Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

văn học ấn độ văn hóa ấn độ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.45 KB, 18 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Nói đến nền văn minh Ấn Độ là nói đến những dãy Himalaya linh thiêng, hùng vĩ,
với hai con sông lớn Ấn và Hằng, chứng nhân của những thành tựu văn minh Ấn Độ rực
rỡ. Con người Ấn Độ đầy lòng khoan dung và giàu trí tưởng tượng. Nhờ vậy mà họ đã để
lại cho kho tàng văn học Ấn Độ nói riêng và thế giới nói chung những bộ sử thi đồ sộ.
Trong đó tiêu biểu là hai bộ sử thi Ramayana và Mahabharata. Nếu như Ramayana nói về
tình yêu thì Mahabharata lại kể về những cuộc chiến vương quyền gay gắt. Có thể nói
Mahabharata như một đại dương mênh mông, nó bao quát nhiều mặt của cuộc sống, nó
chứa đựng nhiều vấn đề triết học, sử học, xã hội học, dân tộc học… Và đọc Mahabharata
người đọc không chỉ được tiếp xúc với nền văn học của Ấn Độ mà còn tiếp nhận cả một
nền văn minh, văn hoá vĩ đại.
Ấn Độ là một trong những cái nôi lớn của văn minh nhân loại, nơi đây là nơi đã có
sự bắt đầu sớm nhất các giá trị tinh thần vượt thời gian, các công trình kiến trúc vĩ đại
chưa từng xuất hiện trong lịch sử loài người. Những thành tựu lớn của văn minh Ấn Độ
càng có tầm quan trọng với chúng ta ngày nay vì đây la cơ sở để nghiên cứu những giá trị
cốt lõi của cuộc sống con người xưa trong lịch sử, tìm ra những yếu tố khiến con người có
những khả năng đặc biệt và mạnh mẽ để xây dựng hay tạo ra các giá trị tinh thần, giá trị
vật chất vĩnh hằng với thời gian. Đặc biệt về văn học Ấn Độ- một trong những chứng cứ
quan trọng, là bộ sách toàn thư mở để chúng ta tìm hiểu đầy đủ nhất về xã hội và con
người Ấn Độ thời cổ đại,
“ cái gì không thể thấy được trong Mahabharata thì không thể nào thấy được ở Ấn Độ”. Và
hơn thế nữa, hai tư tưởng Đácma và Đác đa là hai tư tưởng chủ đạo của tác phẩm
Mahabharata. Chúng đem đến cho con người các cách nhìn nhận, đánh giá về đạo đức của
con người, và là thước đo về nhân phẩm của xã hội xưa ở Ấn Độ.

Chương I: Tác giả, tác phẩm:
1.1.

Tác giả:



Tác giả của cuốn sử thi Mahabarata theo truyền thuyết là đạo sĩ Vyasa.
( Vyasa
có nghĩa là sưu tập ). Vyasa đã thức dậy lúc bình minh suốt ba năm ròng để hoàn thành tác
phẩm tuyệt diệu này. Cũng theo một truyền thuyết khác, sử thi Mahabharata ra đời khi đạo
sĩ Vyasa theo lệnh của thần sáng taojBrahma suốt ba năm ròng đọc cho thần Chữ viết dùng
ngà chép lại tác phẩm vĩ đại được hình thành trong tâm trí ông. Với độ dài đáng kinh ngạc,
những nghiên cứu ngữ văn về cuốn sử thi có một lịch sử dài làm sáng tỏ những đầu mối về
sự phát triển và những lớp ngữ nghĩa.
1.2.

Tác phẩm:

Nguyên bản của tác phẩm trong giai đoạn đầu gồm có 24000 câu thơ đôi (sloka), và
sau tăng lên 6.000.000. Hiện chỉ sưu tầm được 110000 sloka, chiếm 220000 dòng, tức là
dài bằng bảy lần tổng số câu thơ trong cả hai tác phẩm Odyssee và Iliade của Homere hợp
lại.
Thời gian tác phẩm xuất hiện tuy chưa thể xác định được nhưng có nhiều bằng
chứng khiến cho học giả tin rằng anh hùng ca Mahabharata được biên soạn vào khoảng thế
kỉ thứ V TCN rồi được liên tiếp tăng bổ và sửa đổi cho mãi đến thế kỉ thứ V sau CN mới
chấm dứt và ở triều đại Gupta ( 320 – 530).

Chương II: Sử thi Mahabharata:
2.1. Một vài nét về sử thi Ấn Độ:
2.1.1.

Khái niệm đặc trưng sử thi Ấn Độ:
Sử thi là bức tranh sinh động phản ánh đời sống tư tưởng của nhân dân Ấn Độ qua

những cuộc xung đột vũ trang giữa các vương quốc, giữa những chủng tộc sống trên đất
Ấn Độ. Sử thi còn là những bài ca vĩ đại ca ngợi những chiến công hiển hách, khí phách

hào hùng lí tưởng mà nhân dân Ấn Độ cổ xưa ngưỡng mộ và tôn thờ.
2.1.2.
2.1.2.1.

Đặc trưng sử thi Ấn Độ:
Tính quy mô đồ sộ:
Trên thế giới ít có những bộ sử thi nào quy mô đồ sộ như hai bộ sử thi Mahabharata

và Ramayana của Ấn Độ. Mhabharata dài 22 vạn câu, gấp bảy lần Iliat và Ôđixê của Hi
Lạp cộng lại.
Ramayana dài năm vạn câu. Có được tính quy mô đồ sộ như vậy, trước hết là do
người Ấn Độ có thói quen suy nghĩ triền miên, giàu óc tưởng tượng. Hai nữa là Ấn Độ


rộng lớn, có nhiều dân tộc, nhiều truyền thuyết, có nhiều huyền thoại. Các nghệ nhân kể
chuyện thường sưu tập các truyện lan truyền trong các địâ phương xâu chuỗi lại làm cho
nội dung thêm phong phú và được kéo dài. Hai tập sử thi kể trên có sức khái quát rộng lớn
và bối cảnh hoành tráng.
2.1.2.2.

Tính giáo huấn sâu đậm.
Hai tập sử thi đều đề cao lí tưởng đạo đức và bổn phận của Ksatrya hướng con

người vào điều thiện chống cái ác, sống theo đạo lí công bằng, bác ái.
Có đặc trưng trên là do Ấn Độ có nhiều tôn giáo. Dân tộc Ấn Độ là dân tộc mộ đạo,
giáo lí tôn giáo được phản ánh khá sâu sắc trong các bộ sử thi. Điều này lam cho chất giáo
huấn, kinh lễ thêm sâu đậm trong sử thi.
2.1.2.3.

Tính xung đột gay gắt về đạo lí

Hai tập sử thi trên không coi trọng miêu tả chiến tranh mà chú trọng miêu tả sự

xung đột giữa cái thiện và cái ác, giữa đạo lí và phi đạo lí. Nếu có xung đột với nhau, trước
tiên phải hoà giải, nếu không thành mới tiến tới chiến tranh. Điều luật của chiến tranh là
phải đảm bảo lẽ công bằng, mang tính nhân đạo. Mục đích cuối cùng của chiến tranh là
hoà hợp, hoà bình. Đó là tinh thần Ấn Độ.
2.1.2.4.

Tính đa dạng của hệ thống nhân vật
Nhân vật trong sử thi Ấn Độ rất phong phú và đa dạng: Người anh hùng, đạo sĩ, phụ

nữ thần thánh, ma quỷ…
Nhân vật thường biến hoá đa dạng, nửa thần, nửa người.
Nhân vật anh hùng thường là người có sức mạnh về trí tuệ, lòng dũng cảm, đạo đức,
lòng từ thiện.

