Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Tìm hiểu sự tiếp thu, việt hoá và sáng tạo thể thơ Đường luật từ đặc trưng thể loại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (617.5 KB, 75 trang )

luan van,khoa luan, thac si , su pham1document,pdf,docx,download

Khoá luận tốt nghiệp

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
PGS - TS Lã Nhâm Thìn từng nhận xét: “Thơ Nôm Đường luật là một
trong những thể loại độc đáo và đạt được nhiều thành tựu lớn bậc nhất của
văn học Việt Nam. Có nhiều tác giả, cũng có rất nhiều những đỉnh cao giá trị
văn học thuộc về thơ Nôm Đường luật” [27, 5].
Quả thật, thơ Nôm Đường luật là một thể loại “có một không hai”, nó
dường như luôn có ma lực hấp dẫn khiến không ít những người tâm huyết với
nó đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu nhằm tìm ra ngọn nguồn của sức hấp dẫn ấy.
Và chúng tôi cũng không phải là một ngoại lệ.
Thơ Nôm Đường luật là một “thể loại có nguồn gốc ngoại lai”, chịu
ảnh hưởng sâu sắc của thể loại thơ Đường luật Trung Quốc. Song, ảnh hưởng
mà không bị “hoà loãng”, “hòa tan”. Trên bước đường dân chủ hóa, dân tộc
hoá nền văn học Việt Nam, cha ông ta một mặt tiếp thu những thành tựu văn
học của thơ Đường, mặt khác không ngừng Việt hoá, sáng tạo nhằm biến nó
thành một di sản văn học mang đậm dấu ấn phong cách con người trung đại
Việt Nam. Trong quá trình học tập, chúng tôi nhận thấy có rất nhiều nhà khoa
học nghiên cứu về quá trình tiếp thu, Việt hoá và sáng tạo thể thơ Đường luật
trong thơ Nôm của dân tộc, song xuất phát từ hệ thống cơ bản của đặc trưng
thể loại thơ Đường luật thì chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập một
cách sâu sắc. Với tư cách người nghiên cứu khoa học, tác giả khoá luận lựa
chọn thực hiện đề tài Tìm hiểu sự tiếp thu, Việt hoá và sáng tạo thể thơ
Đường luật từ đặc trưng thể loại và lấy việc tìm hiểu, khảo sát qua Quốc âm
thi tập của Nguyễn Trãi và Thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hương làm căn
cứ. Một mặt, để làm quen với các thao tác nghiên cứu văn học, mặt khác đây
cũng là cơ hội để tiếp cận với một hiện tượng văn học vốn rất hấp dẫn và
phong phú của nền văn học trung đại Việt Nam.


Bùi Thị Bích Thuận – K32B Văn

-1-

tai lieu,dh su pham, luan van thac si,123doc1bao cao,tieu luan,de tai khoa hoc,khoa luan,tieu luan


luan van,khoa luan, thac si , su pham2document,pdf,docx,download

Khoá luận tốt nghiệp

Với tư cách là giáo viên dạy văn, trong chương trình SGK Ngữ Văn
Phổ thông, thơ Đường luật cũng như thơ Nôm Đường luật chiếm một vị trí
đặc biệt, có nhiều tác giả, nhiều tác phẩm được dùng giảng dạy trong nhà
trường. Do vậy, Tìm hiểu sự tiếp thu, Việt hoá và sáng tạo thể thơ Đường
luật từ đặc trưng thể loại (Khảo sát qua Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi và
Thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hương) nhằm góp phần phục vụ đắc lực trong
thực tế giảng dạy ở trường Phổ thông.
2. Lịch sử vấn đề
Thơ Nôm Đường luật là một trong những đỉnh cao của văn học trung
đại Việt Nam. Bởi vậy, nghiên cứu về thơ Nôm Đường luật là một niềm đam
mê, hứng thú của rất nhiều nhà nghiên cứu văn học. Qua khảo sát, chúng tôi
nhận thấy có không ít ý kiến đề cập đến vấn đề tiếp thu, Việt hóa và sáng tạo
thể thơ Đường luật trong thơ Nôm của dân tộc.
GS Nguyễn Huệ Chi trong Thơ văn Lý - Trần nhận xét: “Áp dụng thể
thơ Đường vào thơ Nôm thì nhà nho nào cũng thành thạo, và có lẽ ngay từ
khi bắt đầu làm thơ Nôm người ta đã biết làm thơ như vậy vì đó chỉ là công
việc nặng tính chất “bắt chước” hơn sáng tạo” [1, 148]. Có lẽ xuất phát từ
chỗ coi “thơ thất ngôn Hàn luật (Hàn Thuyên là người đầu tiên khởi xướng
nên gọi là Hàn luật) chỉ là thơ Đường luật làm bằng chữ Nôm”, không có gì

đặc biệt nên GS Nguyễn Huệ Chi cho rằng làm thơ Nôm Đường luật chẳng
qua chỉ là công việc nặng tính “bắt chước”. Và các nhà nho của ta cũng chỉ
việc chiếu theo quy tắc luật Đường có sẵn mà làm thơ chứ không hề có sự
sáng tạo nào.
Tuy nhiên, trong tiến trình lịch sử nghiên cứu, nhiều nhà khoa học cũng
nhận thấy thơ Nôm Đường luật không đơn thuần chỉ là việc áp dụng luật thi
Đường mà đã chú ý nhiều đến mối giao lưu, tiếp nhận các thể loại văn học
Trung Quốc. Đồng thời làm rõ những yếu tố sáng tạo trong thơ Nôm của dân
tộc, nhằm tìm ra một lối thơ riêng của Việt Nam. Nhưng hầu hết các ý kiến
Bùi Thị Bích Thuận – K32B Văn

