự lãnh đạo của Đảng với luận điệu
"phi chính trị hoá" làm cho các lực lượng này xa rời mục tiêu chiến đấu.
+ Thủ đoạn trên lĩnh vực đối ngoại: Các thế lực thù địch lợi dụng chủ trương Việt
Nam mở rộng hội nhập quốc tế, mở rộng quan hệ hợp tác với các nước trên thế giới để
tuyên truyền và hướng Việt Nam theo quĩ đạo của chủ nghĩa tư bản. Hạn chế sự mở
rộng quan hệ hợp tác của Việt Nam đối với các nước trên thế giới, tìm cách ngăn cản
những dự án đầu tư quốc tế vào Việt Nam. Đặc biệt chúng rất coi trọng việc chia rẽ


×