2.2. Nguồn gốc sử thi Mahabharata:
Nguồn gốc ra đời Mahabharata là một trong hai cuốn Sử thi tiếng Phạn (Sanskrit)
Ấn Độ cổ, cuốn thứ hai là Ramayana. Cái tên Mahabharata có thể được dịch thành:
Bharath (vĩ đại), mang nghĩa là Ấn Độ Vĩ Đại hay còn được hiểu là "Câu chuyện vĩ đại về


triều vua Bharath".Theo truyền thuyết, Mahabharata được coi là tác phẩm của Vyasa cũng
là một trong những ông tổ của các nhân vật trong sử thi (Vyasa có nghĩa là sưu tập). Vyasa
đã thức dậy lúc bình minh suốt ba năm ròng để hoàn thành tác phẩm tuyệt diệu này. Cũng
theo một truyền thuyết khác, sử thi Mahabharata ra đời khi đạo sĩ Vyasa theo lệnh của thần
Sáng tạo Brahma suốt ba năm ròng đọc cho thần chữ viết dùng ngà chép lại tác phẩm vĩ
đại được hình thành trong tâm trí ông. Với độ dài đáng kinh ngạc, những nghiên cứu ngữ
văn về cuốn sử thi đã làm sáng tỏ những đầu mối về sự phát triển của những lớp ngữ
nghĩa.

Nguyên bản lúc đầu có khi lên dến hàng ngàn vạn câu thơ, nhưng đến nay chỉ sưu tầm
được 110.000 slôka (Câu thơ đôi), gồm 22 vạn dòng, dài bằng bảy lần hai tác phẩm Ôđixe
và Iliat của Hy Lạp cộng lại.
Bản viết bằng tiếng Xăngcơrit đầu tiên được in ở Cancuta vào năm 1834. Bản dịch
ra tiếng Anh đầu tiên là bản của Protapchandra Roy, in năm 1883. Bản tiếng Việt đầu tiên
hiện nay là dựa vào bản tóm tắt cốt truyện bằng tiếng Anh của C.Rajagopalachari.
Công việc nghiên cứu và dịch thuật vẫn còn tiếp tục. Viện Phương Đông ở Bunô
(Ấn Độ ) thành lập năm 1919 đã nghiên cứu 1250 bản thảo người ta đã chọn 734 bản
tương đối đáng tin cậy, hoàn thành năm 1967.

2.3. Giá trị nội dung:
Chủ đề của tác phẩm này là cuộc chiến tranh lớn giữa hai dòng họ Bharata giành
giật đất đai để mở rộng bờ cõi. Nhưng xung quanh chủ đề đó lại có một nội dung tư tưởng
vô cùng rộng lớn và sâu sắc.
Những người sáng tạo ra bộ sử thi này muốn thông qua chiến tranh để đề cao lý
tưởng và đạo đức của thời đại. Lí tưởng và đạo đức đó đã được đúc kết trong tập giáo lí
Chí tôn ca. Tác phẩm gồm 700 câu thơ chia ra làm 19 chương do Vyasa sáng tác vào
khoảng thế kỉ thứ V TCN.
Nhiều nhà nghiên cứu sử thi Mahabharata cho rằng Bhagavat Gita là hạt nhân tư
tưởng của tác phẩm trên. Chiến thắng của anh em Panđava được xem là chiến thắng của
đạo đức và công lý. Hành động của họ đã hoàn thiện được bổn phận và danh dự mà
Đácma đề ra.
Chiến tranh xảy ra trong 18 ngày để cho hàng triệu người chết là sự suy tàn của chế
độ huyết thống trong công xã, đồng thời sự biểu hiện phát triển và hung thịnh của nhà
nước nô lệ.


Lúc đầu, anh em Korava và panđava sống chung bình đẳng với nhau trong vương
quốc Haxtinapura, nhưng sau vì xung đột quyền lợi đất đai và nô lệ nên anh em Panđava
tách ra, thành lập vương quốc Inđraprasa riêng. Đó là biểu hiện sự ra đời và phát triển của

nhiêù vương quốc. Từ đó chế độ dân chủ bộ lạc mất dần, thay thế vào đó là chế độ quân sự
quân chủ.
Vương quốc nào cũng muốn mình hùng mạnh và phồn vinh, điều đó lại sinh ra xung
đột mới, những xung đột đó thường được giải quyết bằng chiến tranh. Anh em Panđava
chiến thắng, trở lại thống trị vương quốc Haxtinapurax rộng lớn hơn là phản ánh mục đích
đó.
Sự thắng lợi của anh em Panđava cũng nói lên một đặc điểm mới là sự thống trị xã
hội giờ đây không thuộc đẳng cấp Brahman nữa, mà thuộc đẳng cấp võ sĩ quý tộc Ksatrya.
Anh em Korava và Panđava trong nội bộ Ksatrya xâu xé nhau về quyền lợi thông
qua chiến tranh cũng nói lên sự tan rã của các phương thức sản xuất dựa trên cơ sở huyết
thống. Mâu thuẫn đó chi phối toàn bộ xã hội ngày càng sâu sắc.
Quy mô của chiến tranh trong Mahabrahata đã phá vỡ dần nên văn minh nô lệ đại
thịnh, đã kéo sự phát triển của xã hội Ấn Độ cổ đại chậm lại. Chiến tranh tàn khốc đã
giáng xuống đầu nhân dân nô lệ, gây ra đau khổ và tội lỗi cho họ.
Đọc Mahabharata, người đọc còn bị lôi cuốn vào quang cảnh của chiến tranh tràn
ngập hào khí, sôi động. Người đọc sẽ say mê đến mức hồi hộp theo dõi những trận giao
tranh ác liệt xảy ra trong 18 ngày liền. Cảm xúc càng tăng lên khi chiến tranh tiến dần đến
ngày kết thúc, khi các tướng lĩnh dũng mãnh nhất dần dần gục vào chiến trường.
Mahabharata là tác phẩm vĩ đại; là bách khoa toàn thư về đời sống văn hóa, chính trị
và xx hội Ấn Độ cổ đại. Tác phẩm chứa sự kiện lịch sử, những tín ngưỡng tôn giáo, những
tập quán sinh hoạt của tập thể dân tộc Ấn Độ suốt từ chân núi Hymalaya hùng vĩ cho tới
vịnh Bengan tràn ngập ánh nắng.
Do nội dung phong phú mà những người sáng tạo ra tác phẩm vĩ đại này đã kinh kệ,
những tác phẩm triết lí, nghệ thuật,… tạo ra một lối kết cấu khác biệt với những bản anh
hùng ca khác.

2.4. Giá trị nghệ thuật:
Có người cho rằng lối kết cấu truyện dài lồng khung xâu chuỗi trong Mahabharata
đã tạo ra sự phức tạp của nó. Trong Mahabharata người ta tìm thấy nhiều đoạn lặp lại, có
chỗ mâu thuẫn, có truyện không liên quan đến toàn bộ tác phẩm. Lý tưởng và đạo đức của

Mahabharata được thể hiện qua hành động và tính cách của năm anh em Panđava và một
số nhân vật khác như: Đropađi, Kunti, Krisna, Bhima..... Mỗi nhân vật có một tính cách,


một đời sống tinh thần riêng chứ không mang tính ước lệ theo khuôn mẫu chuyện dân gian
- đó là đặc sắc xây dựng nghệ thuật của sử thi.
Mặc dù có đặc điểm đó nhưng nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Mahabharata là một
tác phẩm mẫu mực về quy tắc của anh hùng ca. Có lẽ vì thế mà sử thi này có sức ảnh
hưởng sâu rộng đến thế giới, đặc biệt là ở Đông Nam Á. Ở Inđônêxia, khoảng TK VII đến
TK VIII xuất hiện nhiều chuyện được phóng tác từ cốt truyện Mahabharata như truyện
Trận đánh vĩ đại của con cháu Bharata bằng tiếng Java cổ, Đám cưới của Acgiuna. Ở
Campuchia, Mahabharata xuất hiện sớm nhất, rõ rệt nhất là vào thời kì văn học Ăng co,
nhiều cảnh trong Mahabharata được thể hiện bằng phù điêu trên mặt đền Ăngco và đền đài
khác.