-2-

tai lieu,dh su pham, luan van thac si,123doc2bao cao,tieu luan,de tai khoa hoc,khoa luan,tieu luan


luan van,khoa luan, thac si , su pham3document,pdf,docx,download

Khoá luận tốt nghiệp

đưa ra đều xuất phát nghiên cứu từ quá trình sáng tạo của cha ông ta trên
phương diện nghệ thuật mà chưa đề cập sâu sắc khía cạnh sáng tạo về mặt nội
dung. Điển hình:
Trương Chính trong bài viết Cha ông ta đã vận dụng các thể loại văn
học Trung Quốc như thế nào vào thơ Nôm nhận định: “Cha ông ta khi
chuyển sang sáng tác bằng chữ Nôm, đồng thời cũng muốn cởi xiềng xích ra,
bắt đầu từ Nguyễn Thuyên...Nếu Hàn luật là thứ thơ Nôm ta thấy thịnh hành ở
thế kỉ XV, từ Nguyễn Trãi cho đến đời Hồng Đức thì nó không phải hoàn toàn
là thơ luật Đường” [3, 3]. Và ông khẳng định: “Trung Quốc không hề có thể
nào như thế”. Tuy nhiên, tác giả chưa có những minh chứng cụ thể, nhằm làm

sáng tỏ nét sáng tạo đó.
Trong bài viết Thử tìm hiểu những điều kiện hình thành hai thể thơ
lục bát và song thất lục bát, Phan Diễm Phương trong khi đối sánh hai yếu tố
vần và nhịp giữa hai thể lục bát, song thất lục bát với thơ Đường luật Trung
Quốc đã khẳng định: “Người Việt đã sử dụng vần chân kết hợp với vần lưng”
và về vần: “Người Việt tỏ ra ưa thích để nhịp lẻ trước, chẵn sau. Trong khi đó
thơ Trung Quốc chỉ có duy nhất một vần chân, ngắt nhịp ai ai cũng nhận thấy
rằng nhịp thơ ở thơ bảy chữ và năm chữ trong thơ Đường Trung Quốc là
chẵn trước, lẻ sau” [15, 36].
Việc so sánh về vần và nhịp từ hai thể loại thơ trên của Việt Nam với
thơ Đường góp phần lí giải hiện tượng ngắt nhịp lẻ 3/4 trong thơ Nôm của
dân tộc. Là sự sáng tạo độc đáo của các nhà nho trung đại trong quá trình tiếp
thu luật thơ Đường về vần và nhịp.
Cùng ý kiến về sự sáng tạo trên phương diện nghệ thuật, Ngô Đức Thọ
trong bài Bước đầu tìm hiểu quy tắc Hàn luật qua tập thơ Ngự Đề Thiên
Hoà Doanh bách vịnh đã chú ý khảo sát thanh luật thơ trong tập thơ này.
Ông cho rằng: “Thơ Nôm thất ngôn mà từ trước đến nay chúng ta vẫn tưởng
hoàn toàn theo luật thơ Đường, thực ra không đúng hẳn như vậy. Thơ Đường
Bùi Thị Bích Thuận – K32B Văn

-3-

tai lieu,dh su pham, luan van thac si,123doc3bao cao,tieu luan,de tai khoa hoc,khoa luan,tieu luan


luan van,khoa luan, thac si , su pham4document,pdf,docx,download

Khoá luận tốt nghiệp

luật Trung Quốc, từ chữ thứ 3, thứ 5 của câu 1 và từ chữ thứ 3 của câu 4

thuộc diện được lựa chọn tự do (B hoặc T). Ở thơ Nôm thất ngôn Đường luật
của ta các từ đó phải được thực hiện một quy định cứng, lần lượt là B, T và
B” [30, 21]. Từ đó, tác giả khẳng định: “Đối với một luật thơ cô đọng mà đặc
điểm chủ yếu thể hiện ở cấu trúc thanh điệu B - T theo vị trí đặc điểm của
từng từ, từ nọ ảnh hưởng đến từ kia như luật Đường thì việc quy định đối với
ba vị trí trên đây đủ để hình thành sắc thái riêng cho các sáng tác thơ Nôm
thất ngôn của Việt Nam” [30, 21].
Như vậy, từ Trương Chính, Phan Diễm Phương, Ngô Đức Thọ...đã phần
nào đề cập và làm sáng tỏ quá trình tiếp thu và sáng tạo luật thi Đường trên các
phương diện hình thức câu thơ (hiện tượng câu thất ngôn xen lục ngôn, thanh luật,
cách ngắt nhịp,...) trong thơ Nôm Đường luật với mong mỏi tìm ra nét khu biệt
giữa thơ Đường luật Trung Quốc với thơ Nôm Đường luật của dân tộc.
Đặc biệt, trong cuốn chuyên luận Thơ Nôm Đường luật, Lã Nhâm Thìn
đã nhìn nhận, nghiên cứu về những điều kiện cho sự hình thành và phát triển
của thơ Nôm Đường luật; Khái quát quá trình phát triển của thơ Nôm Đường
luật trong lịch sử văn học Việt Nam. Đồng thời, tác giả cũng đề cập đến hệ
thống chủ đề, đề tài, ngôn ngữ…Tuy vậy, những vấn đề đó chỉ được PGS - TS
Lã Nhâm Thìn tìm hiểu một cách chung nhất mà chưa đưa ra những biểu hiện
cụ thể, chi tiết. Ông cũng chưa đề cập sâu sắc những yếu tố trong đặc trưng thể
loại thơ Đường luật có ảnh hưởng trực tiếp việc sáng tạo thơ Nôm Đường luật,
đặc biệt là của tác giả Nguyễn Trãi và nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương.
Trên cơ sở những thành tựu nghiên cứu của các bậc tiền bối và coi đây
là những khám phá mang tính chất bước đầu để định hướng cho việc
khảo sát và nghiên cứu, chúng tôi đi vào Tìm hiểu sự tiếp thu, Việt hóa và
sáng tạo thể thơ Đường luật từ đặc trưng thể loại (Khảo sát qua Quốc âm
thi tập của Nguyễn Trãi và Thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hương) với mong
muốn tìm hiểu sự tiếp thu, sáng tạo trên các phương diện hình thức và nội
Bùi Thị Bích Thuận – K32B Văn

-4-


tai lieu,dh su pham, luan van thac si,123doc4bao cao,tieu luan,de tai khoa hoc,khoa luan,tieu luan


luan van,khoa luan, thac si , su pham5document,pdf,docx,download

Khoá luận tốt nghiệp

dung của hai tác giả trên, để từ đó có cái nhìn đúng đắn nhất về việc sáng tạo
thơ Nôm Đường luật của cha ông ta trên cơ sở căn cội ảnh hưởng từ luật thơ
Đường Trung Quốc. Qua đó cũng thấy được vai trò và vị trí của Nguyễn Trãi
và Hồ Xuân Hương trong tiến trình dân tộc hoá, dân chủ hoá nền văn học
trung đại Việt Nam.
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở vận dụng các phương pháp, đề tài: Tìm hiểu sự tiếp thu,
Việt hoá và sáng tạo thể thơ Đường luật từ đặc trưng thể loại (Khảo sát qua
Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi và Thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hương)
hướng đến các mục đích sau:
- Góp phần tìm hiểu, phát hiện quá trình tiếp thu và sáng tạo thể thơ
Đường luật từ đặc trưng thể loại qua tác giả Nguyễn Trãi và Hồ Xuân Hương.
Từ đó thấy được sự tiếp nhận có chọn lọc và sự sáng tạo của hai tác giả, thấy
được nét độc đáo trong phong cách của Nguyễn Trãi và Hồ Xuân Hương. Qua
đó cũng hiểu sâu sắc thêm đặc trưng của thể loại thơ Nôm Đường luật - một
thể loại có nguồn gốc nước ngoài.
- Góp phần phục vụ cho việc nghiên cứu và công việc giảng dạy những
bài thơ Nôm Đường luật trong chương trình Phổ thông.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thực hiện đề tài: Tìm hiểu sự tiếp thu, Việt hoá và sáng tạo thể
thơ Đường luật từ đặc trưng thể loại (khảo sát qua Quốc âm thi tập của
Nguyễn Trãi và Thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hương), chúng tôi chủ yếu

tìm hiểu sự tiếp thu, Việt hoá và sáng tạo thể thơ Đường luật trên hai
phương diện nội dung và hình thức trong thơ Nôm của dân tộc, và lấy việc
khảo sát Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi và Thơ Nôm truyền tụng Hồ
Xuân Hương làm căn cứ.

Bùi Thị Bích Thuận – K32B Văn

-5-

tai lieu,dh su pham, luan van thac si,123doc5bao cao,tieu luan,de tai khoa hoc,khoa luan,tieu luan


luan van,khoa luan, thac si , su pham6document,pdf,docx,download

Khoá luận tốt nghiệp

5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là: Thơ Đường luật, Thơ Nôm Đường luật, các
sáng tác thơ Nôm của Nguyễn Trãi và thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hương.
Phạm vi nghiên cứu: Khoá luận tập trung nghiên cứu Sự tiếp thu, Việt
hoá và sáng tạo thể thơ Đường luật từ đặc trưng thể loại. Cụ thể: Tìm hiểu quá
trình tiếp thu, Việt hoá và sáng tạo về mặt nội dung và hình thức qua Quốc âm thi
tập của Nguyễn Trãi và Thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hương.
Ngoài ra, chúng tôi còn liên hệ với các tác phẩm thơ Nôm Đường luật
khác trong văn học trung đại để thấy được sự đóng góp của hai tác giả trên
đối với nền văn học dân tộc.
6. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thống kê, phân loại
Phương pháp phân tích
Phương pháp so sánh

Tuy vậy, trong quá trình nghiên cứu, các phương pháp này sẽ được vận
dụng một cách linh hoạt nhằm làm sáng tỏ và tăng thêm sức thuyết phục.
7. Đóng góp của khoá luận
Đề tài Tìm hiểu sự tiếp thu, Việt hoá và sáng tạo thể thơ Đường luật
từ đặc trưng thể loại (khảo sát qua Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi và thơ
Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hương) góp phần làm cho hướng nghiên cứu trở
nên đầy đặn và có hệ thống hơn . Đồng thời cũng góp phần đắc lực trong việc
giảng dạy những bài thơ Nôm Đường luật trong nhà trường từ góc độ đặc
trưng thể loại.
8. Bố cục của khoá luận
Ngoài các phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, khoá luận được
chia làm hai chương với những nội dung:
Chương 1: Giới thuyết về thơ Đường và thơ Nôm Đường luật.
Chương 2: Sự tiếp thu, Việt hoá và sáng tạo thể thơ Đường luật qua
sáng tác của Nguyễn Trãi và Hồ Xuân Hương.
Bùi Thị Bích Thuận – K32B Văn

-6-

tai lieu,dh su pham, luan van thac si,123doc6bao cao,tieu luan,de tai khoa hoc,khoa luan,tieu luan