2.5. Tóm tắt sử thi Mahabarata:
Baharata, vua của triều đại Mặt Trăng sinh ra hai người con trai thành hai dòng họ
Curu và Pandu. Pandu sinh được năm người con trai gọi là anh em Pandava. Còn ritaratora
bị mù thuộc dòng họ Curu sinh được trăm người con trai gọi là anh em Kaurava.
Sau khi Pandu qua đời, Đơritaratơra lên ngôi, đem năm đứa con của anh về nuôi
chung với đàn con mình. Năm anh em Pandava trưởng thành rất nhanh chóng nổi tiếng là
những người có tài năng, đức độ. Điều đó làm cho anh em Kaurava đem lòng ghen tị. Bọn
họ đã nhiều lần lập mưu hãm hại từng người trong năm anh em đó nhưng đều thất bại.
Đơritaratơra biết rõ điều đó cho nên đem năm anh em Pandava đến ở trong lâu đài
Varanamvada gần đó. Anh em Kaurava lại lập mưu đốt cháy lâu đài hòng giết chết cả
nhóm, nhưng nhờ biết tin trước cho nên anh em Pandava dẫn mẹ là Kunti trốn vào rừng
sâu. Thoát chết, họ cải trang thành những đạo sĩ Balamon sống cuộc đời ẩn dật.
Một năm sau, vua Đropada xứ Panchala mở hội kén phò mã cho nàng công chúa
Dropadi. Anh em Pandava nghe tin kéo nhau đến đua tài. Các hoàng tử từ các nơi đều thất
bại. Duy chỉ có Acgiuna, em trai thứ ba của anh em Pandava bắn trúng cả năm phát xuyên

qua bánh xe đang quay trúng mắt cá vàng. Sau đó, nhà vua làm lễ cưới cho hai người.
Năm anh em nhà Pandava đưa nàng Đrôpadi về ra mắt mẹ, một người vừa nói với Kunti là
hôm nay mang một vật quý về, chưa kịp nhìn người mẹ đã nói rằng : “ Thế thì các con
hãy chia đều cho nhau” Dứt lời bà nhìn thấy Đrôpadi trước mặt thì đã không kịp hối tiếc.
Thế là năm người anh em phải chung sống với nàng công chúa.
Trong lễ cưới người ta đọc bản kinh chứng nhận năm anh em là một bộ phận của
một vị thần. Vì vậy Đrôpadi lấy chung năm anh em là hợp lệ. Sau việc này, Đơritaratơra
và năm anh em Kaurava biết anh em Pandava vẫn còn sống và trở thành đồng minh của
nước láng giềng. Theo lời khuyên trưởng lão, Đơritaratơra cho người đi mời anh em
Pandava trở về và chia cho họ nửa đất đai. Yuhi (Yudhisthira) là anh cả được tôn làm vua


vương quốc Iudraprasa cạnh vương quốc Haxtinapura của dòng họ Kaurava. Dù lãnh thổ
của năm anh em xấu hơn nhưng nhờ tài năng mà đã trở nên thịnh vượng. Một lần nữa, làm
cho anh em Kaurava ghen ghét, tìm cách tiêu diệt.
Yuhi vốn là tên mê cờ bạc, bị Duryodhana lôi kéo vào cảnh sát phạt trên bàn cờ xúc
xắc. Duryodhana nhờ một tay chơi có tà thuật đánh cho bại phải đem vương quốc nhường
lại cho Duryodhana. Anh em Pandava lại lần nữa đưa mẹ và vợ con vào ẩn dật trong rừng
mười ba năm trời. Hết hạn, họ trở lại vương quốc nhưng Duryodhana trở mặt lật lọng việc
giao ước không chịu trả lại vương quốc. Thậm chí Yuhi chỉ đòi lại một làng nhỏ để họ
chung sống làm ăn nhưng Duryodhana vẫn cự tuyệt. Chính điều này làm cho anh em
Pandava tức giận buộc gây chiến với anh em Kaurava.
Cuộc chiến tranh giữa anh em dòng họ Bharata nổ ra, lôi cuốn các vương quốc lân
cận tham chiến. Chiến trường Curusetora mù mịt khói lửa trong vòng mười tám ngày,
hàng triệu xác chết chất thành núi. Kết thúc trận chiến chỉ còn lại mười một người sống
sót.
Anh em Pandava tuy chiến thắng nhưng cũng vô cùng đau xót vì phải chém giết anh
em cùng huyết thống. Sau khi làm lễ ngựa tế thần để tỏ lòng sám hối. Yuhi lên ngôi trị vị
trong ba mươi sáu năm ròng.
Câu chuyện kết thúc bằng một cuộc hành hương của năm anh em Pandava và nàng

Đrôpadi lên đỉnh Meru cao chót vót của ngọn núi Himalaya hùng vĩ, nơi đó là Cõi Trời.
Dọc đường nàng Đrôpadi và bốn anh em lần lượt bỏ xác ở trần gian, riêng Yuhi cùng con
chó chàng gặp dọc đường nhận làm bạn đồng hành lên được đỉnh núi. Thần Indra hiện ra
tiếp đón nhưng không chịu cho con chó vào Cõi Trời. Yuhi quyết định ở ngoài cùng con
chó trung thành, lúc sau con chó biến thành thần Dharma và cho biết đây là hành động thử
thách đạo đức của Yuhi. Thế là Yuhi được vào Cõi Trời, Yuhi gặp kẻ thù cũ của mình đầu
tiên, sau đó được đưa tới hoả ngục gặp các anh em và bạn bè. Yuhi xin các thần : “Tôi xin
ở lại chốn này vì những người thân của tôi ở đâu thì nơi đó là thiên đường của tôi”. Yuhi
đã thể hiện được lòng trung thành của mình cho nên anh em Pandava đều được vào chốn
vĩnh hằng bất diệt.

Chương III: Tư tưởng Đácma và tư tưởng Đanta:
3.1.

Tư tưởng Đácma:

3.1.1. Khái niệm tư tưởng tinh thần Đácma:


Đácma là một trong số những khái niệm cơ bản của đạo Hinđu, là kết quả của sự
suy ngẫm và tìm tòi của người Ấn Độ cổ đại. Đó là những khái niệm về vũ trụ quan
(atman - brahman), nhân sinh quan (karma - samsara, dharma - moska,…). Trong đó,
dharma được coi là “đạo hay pháp, chỉ nguyên lý, trình tự, quy luật khách quan cơ bản
nhất chi phối toàn bộ vũ trụ, đem lại sự điều hòa về đủ mọi phương diện”(4). Người Ấn
Độ xa xưa đã coi đácma như là thước đo những giá trị đạo đức, như một quan niệm về
luân thường đạo lý với những phép tắc ứng xử trong gia đình và ngoài xã hội.
3.1.2.