luan van,khoa luan, thac si , su pham7document,pdf,docx,download

Khoá luận tốt nghiệp

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
GIỚI THUYẾT VỀ THƠ ĐƯỜNG VÀ THƠ NÔM ĐƯỜNG LUẬT


1.1. Giới thuyết về thơ Đường luật
1.1.1. Khái niệm thơ Đường luật
Thơ Đường là một khái niệm bao hàm những bài thơ được sáng tác vào
thời nhà Đường - Trung Quốc. Hầu hết những bài thơ được sáng tác vào giai
đoạn này đều tuân thủ một hình thức luật thi chặt chẽ nên gọi là thơ Đường
luật. Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa: “Thơ Đường luật, còn gọi là thơ
cận thể (để phân biệt với thơ cổ thể được sáng tác vào giai đoạn trước đó),
bao gồm thể thơ cách luật ngũ ngôn hoặc thất ngôn được đặt ra từ thời
Đường ở Trung Quốc” [22, 313].
Thơ Đường luật có ba dạng chính: Thơ bát cú (mỗi bài tám câu), thơ
tuyệt cú (mỗi bài bốn câu), thơ bài luật (dạng kéo dài của thơ Đường luật).
Các dạng của thơ Đường luật phải tuân thủ nghiêm ngặt về bố cục, luật B - T,
đối, gieo vần…
1.1.2. Quá trình hình thành và phát triển
Trong lịch sử văn học Trung Hoa, thơ Đường luật là một trong những
thành tựu nổi bật. Ra đời trong thời kì hoàng kim của chế độ phong kiến, thơ
Đường luật được ví như là “vườn hoa rộng lớn ngạt ngào hương sắc” với
hàng vạn bài thơ Đường và hàng nghìn tác giả. Theo các nhà nghiên cứu, có
khoảng năm vạn bài thơ của hai nghìn ba trăm tác giả, trong đó có nhiều thi
phẩm Đường luật tiêu biểu, là “biểu tượng huy hoàng, đỉnh cao của ngôn ngữ
văn minh nhân loại” [31, 35].

Bùi Thị Bích Thuận – K32B Văn

-7-

tai lieu,dh su pham, luan van thac si,123doc7bao cao,tieu luan,de tai khoa hoc,khoa luan,tieu luan


luan van,khoa luan, thac si , su pham8document,pdf,docx,download


Khoá luận tốt nghiệp

Có thể thấy, thơ Đường luật phát triển và đạt được nhiều thành tựu,
trước hết bắt nguồn từ những nguyên nhân sau:
Thứ nhất, nhà Đường tồn tại ba thế kỷ, từ năm 618 đến năm 907. Lý
Uyên (hiệu là Cao Tổ) sau khi lên ngôi (năm 618) đã thi hành nhiều chính
sách cải cách tiến bộ về kinh tế, chính trị. Nhờ sự phồn thịnh về kinh tế và ổn
định về chính trị đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng một nền văn
hoá phong phú, đặc sắc, đa dạng, nhiều mặt, trong đó có thơ ca.
Thứ hai, thơ Đường luật là sự tiếp nối truyền thống thơ ca lâu đời của
Trung Quốc, từ Kinh Thi, Sở từ của Khuất Nguyên đến thơ thời Ngụy - Tấn,
Nam - Bắc triều, dân ca nhạc phủ các triều đại. Chính thành tựu thơ ca có từ
giai đoạn trước là điều kiện thuận lợi để thơ Đường có thể tiếp thu, kế thừa và
sáng tạo nhằm để ra một thành tựu thơ ca rực rỡ với lượng tác phẩm đồ sộ mà
mẫu mực.
Thứ ba, thơ Đường luật phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng vì nó còn
xuất phát từ chính sách thi cử, tuyển chọn hiền tài bằng thơ, phú của nhà Đường.
Đa số những thi nhân đời Đường đều là những nhà nho có học vấn cao, vì thế
các sáng tác thơ ca của họ thường đạt đến trình độ mẫu mực khiến nhiều người
phải ngưỡng mộ như: Đỗ Phủ, Lý Bạch, Bạch Cư Dị, Nguyên Chẩn…
Trong thực tế phát triển về thi pháp của thể thơ Đường luật, các nhà thơ
đời Đường đã xây dựng nên một luật thi hết sức chặt chẽ, nghiêm ngặt: “Họ
đã đặt ra các quy tắc, các khuôn mẫu từ tứ thơ, kết cấu, bố cục...cho đến niêm,
luật, thanh điệu, đối, vần...khiến người đời sau có cảm giác như đời Đường đã
sản sinh ra một thứ như là dây chuyền công nghệ sản xuất thơ, ép theo những
khuôn mẫu đúc sẵn” [27, 40].
Những nhân tố kể trên chính là nguyên nhân dẫn đến sự hình thành và
phát triển của thơ Đường luật.


Bùi Thị Bích Thuận – K32B Văn

-8-

tai lieu,dh su pham, luan van thac si,123doc8bao cao,tieu luan,de tai khoa hoc,khoa luan,tieu luan


luan van,khoa luan, thac si , su pham9document,pdf,docx,download

Khoá luận tốt nghiệp

Về quá trình hình thành và phát triển, có nhiều ý kiến khác nhau về sự
phân chia các giai đoạn hình thành, phát triển. Song hầu hết các nhà nghiên
cứu đều thống nhất chia ba trăm năm phát triển của thơ Đường luật thành bốn
giai đoạn: Sơ Đường; Thịnh Đường; Trung Đường; Vãn Đường.
Giai đoạn Sơ Đường (618 - 713). Đây là giai đoạn đầu cho sự hình
thành thơ Đường luật và là giai đoạn chuẩn bị mọi mặt cho sự phát triển thơ ở
đời sau (chuẩn bị về thể thơ, đề tài, chủ đề...). Đồng thời cũng đã tạo nên sự
bứt phá về phong cách sáng tạo với những nhà thơ tiêu biểu cho giai đoạn này
như: Vương Tích, Vương Quýnh, Vương Bột, Trần Tử Ngang...
Giai đoạn Thịnh Đường (713 - 766). Đây là thời kỳ phát triển đầy đủ
nhất, “giàu có về số lượng, sung mãn về chất lượng” với sự xuất hiện của một
lực lượng đông đảo tác giả, đại diện cho các phong trào sáng tác thơ Đường
luật. Điển hình: Lý Bạch (tiêu biểu cho phong cách lãng mạn), Đỗ Phủ (tiêu
biểu cho phong cách thơ hiện thực), Cao Vương Duy và Mạnh Hạo Nhiên
(tiêu biểu cho phái điền viên sơn thuỷ)...Đặc biệt “luật thi” Đường đến giai
đoạn này đã hoàn hiện và đi vào ổn định, đã để lại nhiều thi phẩm có giá trị to
lớn về mặt nội dung và nghệ thuật cho đời sau thưởng thức, học tập.
Giai đoạn Trung Đường (766 - 835). Là giai đoạn xã hội phong kiến
nhà Đường rơi vào suy thoái về kinh tế, chính trị và nó là điều kiện tốt để cho