Tinh thần Đác ma trong sử thi Mahabrahata:


Sử thi truyền thống quan niệm nhân vật anh hùng có tính cách “nhất phiến,
yên lặng, an nhàn, tự tại” [3, tr.450]. Mahabharata có câu:“Không m ột ng ười có ph ẩm
hạnh nào lại đủ kiên cường để suốt đời giữ vững phẩm hạnh, cũng nh ư không m ột
kẻ tội lỗi nào lại quá xấu xa để sống trọn vẹn cuộc đời trong vũng bùn t ội l ỗi... Trên
trần gian này không có ai mà không làm cả việc thiện l ẫn đi ều ác” [6, tr.97]. Ti ếp
cận với Mahabharata chúng ta thấy nhân vật nào cũng vừa cao cả v ừa th ấp hèn, v ừa
đáng ngợi ca vừa đáng chê trách.
Về điểm này, nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra: “Các nhân vật tích c ực đôi khi có
những hành động mà khó có thể đánh giá được là có đạo đức” [7, tr.138]. P.A.Grinser
cũng nhận định: “Trong Mahabharata không có sự phân biệt rạch ròi giữa nhân v ật
chính diện và nhân vật phản , nhưng có mâu thuẫn trong tính cách nhân v ật, có c ả
phần ánh sáng và bóng tối trên mỗi tượng đài sử thi” [2, tr.45]. Nguy ễn Th ừa H ỷ ghi
lại những cảm nhận tinh tế của mình về các nhân vật trong Mahabharata nh ư nó
vốn có: “Bhima - một con người võ biền, đầy lòng tốt, chân th ực, nh ưng vẫn còn
mang tính chất man rợ, hoặc Yudhisthira - một mẫu người đạo đ ức, mô ph ạm
nhưng mềm yếu và có lúc vẫn rơi xuống những tật xấu dối trá của m ột con ng ười
bình thường...” [5, tr.144].
Đúng là trong Mahabharata “không có nhân vật toàn thiện, toàn mỹ” [4, tr.59],
không có động nào được coi là tuyệt đối đúng. Đến nh ư Arjuna cao th ượng và tài
nghệ,vẫn mượn Sikhandin làm lá chắn cho hànhđộng giao đấu cung tên của mình
với Bhisma, hành động phạm luật được biện minh bởi định m ệnh. Nh ờ v ậy t ội l ỗi
của Arjuna cũng được giảm nhẹ, mà tài năng cao cả của Bhisma vẫn đ ược ng ợi ca.
Điều đó hoàn toàn phù hợp với cảm hứng của thể loại sử thi nói chung và
Mahabharata nói riêng. Cũng vậy, khi giao đấu với Karna ở cuối chiến tr ận
Kurukshetra Arjuna đã bắn tên hạ thủ trong lúc Karna ngừng giao đấu vì đang g ặp
khó khăn, bánh kẹt trong bùn lầy và máu... Tác giả miêu tả: “Bàn tay c ủa Arjuna ng ập
ngừng không muốn làm một hành động không th ượng võ” [6, tr.431]. Cu ối cùng,
bằng sự can thiệp của định mệnh Arjuna đành phải hành động vì “ch ấp nh ận l ời sai



khiến của Ngọc hoàng” (ở đây chính là Krishna). Sử thi quy k ết trách nhi ệm thu ộc
về Krishna. Cảnh này trong phim Mahabharata được đạo diễn Peter Brook bi ểu hiện
bằng cách cho bàn tay của Krishna di chuy ển mũi tên của Arjuna. Điều l ạ lùng là t ất
cả những hành động thể hiện sự thiếu nhất quán trong tính cách ấy, đều được gi ả
xây dựng trên cơ sở lý giải nó như nghĩa vụ thực thi bổn phận dưới s ự ch ỉ đạo c ủa
Krishna. Krishna là nhân vật gây ra nhiều tranh cãi, nhiều cách hi ểu khác nhau, ch ứa
đựng những băn khoăn thắc mắc, tốt hay xấu, thiện hay ác, th ần hay ng ười, vô hình
hay hữu hình...
Chúng tôi tạm phân ra các loại ý kiến:
- Cho Krishna là hoá thân của thần Vishnu(Will Durant, Nguy ễn T ấn Đ ắc).
- Chỉ ra sự thiếu nhất quán trong hành động của Krishna (Louis Renou,
Nguyễn Thừa Hỷ).
- Cho Krishna là sự đúc kết toàn bộ nội dung đồ sộ của Mahabharata, là tham
vọng nhận thức vũ trụ nhân sinh của người Ấn Độ, mà điều c ốt tủy là h ọc thuy ết
Dharma (Rabinôvic,Carrière).
Theo chúng tôi, Krishna trở thành biểu tượng cho Đácma, chi phối nguyên tắc
xây dựng hình tượng nhân vật anh hùng. Krishna thành người h ướng đạo, giáo hu ấn
đạo đức và cách xử thế cho các nhân vật anh hùng trong sử thi này, kết tinh c ủa tinh
thần Hindu giáo: Bảo vệ lẽ phải, tiêu diệt cái ác tội lỗi và phi đạo lý, gi ữ v ững lu ật l ệ,
thiết lập thế giới của cái thiện, cái hoà hợp. Để thực hiện ch ức năng đó, nhân v ật
này có thể hoá thân thành trăm vóc thể thế nhân. Và nh ư th ế, tất c ả nh ững hành vi
xử thế dường như mâu thuẫn nêu và phân tích ở bên trên, đều đ ược h ướng đ ạo b ởi
Krishna hiện thân của Đácma. Như vậy, Mahabharata không chỉ miêu tả hành động
nhân vật anh hùng theo quan niệm thống mà còn thể hiện chúng dưới ánh sáng đạo
đức tôn giáo.
Từ điểm nhìn của đẳng cấp tu sĩ Brahmin, Mahabharata xem “c ơn th ịnh n ộ”,
“sự giận dữ”... không còn vẻ cao cả, hùng tráng, đáng kính nh ư trong Iliad. Nó không
còn là “biến cố sử thi” để người anh hùng hành động kh ẳng định danh d ự cá nhân.
Hình ảnh “cơn giận”, “cơn thịnh nộ” trở đi trở lại nhiều lần trên từng trang sách c ủa
Mahabharata, là động lực để sản sinh những hành động hủy diệt cả nhân hình lẫn

nhân tính: “Khi hận thù và căm giận đã trào lên thì những điều luật về danh d ự và
đạo lý Đácma đều bất lực và không kiểm soát được chúng” [6, tr.418]. Cơn gi ận tr ở
thành một tín hiệu nghệ thuật chi phối hành động của nhân vật trong Mahabharata,
tạo nên nét đặc thù. Trong Iliad, Achilles giận Agamennon, nh ưng khi Patrocle b ị
giết, cái chết ấy đã hóa giải mối hận thù của Achilles v ới Agamennon, đ ẩy Achilles


sang thái cực khác. Achilles đã trút sức mạnh của lòng căm thù lên Hector. Ng ược l ại
trong Mahabharata, cơn giận mang tính đối kháng tr ở thành xung l ực chi ph ối t ừng
hành động cụ thể, không được hoá giải mà ngày càng tụ thêm. Ví nh ư Karna gi ữ mãi
mối hận với Arjuna cho đến cuối đời. Bhima chỉ hả giận khi thanh toán xong v ới
Dussasana và Duryodhana... Với Mahabharata, cơn giận cắt nghĩa cho hành động,
thúc đẩy hành động. Chiến trận Kurukshetra diễn ra trong vòng m ười tám ngày, thì
có tới 63 lần các anh hùng hành động xuất phát từ sự giận d ữ, có nh ững v ật c ứ hành
động là hầu như gắn với cơn giận. Bhima là nhân vật như vậy, m ười tám ngày chi ến
trận thì có tới 17 lần Bhima được khắc họa qua hành đ ộng g ắn v ới s ự gi ận d ữ b ản
năng. Sau Bhima là các nhân vật thuộc phe Kaurava như: Duryodhana, Dussasana,
Karna, Aswatthama... Tư tưởng thẩm mỹ của hành động được bổ sung lớp ý nghĩa v ề
khả năng tuyên truyền giáo lý, cung cấp cho các th ế hệ đ ộc gi ả nh ững bài h ọc sâu
sắc: “Cơn thịnh nộ sinh ra cùng với nó là cái ác. Đó là kẻ thù trong th ế gi ới này”[2,
322]. Vào ngày thứ sáu của chiến trận Kurukshetra, hành động của Drona đ ược miêu
tả hết sức bất thường. Ông lao vào “một cuộc chém giết kỳ lạ”, biến chi ến tr ường
thành nghĩa địa đầy những thây ma “máu chảy thành thác, ph ủ đ ầy xác binh lính voi
ngựa và xe cộ...”[6, tr.338]. Chìm trong cơn lốc chiến tranh, hành đ ộng c ủa Bhima
cũng được thể hiện dồn dập, khốc liệt hơn rất nhiều. Mahabharata miêu tả theo
nguyên tắc tịnh tiến, bằng so sánh dịch lùi, cuộc giao tranh gi ữa Bhima v ới anh em
Duryodhana diễn ra “giống như cuộc giao tranh thuở trước giữa th ần và quỷ”. Bhima
đã không còn lý trí “mất hết kiên nhẫn, với cây chùy lăm lăm trong tay, nh ảy xu ống
xe, chạy bộ tới thẳng chỗ con cái Dhritarashtra, và nóng lòng giết chúng ngay” [6,
tr.339]. Hành động thiếu tự chủ này, còn lặp lại ở nhiều tr ận giao đ ấu khác. Ở ngày