trường phái thơ hiện thực Đường luật phát triển mạnh mẽ với sự xuất hiện của
hàng nghìn nhà thơ, trong đó có nhiều nhà thơ tài năng như: Nguyên Kết,
Trương Tịch, Vương Kiến...Đặc biệt, sự xuất hiện của phong trào Tân Nhạc
phủ do Nguyên Chẩn và Bạch Cư Dị khởi xướng đã khẳng định được tài năng
cũng như thành tựu của các nhà thơ thuộc phong trào sáng tác thơ hiện thực
Đường luật giai đoạn này.
Giai đoạn Vãn Đường (836 - 907). Xã hội phong kiến Trung Quốc thời
kỳ này bước vào thời kỳ đen tối, suy thoái trầm trọng, xã hội hỗn loạn không
thể kiểm soát được. Trong hoàn cảnh ấy, thơ ca chia làm nhiều xu hướng, các
Bùi Thị Bích Thuận – K32B Văn

-9-

tai lieu,dh su pham, luan van thac si,123doc9bao cao,tieu luan,de tai khoa hoc,khoa luan,tieu luan


luan van,khoa luan, thac si , su pham10document,pdf,docx,download

Khoá luận tốt nghiệp

yếu tố tích cực và tiêu cực đan xen lẫn nhau. Tuy vậy, giai đoạn này cũng
xuất hiện một số tác giả tiêu biểu: Tào Đường, Mạnh Giao, Lý Ích...Đặc biệt
là sự xuất hiện của hai nữ sĩ Đỗ Thu Nương và Trần Ngọc Lan, họ đều viết về
đề tài tình cảm đôi lứa, tình cảm vợ chồng thuỷ chung - một đề tài khá mới
mẻ của thơ Đường luật so với những giai đoạn trước.
Tóm lại, thơ Đường có ba thế kỉ hình thành và phát triển nhưng nó đã
được âm thầm thai nghén trong lịch sử văn học Trung Quốc từ hàng nghìn
năm trước đó. Những điều kiện thuận lợi về chủ quan và khách quan trong thơ
đã tạo nên sự phát triển rực rỡ, “nở rộ nhiều hương sắc mà mẫu mực của thơ
Đường luật” [31, 35].

1.1.3. Đặc trưng thể loại thơ Đường luật
Lí luận văn học đã chỉ ra thể loại như là hình thức chỉnh thể của tác
phẩm văn học. Với nghĩa như vậy, thể loại văn học là: “Dạng thức của tác
phẩm văn học, được hình thành và tồn tại tương đối ổn định trong quá trình
phát triển lịch sử của văn học, thể hiện ở sự giống nhau về cách thức tổ chức
tác phẩm, về đặc điểm của các loại hiện tượng đời sống được miêu tả về tính
chất của mối quan hệ của nhà văn đối với các hiện tượng đời sống” [20, 299].
Trong quá trình thai nghén và sáng tạo văn học, mỗi nhà văn đều lựa
chọn một phương thức biểu hiện phù hợp với đối tượng và năng lực tư duy,
cảm thụ thẩm mĩ của mình. Việc nhà văn lựa chọn sáng tạo thể loại nào thì
điều căn bản đầu tiên và có ý nghĩa quyết định, làm nên sự thành công của tác
phẩm chính là việc nắm được những đặc trưng của từng thể loại ấy. Nếu thể
loại truyện với đặc trưng chung nhất là yếu tố cốt truyện, nhân vật được đặt
trong mối quan hệ với hoàn cảnh sống...thì thể loại thơ lại có đặc trưng ở nội
dung trữ tình, ngôn ngữ cô đọng, hàm súc, giàu hình ảnh, nhạc điệu với việc
sử dụng các yếu tố về thanh điệu, vần, cách ngắt nhịp...góp phần làm tăng sức
lan toả trong thơ. Trong giới hạn nghiên cứu của khoá luận, chúng tôi xin

Bùi Thị Bích Thuận – K32B Văn

- 10 -

tai lieu,dh su pham, luan van thac si,123doc10bao cao,tieu luan,de tai khoa hoc,khoa luan,tieu luan


luan van,khoa luan, thac si , su pham11document,pdf,docx,download

Khoá luận tốt nghiệp

được trình bày khái quát nhất đặc trưng về mặt nội dung và nghệ thuật của thể

thơ Đường luật Trung Quốc.
1.1.3.1. Đặc trưng về mặt nội dung
Nội dung thơ Đường luật vô cùng phong phú và đa dạng, khái quát nội
dung của gần năm vạn bài thơ Đường là một vấn đề không đơn giản. Song về cơ
bản, có một số nội dung chủ yếu, được đề cập nhiều trong thơ Đường. Đó là:
Bức tranh toàn diện về hiện thực đời sống của mọi tầng lớp xã hội đời
Đường, tiêu biểu cho việc phản ánh nội dung này có các nhà thơ thuộc trường
phái hiện thực mà Đỗ Phủ là đại diện xuất sắc. Không hề tô vẽ hay sơn màu
mà các tác giả thơ Đường đã mang yếu tố nguyên sơ của hiện thực cuộc sống
vào trong thơ. Từ cuộc sống vương giả của bọn tầng lớp trên trong xã hội
phong kiến đến cuộc sống của người dân lao động nghèo, rồi từ nạn quan
tham, thuế khoá, binh dịch đến chiến tranh loạn li...Có thể nói ở nội dung này,
các nhà thơ Đường đã miêu tả khá toàn diện, chân thực, nhiều mặt, nhiều vẻ
của hiện thực xã hội phong kiến nhà Đường.
Thơ Đường luật bộc lộ lòng đồng cảm sâu sắc với số phận bi thảm của
nhân dân, khát vọng về một cuộc sống yên bình, hạnh phúc là nội dung chiếm
số lượng lớn trong các sáng tác của các thi sĩ đời Đường. Số phận của người
chinh phu, cô phụ, cung nữ, tiều phu, nông dân...đều trở thành đối tượng để
các nhà thơ bộc lộ tấm lòng thương cảm. Vương Xương Linh có Tây cung
xuân oán viết về người cung nữ, Cao Thích có Yên ca hành viết về kẻ chinh
phu và người chinh phụ với tấm lòng cảm thông và sẻ chia sâu sắc…Ở nội
dung này chính là việc biểu hiện tinh thần “nhân đạo” trong thơ của các tác
giả. Tinh thần ấy được xuyên thấm qua hệ thống ngôn từ hàm súc và trở thành
một trong những nội dung trang trọng, xuyên suốt trong các sáng tác của các
thi sĩ đời Đường. Bên cạnh đó, nhiều nhà thơ Đường còn bộc lộ khát vọng về
cuộc sống ấm no, hạnh phúc, ước mơ về một đấng minh quân “ưu quốc, ái