thứ mười bốn, trong giao phong ác liệt với Karna: “Một phút giận điên không t ự ch ủ
được, Bhima nhảy bổ vào Karna...” [6, tr.412]. Hành động của Bhima đ ược ch ỉ đ ạo
bởi sức mạnh dữ dội của lòng hận thù bản năng. Cách th ể hiện hành đ ộng c ủa
Drona và hành động của Bhima là một quá trình chuy ển đổi t ừ nhân tính sang thú
tính. Mahabharata cắt nghĩa trạng thái chuy ển đổi đó do chiến tranh, tr ực ti ếp t ỏ
thái độ không đồng tình. Đây là lớp nghĩa mới và cách th ể hiện m ới của
Mahabharata.
Quan niệm của đẳng cấp Kshatriya rằng chiến trận là trường đua chen s ức
mạnh, là nơi thi thố tài năng, mang lại vinh quang cho người anh hùng đã lùi xa.
Chiến tranh ngày càng bộc lộ bộ mặt hủy diệt, qua những hành động tha hoá nhân
tính đẩy lùi con người trở lại bản năng thú tính. Chiến tranh trong Mahabharata
được đặt dưới góc nhìn của tu sĩ Brahmin, khác với chiến tranh trong Iliad. V ới Iliad,
chiến tranh được xem như “cách kiếm lợi thông thường của tập th ể chúng ta đ ối v ới
tập thể chúng nó”, nên cũng vinh quang như lao động sản xuất. Cũng v ới cách nhìn
này Mahabharata miêu tả hành động giao tranh của Yudhisthira ở ngày th ứ b ảy trên


chiến trường Kurukshetra: “Thế là Yudhisthira mất bình tĩnh, phóng m ột mũi tên c ực
mạnh đâm thủng ngực áo giáp của Srutayu. Ngày hôm đó, Yudhisthira không t ự ch ủ
được mình mà lại bừng bừng lửa giận”[6, tr.343]. Đây là một trong hai hành đ ộng, đ ể
lại kết quả của Yudhisthira trên chiến trận được khắc họa trong trạng thái tinh
thần mất tự chủ. Con người nhẫn nhục, điềm tĩnh đức độ nh ư Yudhisthira đến cuối
chiến trận cũng bị chiến tranh lôi vào vòng cương tỏa kh ốc liệt, tr ở thành k ẻ sát
nhân. Mahabharata không ngợi ca hành động này như một chiến tích vinh quang, mà
trái lại đặt ra bao vấn đề xã hội có ý nghĩa vũ trụ, vấn đề chi ến tranh và hoà bình,
đạo đức và phi đạo đức…
Mahabharata xây dựng mọi tương quan giữacác nhân vật anh hùng đều mang
tính biểu tượng, thuyết minh cho ý nghĩa đạo đức, lấy Đácma làm hạt nhân. Đácma
là nguyên tắc đạo đức của người Ấn Độ, là nghĩa vụ hành đ ộng, là bổn ph ận c ủa m ỗi
người sống trong vũ trụ này. Với trận đánh trên chiến trường Kurukshetra, Đácma

trở thành nguồn năng Những hành động trên khẳng định ý tưởng: “Để khắc sâu
Dharma vào trái tim nhân loại, Vyasa đã viết bản anh hùng ca này” [1, tr.9].
Mahabharata đã xây dựng những hành động mang tính chất biểu tượng, th ể hi ện s ự
nghiêng mình trước đạo đức, và sự hướng tới một khuôn mẫu đạo đức lý t ưởng của
nhân vật anh hùng Ấn Độ.
Trong xã hội đầy rẫy những mâu thuẫn, tội ác xuất hiện ngày càng nhiều qua những
cuộc xung đột quyền lợi. Số phận con người luôn bị dày xéo trong các cuộc chiến tranh
loạn lạc. Một “ tinh thần Ấn Độ ” nổi lên, đó là tinh thần nhân văn. Tinh thần nhân văn
được nảy nở từ trong những sáng tác dân gian có trước đó được thu hút vào thiên sử thi
này.
Duy trì và biểu hiện tinh thần nhân văn đó chủ yếu thông qua nội dung Đácma.
Theo tinh thần Đácma con người có số phận, sống phải thiện, hợp đạo lí, công bằng, bác
ái. Những điều đó đã được thể hiện sâu sắc trong Mahabrahata. Tinh thần nhân văn này ra
đời từ thời kì xã hội nguyên thủy trên cơ sở xã hội chưa có giai cấp.
Hình ảnh của anh em Yuhi từ bỏ ngôi báu của mình sau 36 năm trời để cùng nhau
hành hương lên Cõi trời tìm chốn vĩnh hằng để siêu thoat ( Moksa), đã nói lên sự thắng thế
của tinh thần Đácma, khát vọng của nhân dân đương thời.
Lí tưởng và đạo đức trong Mahabharata được thể hiện qua hành động và tính cách
của năm anh em Panđava và một số nhân vật khác như Krixna, Bhima,… Mỗi nhân vật
mang một tính cách, một đời sống tinh thần riêng chứ không phải là nhân vật mang tính
chất ước lệ, có khuôn mẫu ở một số sử thi khác. Yuhi đức độ, sáng suốt, Acsgiuna dung
cảm kiêu hùng, Bhima xông xáo, sôi nổi quyết giữ trọn lời thề cho đến chết, Kacna hùng


dung và kiêu căng, Krixna tài trí siêu việt, còn Đrita tuy mù những vẫn oai nghiêm trong
cốt cách của một ông vua vừa gian hùng vừa xảo quyệt.
Mỗi nhân vật đều để lại một ấn tượng khó quên trong tâm hồn người đọc. Roomet
Đơt nhận xét rằng: “ Trừ tác phẩm Iliat ra không có tác phẩm nào mà nghệ thuật miêu tả
nhân vật phong phú và chân thực như Mahabharata. Nhân vật không đau khổ dằn vặt như
nhân vật của Đantê, không say mê cực độ như nhân vật của