Bùi Thị Bích Thuận – K32B Văn

- 11 -


tai lieu,dh su pham, luan van thac si,123doc11bao cao,tieu luan,de tai khoa hoc,khoa luan,tieu luan


luan van,khoa luan, thac si , su pham12document,pdf,docx,download

Khoá luận tốt nghiệp

dân”. Tiêu biểu cho khía cạnh nội dung này có thể kể đến các tác giả như: Đỗ
Phủ, Bạch Cư Dị...
Ngoài ra, Những nỗi niềm uẩn khúc riêng tư, những triết lí về lẽ sống chết, về cái vô cùng - hữu hạn, những tình cảm đa dạng là một nội dung nổi
bật, xuyên suốt toàn bộ tác phẩm của các thi sĩ đời Đường. Do quan niệm
“thơ khởi phát từ tấm lòng” và cũng do tính ước lệ về không gian, thời gian,
do ảnh hưởng của các học thuyết về vũ trụ, con người...của Nho giáo nên
trong sáng tác, các tác giả đã bộc lộ tâm trạng, quan niệm về sự sống, cái chết,
về cái vô cùng - hữu hạn của vũ trụ cũng như cuộc đời con người...một cách
sâu sắc và được nâng lên thành triết lí của các nho sĩ. Tiêu biểu cho nội dung
này có thể kể đến một số thi phẩm: Thu phố ca - Lý Bạch, Đăng U Châu đài
ca - Trần Tử Ngang, Ẩm tửu khán mẫu đơn - Lưu Vũ Tích...Nhìn chung ở nội
dung này, với những tư tưởng cao siêu cùng việc diễn đạt ngắn gọn, súc tích
nên không phải bất cứ người đọc nào cũng có thể tiếp nhận nội dung một cách
chính xác.
Đặc biệt ở nội dung viết về những tình cảm đa dạng của con người, qua
tìm hiểu chúng tôi nhận thấy hầu hết các thi sĩ đời Đường đều có những bài thơ
viết về “tình cố hương”, “tình bằng hữu” và “tình cảm đôi lứa”...Tiêu biểu: Tĩnh
dạ tư (Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh) - Lý Bạch, Xuân dạ Lạc Thành văn địch
(Đêm xuân ở Lạc Thành nghe tiếng sáo) - Lý Bạch, Hoàng Hạc lâu (lầu Hoàng
Hạc) của Thôi Hiệu, Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng
(Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng) - Lý Bạch...
Một nội dung cũng không kém phần quan trọng trong thơ Đường là

niềm say mê vẻ đẹp của thiên nhiên tạo vật, những thú vui sơn thuỷ, điền viên,
nỗi đam mê cảnh sống ẩn dật lánh đục giữ trong của các thi sĩ đời Đường.
Thiên nhiên tạo vật đã trở thành một đề tài quen thuộc, trở thành đối tượng
thẩm mĩ của các thi sĩ xưa và nay. Và đề tài này cũng không nằm ngoài nội

Bùi Thị Bích Thuận – K32B Văn

- 12 -

tai lieu,dh su pham, luan van thac si,123doc12bao cao,tieu luan,de tai khoa hoc,khoa luan,tieu luan


luan van,khoa luan, thac si , su pham13document,pdf,docx,download

Khoá luận tốt nghiệp

dung phản ánh của các thi sĩ đời Đường. Chính Phan Ngọc cũng từng nhận
xét: Thiên nhiên là cái nền của thơ Đường…
Thiên nhiên trong thơ Đường vô cùng phong phú và đa dạng. Nhà
nghiên cứu Trần Văn Thục trong Văn học Trung Quốc đã chia thiên nhiên
thơ Đường thành ba khía cạnh:
Khía cạnh thứ nhất: Những bức tranh phong cảnh thiên nhiên tráng lệ kì
vĩ hay bình dị, mộc mạc nên thơ. Tiêu biểu cho mảng thiên nhiên này có: Xa
ngắm thác núi Lư - Lý Bạch, Tuyệt cú - Đỗ Phủ, Lên lầu Quán Tước - Vương
Chi Hoán), Tuyết trên sông - Liễu Tông Nguyên, Khe chim kêu - Vương Duy...
“Khởi hứng từ thiên nhiên, tìm kiếm mối tương giao hoà hợp giữa con
người với thiên nhiên, gắn bó với nội dung sinh hoạt bình dị của con người
hoặc nâng lên thành thú điền viên, thảnh thơi nhàn tản mà thưởng thức” [31,
78] là khía cạnh thứ hai trong nội dung thơ tả cảnh thiên nhiên. Do sự quy
định về hình thức nghệ thuật của thơ Đường cũng như đặc điểm của thơ ca cô

đọng, lời ít ý sâu nên “tả cảnh ngụ tình”, mượn hình ảnh thiên nhiên để bộc lộ
tâm trạng, cảm xúc là một trong những phương diện biểu hiện mà các thi sĩ
thơ Đường rất hay sử dụng. Tiêu biểu cho khía cạnh này có các tác phẩm:
Độc toạ Kính Đình sơn (Ngồi một mình với núi Kính Đình) - Lý Bạch,
Hoàng Hạc lâu (Lầu Hoàng Hạc) - Thôi Hiệu, Thu hứng (Cảm xúc mùa thu) Đỗ Phủ...
Khía cạnh thứ ba: Các thi nhân chỉ sử dụng thiên nhiên như “chất xúc
tác” để phản ánh hiện thực đời sống xã hội phong kiến nhà Đường. Điển hình
có: Khuê oán - Vương Xương Linh, Xuân vọng - Đỗ Phủ, Xuân tứ - Lý Bạch...
Với hệ thống nội dung trên chứng tỏ cho chúng ta thấy thơ Đường có
một sức sống mãnh liệt bởi nội dung phong phú và nó có ảnh hưởng không
nhỏ đến cảm hứng sáng tác của các tác giả sau này. Song, vì là một nền thi ca
mang đậm “tính chất bác học” và là một thể thơ chịu sự quy định chặt chẽ về
“thi luật” nên hầu hết nội dung trong thơ Đường luật thường mang tính chất
Bùi Thị Bích Thuận – K32B Văn

- 13 -

tai lieu,dh su pham, luan van thac si,123doc13bao cao,tieu luan,de tai khoa hoc,khoa luan,tieu luan


luan van,khoa luan, thac si , su pham14document,pdf,docx,download

Khoá luận tốt nghiệp

cao siêu, trang trọng, người đọc khó nắm bắt được “nội dung hồn cốt” của bài
thơ. Bởi vậy: “Đọc thơ Đường cần phải tĩnh tâm, đặt mình vào trong thế giới
nghệ thuật của tác giả mới cảm nhận được những điều thi nhân muốn gửi
gắm” [6, 18].
1.1.3.2. Đặc trưng về mặt nghệ thuật
Trong lịch sử thơ ca, thơ Đường luật có lẽ là một thể loại đặc biệt vì là

một thể thơ được sáng tạo chịu sự quy định chặt chẽ của “luật thi”. Về mặt
hình thức nghệ thuật, “Luật thi là toàn bộ những quy tắc tổ chức ngôn từ
trong sáng tạo thơ như phân dòng, số tiếng, ngắt nhịp, gieo vần bằng trắc”
[22, 198]. Trong thơ Đường, “luật thi là thuật ngữ dùng để chỉ thơ bát cú đời
Đường gồm “ngũ ngôn bát cú luật thi” (ngũ luật) và “thất ngôn bát cú luật
thi” (thất luật) [7, 195]; “Luật thi là thể thơ phù hợp với việc thể hiện tâm tình
của con người vũ trụ - con người có nhu cầu thấy mình thống nhất với ngoại
giới, trong tâm hồn có sự hoà điệu như sự hoà điệu của thế giới” [7, 209].
Đây là một thể thơ có quy định chặt chẽ về: Vần, luật, niêm, đối, kết
cấu bố cục...
Cụ thể:
Nếu thơ cổ thể cho phép thay đổi vần thì thơ Đường luật (thơ cận thể)
chỉ cho phép dùng một vần (độc vận) và đại đa số là gieo vần bằng, rất ít khi
gieo vần trắc (trong khi đó thơ cổ thể lại chủ yếu gieo vần T). Đây là một đặc
điểm cơ bản để phân biệt giữa thơ cổ thể và thơ cận thể.
Vần trong thơ Đường luật được tính từ chữ cuối câu 1 và chữ cuối mọi
câu thơ chẵn (tức là các câu 1, câu 2, câu 4, câu 6, câu 8 trong bài thơ thất
ngôn bát cú; Trong bài thơ thất ngôn tứ tuyệt thường gieo vần ở các chữ cuối
câu 1, câu 2, câu 4).
Ví dụ:
Thu Hứng (Cảm xúc mùa thu)
Ngọc lộ điêu thương phong phụ lâm (B)
Bùi Thị Bích Thuận – K32B Văn

- 14 -

tai lieu,dh su pham, luan van thac si,123doc14bao cao,tieu luan,de tai khoa hoc,khoa luan,tieu luan


luan van,khoa luan, thac si , su pham15document,pdf,docx,download


Khoá luận tốt nghiệp

Vu Sơn, Vu Giáp khí tiêu sâm

(B)

Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng
Tái thượng phong vân tiếp địa âm

(B)

Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ
Cô chu nhất hệ cố viên tâm

(B)

Hàn y xứ xứ thôi đao xích
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm. (B)
(Đỗ Phủ)
Đây là bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật đảm bảo về vần Bằng ở thứ
tự cuối các câu 1 (lâm), câu 2 (sâm), câu 4 (âm), câu 6 (tâm), câu 8 (châm).
Về thanh âm chỉ có hai thanh B - T. Sự lặp lại của hai thanh này tạo ra
cảm giác đơn điệu, buồn tẻ và nhàm chán. Để khắc phục tình trạng này, người
ta đặt ra quy định về luật. Luật thơ cốt chỉ để tạo ra sự hài hoà cho một thanh
B - T trong một câu thơ. Luật thơ được tính từ chữ thứ 2 của câu thơ thứ nhất.
Nếu nó mang thanh nào thì bài thơ được quy định làm theo luật đó.
Trong thơ thất ngôn (7 tiếng), chữ thứ 2 và chữ thứ 6 trong câu thơ thứ
nhất phải luôn cùng thanh với nhau, chữ thứ 4 phải ngược thanh so với hai vị
trí trên. Người ta gọi chữ ở vị trí thứ 4 là “đòn cân thanh điệu”. Người xưa đã

tổng kết thành một công thức về “luật” trong thơ Đường:
“Nhất, tam, ngũ bất luận” (chữ thứ 1, 3, 5 không cần theo luật)
“Nhị, tứ, lục phân minh” (chữ thứ 2, 4, 6 phải rõ ràng).
Ví dụ:
Trở lại bài thơ Thu hứng, chúng ta thấy bài thơ được làm theo luật T,
căn cứ vào chữ thứ 2, dòng thứ nhất:
Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm...
T