Sếcxpia, trái lại các nhân vật đều phản ánh tính cách uy nghiêm, trầm lặng của sức mạnh
tinh thần chẳng khác gì những hình tượng bất hủ bằng cẩm thạch từ thời xưa để lại mà các
nghệ sĩ điêu khắc ngày nay không tài nào mô phỏng được”.
Trong sử thi Mahabharata, có thể tìm thấy nhiều nhân vật anh hùng nhưng ở mỗi
người anh hùng lại xuất sắc và ưu tú về một mặt nào đó. Sự lựa chọn hành động để làm
nổi bật điểm mạnh của từng nhân vật cũng là khuôn mẫu truyền thống trong các sử thi anh
hùng. Thể hiện sức mạnh thể chất của người anh hùng được biểu hiện qua nhân vật Bhima.
Sự thể hiện trí tuệ và tài năng của người anh hùng thì được biểu hiện qua hành động của
nhân vật Arjuna. Trí tuệ và đạo đức của người anh hùng lại được thể hiện qua nhân vật
Yudhisthira. Đạo lý là tiêu chí để đánh giá hành động của nhân vật này, tạo nên một gam
màu riêng về khuôn mẫu người anh hùng Ấn Độ. Sức mạnh của Yudhisthira không phải ở
thể lực hay tài năng chiến binh mà là sức mạnh siêu phàm của trí tuệ và sự công bằng, đạo
đức trong sáng. Trí tuệ ấy giúp chàng hiểu được tận cùng cốt lõi của đạo lý. Yudhisthira đã
giành sự sống cho các em mình bằng sự công minh, chính trực, cao thượng với trái tim
nhân hậu. Như vậy, trong sử thi Mahabharata, nhân vật anh hùng lý tưởng là sự tổng hòa
của nhiều nhân vật, mỗi nhân vật thể hiện cái nhất thể lý tưởng và là một kiểu nhân vật
điển hình trong “Bức tượng N vị nhất thể”.
Nếu như người anh hùng trong các sử thi Hy Lạp luôn hướng tới chiến thắng và
vinh quang nơi chiến trận, nơi biển khơi thì người anh hùng trong các sử thi Ấn Độ lại
mang lý tưởng thuần khiết hơn: lý tưởng về điều thiện, về lẽ phải, về đạo lý ở đời. Trong
sử thi Mahabharatalời giáo huấn của Krishna dựa trên cơ sở vững chắc của lẽ Dharma: “Ai
cũng phải chết, người anh hùng hay kẻ nhát gan cũng vậy, nhưng nhiệm vụ cao quý nhất
của một Kshatriya là phải trung thành với dòng dõi và niềm tin của mình, phải đè bẹp quân
thù trong những trận đánh chính đáng mà giành lấy vinh quang”

3.2. Tư tưởng Đanđa:
3.2.1. Khái niệm tư tưởng tinh thần Đanđa:
Đanđa có nghĩa đen là "bất công".
Trong số những cặp từ thường dùng trong thánh thư, cặp “ Đácma - Đanđa” có lẽ
được sử dụng thường xuyên nhất. Vì định nghĩa về Đácma là “sự hỗ trợ và duy trì", thì tất

cả những nỗ lực để tiêu diệt, chống lại hoặc đảo ngược quá trình hỗ trợ và duy trì này đều
nằm trong tầm nhìn của
Đanđa. Nếu Đácma là con đường thẳng dẫn


đến Abhyudaya (hạnh phúc và thịnh vượng) và Nissreyasa (sự hoàn hảo tinh thần), thì
Đanđa là con đường quanh co dẫn dắt cả hai.
Đácma cho thấy hành động và bổn phận theo nghi lễ, được khẳng định bằng những
lời dạy của Sastra và Acarya và không phản đối Sampradaya. Trong khi Đanđa là viết tắt
của tất cả các thiếu sót và tội lỗi.
Tuy nhiên, trong thực tế, từ này thường được sử dụng nhiều hơn theo nghĩa những
hành động bất chính và tiến hành dẫn đến tội lỗi. Ví dụ, nói dối, ăn cắp, gian lận, ngoại
tình và phạm các hành vi bị cấm khác và tội phạm là Đanđa. Bỏ chức vụ và không thực
hiện các trách nhiệm được giao phó là Đanđa. Thực hiện các hành động như không được
quy định cho một người, ví dụ như Brahmana vũ trang hoặc nông nghiệp mặc dù không có
khẩn cấp hoặc khẩn cấp đi nữa cũng được coi là Đanđa.
Hiện thân của Đanđa được coi là nguồn cội của nỗi đau và sự sợ hãi: hinsa (bạo lực), anrta
(vô ngã), nikrti (lừa dối), maya (ảo tưởng), bhaya (sợ hãi), vedana (đau khổ), naraka (địa
ngục), duhkha ( lo lắng ) và mrtyu (cái chết)… Mặc dù các chi tiết có thể khác nhau,
nhưng ý nghĩa rõ ràng:
" Đanđa là gốc rễ của tất cả nỗi sợ hãi, rắc rối và đau khổ của chúng ta."

3.2.2. Tinh thần Đanđa trong sử thi Mahabharata:
Ông vua Đritaratra trong sử thi được miêu tả như một con người yếu đuối, muốn
nghe theo lẽ phải, nhưng dễ ngả về phía ác. Điều đó thể hiện khi Đaritaratra biết rõ hành vi
của con mình là các anh em Korava nhiều lần lập mưu hãm hại anh em nhà Panđava,
nhưng ông lại làm lơ như không biết gì. Và ông đã sắp xếp cho anh em nhà Panđava đến ở
trong lâu đài Varanamvada. Cũng có thể ông vua Đritaratra muốn bảo vệ vương quyền và
các con của mình để truyền ngôi báu nên mới coi như không gì xảy ra mặc cho anh em
Korava lộng hành. Đó là sự bảo vệ quyền tư hữu, Đritaratra thể hiện cho giai cấp thống trị

muốn xây dựng để bảo vệ quyền lợi của họ.
Hay giữa tính cách của các nhân vật tư tưởng tinh thần Đanta cũng len lỏi vào nên
có sự đấu tranh giữa thiện và ác. Người anh cả của nhà Panđava là Yuhi vốn là người trung
thực, nhân hậu nhưng lại thường bộc lộ những cá tính tiêu cực như mê cờ bạc…Acgiuna là
một chiến binh lý tưởng, dũng cảm, hào hiệp, giương cung năm phát bắn trúng cả năm vào
mục tiêu và cưới được nàng vợ xinh đẹp là Đrôpađi. Nhưng cuối cùng người vợ của chàng
phải chia đều cho năm anh em. Ở đây chế độ phụ quyền phát triển. Người phụ nữ - ở đây
là công chúa Đrôpađi- không có quyền lựa chọn, dù sung sướng khi cưới được người
chồng tài giỏi nhưng lại phải là người vợ chung cho cả năm anh em nhà Panđava.
Chế độ phụ quyền là ở một hình thái tổ chức xã hội trong đó nam giới, đặc biệt là
người cha đóng vai trò chính trong gia đình, ngoài xã hội và huyết tộc được tính theo dòng


cha, vợ phải theo chồng, sống bên nhà chồng hình thành đại gia đình phụ quyền. Điểm đặc
biệt của chế độ phụ quyền là bất bình quyền về nam nữ. Và trong sử thi này chế độ phụ
quyền được thể hiện rất sâu sắc. Nó cũng ánh lên phần nào tư tưởng Đan đa thể hiện trong
xã hội lúc bấy giờ.
Trước đó, anh em Korava và panđava sống chung bình đẳng với nhau trong vương
quốc Haxtinapura, nhưng sau vì xung đột quyền lợi đất đai và nô lệ nên anh em Panđava
tách ra, thành lập vương quốc Inđraprasa riêng. Đó là biểu hiện sự ra đời và phát triển của
nhiêù vương quốc. Từ đó chế độ dân chủ bộ lạc mất dần, thay thế vào đó là chế độ quân sự
quân chủ.

Chương IV: So sánh tư tưởng Đácma và tư tưởng Đanđa:


GIỐNG:

Cả hai tư tưởng này đều là hệ quy chiếu để các anh hùng trong sử thi Mahabharata
nhìn vào để soi nhân cách và đạo đức.



KHÁC:

Hai tư tưởng này luôn đối lập với nhau. Một bên tuân theo tư tưởng Đácma là con
người luôn hướng về điều thiện sống bác ái, công bằng và đạo lí.
Qua sự phản ánh của Mahabharata, tính chất của chiến tranh đã được khúc xạ đi
nhiều. Bằng cớ là trong giải pháp tìm kiếm hoà bình của Pandava, họ chỉ cần năm làng
nhỏ, thay vì cả một vương quốc, miễn là tránh được xung đột đổ máu với các anh con bác
của mình. Chỉ khi Duryodhana nhất định cự tuyệt: “Không một tấc đất cắm dùi !”chiến
tranh mới trở nên không sao tránh khỏi. Xung đột chủ yếu giữa Pandava và Kaurava là
xung đột giữa tinh thần bình đẳng và bác ái, yêu thương, hoà hợp (vốn là truyền thống đạo
đức của thời kì Công xã nguyên thuỷ, đồng thời là khát vọng của người Ấn) với cái phi
đạo lí, bất công, hiềm tị và thù hằn (là bản chất gắn với cơ sở tư hữu và thể chế Nhà nước
của các quốc gia chiếm hữu nô lệ mới hình thành). Trong Mahabharata, anh em Panđava
đã chiến đấu với anh em nhà Korava để giành lại đất đai. Cuộc chiến đấu nổ ra rất khốc
liệt và công lý đã đến với anh em nhà Panđava. Chiến thắng của anh em Panđava được
xem là chiến thắng của đạo đức và công lý. Theo như quan niệm dân gian thì lẽ phải sẽ
chiến thắng, và kẻ xấu sẽ thất bại, thua cuộc. Hành động của họ đã hoàn thiện được bổn
phận và danh dự mà Đácma đề ra.
Hay câu chuyện kết thúc bằng một cuộc hành hương của năm anh em Pandava và
nàng Đrôpadi lên đỉnh Meru cao chót vót của ngọn núi Himalaya hùng vĩ, nơi đó là Cõi
Trời. Dọc đường nàng Đrôpadi và bốn anh em lần lượt bỏ xác ở trần gian, riêng Yuhi cùng


con chó chàng gặp dọc đường nhận làm bạn đồng hành lên được đỉnh núi. Thần Indra hiện
ra tiếp đón nhưng không chịu cho con chó vào Cõi Trời. Yuhi quyết định ở ngoài cùng con
chó trung thành, lúc sau con chó biến thành thần Đácma và cho biết đây là hành động thử
thách đạo đức của Yuhi. Thế là Yuhi được vào Cõi Trời, Yuhi gặp kẻ thù cũ của mình đầu
tiên, sau đó được đưa tới hoả ngục gặp các anh em và bạn bè. Yuhi xin các thần : “Tôi xin

ở lại chốn này vì những người thân của tôi ở đâu thì nơi đó là thiên đường của tôi”. Yuhi
đã thể hiện được lòng trung thành của mình cho nên anh em Pandava đều được vào chốn
vĩnh hằng bất diệt.
Trong quan niệm của người Ấn Độ, bản chất của mỗi con người luôn có sự đấu
tranh giữa đạo sống vị tha, bác ái, khoan dung, hòa hợp với lối sống ích kỷ, độc ác, ngông
cuồng, giữa ánh sáng và bóng tối. Và trong Mahabharata thì đó là sự xung đột giữa bổn
phận - quyền lợi, giữa danh dự - tình yêu,... Vì vậy, người anh hùng lý tưởng phải là người
chiến thắng được phần bóng tối, con người cá nhân trong chính bản thân mình. Và những
nhân vật trong sử thi trên đã thể hiện được điều đó, đồng thời đi đúng so với những gì tinh
thần Đácma đưa ra.
Còn tư tưởng tinh thần Đanđa thì ngược lại. Sau này khi nhà nước nô lệ hình thành,
tư tưởng Đanđa (tư tưởng tư hữu) của giai cấp thống trị xuất hiện lấn át tư tưởng Đácma.
Tư tưởng Đácma bảo vệ quyền tư hữu, phát triển chế độ phụ quyền, lấy sức mạnh quân
sự và quyền lực của giai cấp thống trị thuộc đẳng cấp Brahman và Ksatrya để đàn áp xã
hội.
Trước đây khi giải quyết những mối bất hòa, những xung đột về các quyền lợi khác
thì quần chúng làm trọng tài phân xử, nhưng giờ đây do kẻ thống trị nắm quyền hành
quyết định.
Mahabharata đã phản ánh sâu sắc mâu thuẫn đó. Một bên giai cấp thống trị muốn
xây dựng tư tưởng Đanđa để bảo vệ quyền lợi của họ. Một bên nhân dân lại muốn duy trì
truyền thống tinh thần Đácma. Mặc dầu giai cấp thống trị tìm mọi cách đảo lộn truyền
thống đó nhưng không thể nào thắng được sức mạnh và tinh thần của nhân dân. Cuối cùng
buộc họ phải tuyên bố : “ Thiên hạ và cuộc đời tiếp tục theo tinh thần Đácma”.
Ở đây, ta thấy cuộc chiến tranh giữa Đácma (một trong những nghĩa của từ Đácma
là Đạo lí, Lẽ phải) và Đanđa (Phi đạo lí). Người Ấn gọi chiến tranh trong Mahabharata là
DHARMAKSHETRE (chiến tranh bảo vệ Đácma). Đây là điểm khác với Iliad. Trong
Iliad, mỗi anh hùng Achille và Hektor đều đại diện, kết tinh tất cả vẻ đẹp và sức mạnh của
dân tộc mình, chiến đấu cho quyền lợi của dân tộc, không ai chính nghĩa và phi nghĩa.
Trong khi đó, Mahabharata có sự phân biệt chính nghĩa và phi nghĩa, thể hiện khá rõ sự
đối lập giữa người với người theo các nguyên tắc đạo đức.



Mahabharata không chỉ không thể hiện xung đột Đácma – Đanđa thành cuộc giao
tranh giữa hai phe Pandava –Korava trên chiến trường mà còn chủ quan hoá xung đột đó
trong sự đấu tranh và khắc phục giữa cái cao thượng và cái thấp hèn, ánh sáng và bóng tối
trong tâm hồn của mỗi nhân vật. Trong Mahabharata có câu: “Không một người đức hạnh
nào lại đủ kiên cường để suốt đời giữ vững phẩm hạnh, cũng như không một kẻ tội lỗi nào
lại quá xấu xa để sống trọn vẹn cuộc đời trong vũng bùn tội lỗi. Đời là một cuộn chỉ rối
tung và trên thế gian này, không có ai không làm cả việc thiện lẫn điều ác. Mỗi người và
mọi người đều phải gánh chịu lấy hậu quả những hành động của mình” . Với lối tư duy
biện chứng như vậy, sử thi này không phân tuyến nhân vật một cách giản đơn theo cực
thiện –ác.
Sử thi này chia sẻ sâu sắc chân lí ấy trong khi xây dựng hệ thống nhân vật của nó
mà ngay cả những anh hùng mẫu mực nhất cũng không phải luôn luôn chiến thắng trong
cuộc chiến tâm hồn giữa Đácma và Đanđa của bản thân. Ta lưu ý ở đây hiện tượng hàng
loạt anh hùng suy thoái, tha hoá qua tiến trình chiến tranh. Khiến cho cuộc chiến lúc đầu
tuân theo những luật lệ cao nhưng càng về cuối các luật lệ đó càng bị vi phạm.
Yudhisthira, người anh cả trong năm anh em Pandava, người anh hùng nổi tiếng đạo cao
đức trọng đến ngày thứ 14 của cuộc chiến tranh cũng bị dục vọng lôi cuốn để sa xuống con
đường của người trần tục. Nếu như trong các sử thi khác, nói chung ta gặp mô hình: Tình
huống. Hành động của người anh hùng trả lời tình huống đó. Kết quả của hành động
(thường là làm thay đổi tình huống, dẫn đến một tình huống mới) thì trong Mahabharata,
nhiều khi ta lại gặp mô hình trên có biến thái chút ít: Tình huống. Người anh hùng đắn đo
về lẽ nên –không nên, phải –trái, được –mất của hành động. Hành động của người anh
hùng. Kết quả của hành động. Người anh hùng tự thẩm định về hành động của mình và kết
quả của hành động, ở đây nhiều khi họ ân hận, dằn vặt, họ thấy chiến thắng vật chất lại chỉ
là một thất bại tinh thần.
Trong khi vẫn xây dựng nhân vật chủ yếu bằng hành động, hành động được xem là
hình thức tồn tại cơ bản, là tiêu chí giá trị cơ bản của các anh hùng, thì bên cạnh những
“hành động bên ngoài” (“là các hành động dứt khoát, trên các thời điểm “nút”, bước ngoặt

trong cuộc đời nhân vật, trong quá trình và kết quả của nó sẽ xảy ra sự thay đổi các quan
hệ qua lại giữa các nhân vật, thay đổi số phận riêng tư hay địa vị xã hội của chúng”) tác
phẩm còn chú ý soi rọi những “hành động bên trong” (“trong trường hợp của hành động
bên trong, các sự kiện xuất hiện trước hết với tư cách là nguyên nhân của các suy nghĩ,
cảm xúc của nhân vật. Trong tiến trình sự kiện, cái bị thay đổi không hẳn là tình trạng của
nhân vật mà là trạng thái tâm lí của chúng”).
Chú ý soi rọi những “hàng động bên trong”, xung đột bên trong giữa Đácma và
Đanđa của mỗi nhân vật, sử thi Mahabharata cho thấy các anh hùng trong quan niệm Ấn
Độ không bao giờ tách rời các tiêu chuẩn đạo đức, nó bao hàm cái cao thượng, vị tha, yêu


chuộng sự hoà bình. Sức mạnh của người anh hùng không chỉ thể hiện trong khả năng
hành động mà nhiều khi ở chính sự kiên nhẫn, sức chịu đựng, quyết định lùi bước trước
những hành động không xứng đáng.
Vì tư tưởng tinh thần Đác đa đi ngược lại với quyền lợi của nhân dân nên tinh thần
này không được nhân dân ủng hộ. Dù giai cấp thống trị làm đủ mọi cách để đảo lộn truyền
thống đó nhưng không thể nào thắng nổi sức mạnh quần chúng đó. Cuối cùng buộc họ
phải tuyên bố: “ Thiên hạ và cuộc đời tiếp tục theo tinh thần Đácma”. Trong Mahabharata
có câu : “ Không một người đức hạnh nào lại đủ kiên cường để suốt đời giữ vững phẩm
hạnh, cũng như không một kẻ tội lỗi nào lại quá xấu xa để sống trọn vẹn cuộc đời trong
vũng bùn tội lỗi. Đời là một cuộn chỉ rối tung và trên thế gian này, không có ai không làm
cả việc thiện lẫn tội ác. Mỗi người và mọi người đều phải gánh chịu lấy hậu quả những
hành động của mình ”.
KẾT LUẬN: Nhân vật anh hùng sử thi luôn hiện diện song hành cùng sức mạnh thể chất
và tài năng, phẩm chất đạo đức siêu phàm, là người anh hùng toàn thiện toàn mỹ và trở
thành “khuôn vàng thước ngọc” về vẻ đẹp vật chất và sức mạnh đạo đức của con người
thời đại. Người anh hùng trong Ramayana là sự khái quát hóa cao độ những khát vọng lý
tưởng về sức mạnh, tài năng, lòng dũng cảm, đức hạnh của toàn thể cộng đồng dân tộc sản
sinh ra nó. Vẻ đẹp ấy là chỗ dựa, niềm tự hào của cả cộng đồng dân tộc nên luôn được
nhìn nhận, đánh giá, ngợi ca với niềm tôn kính thiêng liêng. Người anh hùng trong

Ramayana trở thành biểu tượng cho tâm hồn, tính cách dân tộc Ấn Độ yêu chuộng hòa
bình, hòa hợp và bình đẳng.

TRIỆU PHÚ KHU Ổ CHUỘT
Ram Mohammed Thomas – một người bồi bàn nghèo nàn không một xu dính túi, chưa
từng tới trường học bỗng nhiên trở thành người chiến thắng vinh quang nhất trong cuộc thi
Ai là tỉ phú với mười ba câu hỏi hóc búa. Tuy nhiên, ngay khi chương trình kết thúc, giám
đốc chương trình và nhà sản xuất đã gọi cảnh sát bắt anh vì nghi ngờ anh gian lận bất chấp
không có một bằng chứng nào. Nhưng, khi đang bị đánh đập trong sở cảnh sát để buộc
phải nhận tội, Ram được một người phụ nữ tự xưng là luật sư của anh – người anh chưa
gặp bao giờ - cứu thoát. Anh đã giải thích cho cô nghe tại sao anh biết câu trả lời cho toàn
bộ câu hỏi – đó chính là cuộc đời anh từ khi là một đứa trẻ mồ côi bị bỏ lại trên bậc cửa
trại tế bần.
Cuộc đời của chàng trai trẻ dường như là một chuỗi hành trình mưu sinh, trải qua cả hạnh
phúc và đắng cay, cả no đủ và đói khát, tình yêu và bi kịch… Nhưng, chính vì thế, chân
dung của đất nước Ấn Độ với mọi góc cạnh từ xã hội, đạo đức, văn hóa, thân phận con
người đều được khắc họa sinh động, chân thực. Qua những câu chuyện Ram kể lại cho
người nữ luật sư, người đọc thấy được cuộc sống khốn cùng của những người dân Ấn Độ
thất học, chịu sự bất công của phân biệt đẳng cấp và tôn giáo. Gia đình người bạn thân


thiết của Ram – Salim – đã bị thiêu sống cùng căn nhà của họ bởi những người theo đạo
Hindu. Những đứa trẻ dưới đáy xã hội trở thành nạn nhân của những kẻ giang hồ tàn bạo
sẵn sàng biến chúng thành tàn phế để mưu lợi, bị cưỡng hiếp bởi chính những người đàn
ông. Những người phụ nữ bị tước đoạt quyền tự do, bị quấy rối bởi cha ruột… Phía trên
kia, nơi cuộc sống giàu sang và danh tiếng, danh dự và lòng ích kỷ đang dần giết chết đi
tình yêu và đạo đức của con người.
Tuy nhiên, Triệu phú khu ổ chuột không phải là một bài ca buồn và bi quan. Trái lại, cuốn
sách là tác phẩm ca ngợi tình yêu, lòng tin và nỗ lực không ngừng để thoát khỏi thế giới
bần cùng đen tối. Bên cạnh Ram – một người giành chiến thắng trong cuộc thi kiến thức

dù thất học bằng chính trải nghiệm cuộc đời mình, Salim cũng đã thành công bởi anh biết
kiên trì và nhẫn nại theo đuổi những điều anh khao khát. Cuốn sách cũng khẳng định lòng
tin của chính Vikas Swarup về giá trị đạo đức, lòng nhân ái trong mỗi con người. Dù trải
qua trăm nghìn tủi cực và bị chà đạp, Ram chưa bao giờ lung lay khỏi bệ đỡ của những
phẩm chất tốt đẹp hình thành từ những năm tháng ấu thơ ngắn ngủi được nuôi nấng trong
một nhà thờ.
TRÍCH DẪN ĐẶC SẮC
Một tiểu thuyết chói sáng, vĩ đại, rung động và hỗn loạn như chính nước Ấn
Độ( Observer)
Một câu chuyện có hậu nhưng không kém phần khắc nghiệt. Có nhiều khoảnh khắc bi
thảm và đau thương. Nó là một câu chuyện cổ tích, và giống như tất cả những câu chuyện
cổ tích khác, nó bao hàm cả bóng tối và nỗi khiếp sợ. Sự kết hợp đó sẽ khiến bạn khóc,
khiến bạn cười và khiến bạn phải kinh ngạc.
Nhà sản xuất phim Triệu phú khu ổ chuột



×