B

T

Chữ thứ 2 “ lộ” làm theo thanh T và cùng thanh với chữ thứ 6 “thụ”,
đồng thời chữ thứ 4 “thương” ngược thanh với chữ ở vị trí thứ 2 và thứ 6. Như
vậy có thể khẳng định bài thơ Thu hứng của Đỗ Phủ đã đảm bảo về “luật”.
Bùi Thị Bích Thuận – K32B Văn

- 15 -

tai lieu,dh su pham, luan van thac si,123doc15bao cao,tieu luan,de tai khoa hoc,khoa luan,tieu luan


luan van,khoa luan, thac si , su pham16document,pdf,docx,download

Khoá luận tốt nghiệp

Về niêm, trong thơ cận thể, “niêm” được coi là yếu tố quan trọng bậc
nhất. Để khắc phục tình trạng đơn điệu, giữa hai cặp câu thơ sau với hai cặp
câu thơ trước, người ta đặt ra quy định về “niêm”.

Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Niêm - nghĩa đen là dính. Chỉ quan
hệ âm luật giữa 2 liên (cặp câu) trong một bài thơ Đường luật” [22, 239].
Trong một bài bát cú sẽ có 4 niêm: Câu 2 và câu 3 (nhị - tam); câu 4 và
câu 5 (tứ - ngũ); câu 6 và câu 7 (lục - thất ); câu 8 và câu 1 (bát - nhất). Để
cho 2 liên (câu 1+ câu 2, câu 3 + câu 4; câu 5 + câu 6, câu 7 + câu 8) dính vào
phải “niêm” giữa liên trên và liên dưới. Muốn vậy, chữ thứ 2 của câu chẵn
thuộc liên trên phải cùng thanh với chữ thứ 2 của câu lẻ thuộc liên dưới.
Không làm được như vậy thì bị coi là “thất niêm” (mất sự dính liền).
Ví dụ:
Bài Hoàng Hạc lâu (Lầu Hoàng Hạc)
Tích nhân dĩ thừa Hoàng Hạc khứ (B)
Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu

(T)

Hoàng Hạc nhất khứ bất phục phản (T)
Bạch vân thiên tải không du du

(B)

Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ (B)
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu

(T)

Nhật mộ hương quan hà xứ thị

(T)

Yên ba giang thượng thử nhân sầu.


(T)

(Thôi Hiệu)
Chữ thứ 2 “địa” của câu chẵn thuộc liên 1 cùng thanh T với chữ thứ 2
“hạc” của câu lẻ thuộc liên 2. Đồng thời, chữ thứ 2 “vân” của câu chẵn thuộc
liên 2 niêm với chữ thứ thứ 2 “xuyên” của câu lẻ thuộc liên thứ 3 qua thanh B.
Tương tự như vậy, chữ “thảo” niêm với chữ “mộ” qua thanh T; chữ “ba”
thuộc liên 4 niêm với chữ “nhân” thuộc liên 1 qua thanh B. Như vậy, bài thơ
Hoàng Hạc lâu đã đảm bảo về “niêm”.

Bùi Thị Bích Thuận – K32B Văn

- 16 -

tai lieu,dh su pham, luan van thac si,123doc16bao cao,tieu luan,de tai khoa hoc,khoa luan,tieu luan


luan van,khoa luan, thac si , su pham17document,pdf,docx,download

Khoá luận tốt nghiệp

Trong quan niệm Mĩ học của phương Đông, cái đẹp là sự hài hòa, cân
đối. Quy định về “đối” trong thơ Đường luật cũng nhằm góp phần tạo ra vẻ
đẹp hài hòa cho hình thức của bài thơ.
“Đối” chỉ là yêu cầu bắt buộc đối với dạng bát cú trong thơ Đường. Từ
điển thuật ngữ văn học cho rằng: “Đối (còn gọi là đối ngẫu) là một dạng
của kết cấu song hành, kiểu kết cấu có mặt trong văn chương của tất cả các
dân tộc trên thế giới...Quan niệm về vũ trụ và cái đẹp, ngôn ngữ đơn âm tiết,
giầu thanh điệu và đặc thù của thơ Trung Hoa (các dòng trong một bài

thường có số lượng âm tiết bằng nhau) là cơ sở khách quan đầu tiên tạo nên
sự hình thành của phép đối và luật đối riêng biệt trong văn chương cổ điển
của quốc gia này” [22, 123].
Về luật đối, liên 2 và liên 3 buộc phải có đối. Tức câu 4 đối với câu 3;
câu 6 phải đối với câu 5. Đối yêu cầu phải đảm bảo về thanh (B với T; T với
B), đối về từ loại (từ loại nào đối với từ loại đó), đối về ý nghĩa...Tuy nhiên
trong thực tế, nhiều nhà thơ đã tìm cách phá luật về đối, mục đích là để nhằm
nhấn mạnh nội dung của bài thơ.
Về tiết tấu (cách ngắt nhịp), người Trung Quốc cổ quan niệm trái đất là
do âm - dương ngũ hành kết hợp mà thành. Do vậy âm - dương phải liên kết
với nhau để tạo ra sự hài hoà, cân đối giữa trời đất và con người. Người Trung
Quốc cổ xưa cũng quan niệm: Số chẵn là số âm, số lẻ là số dương. Có lẽ vì
vậy mà theo quy luật trời đất, cách ngắt nhịp trong thơ Đường cũng bắt đầu từ
chẵn trước - lẻ sau (âm trước - dương sau). Cụ thể, trong thể thất ngôn bát cú
là 4/3 hoặc 2/2/3; thể ngũ ngôn thường là 2/3. Nhìn chung, cách ngắt nhịp
trong thơ Đường thường khá đơn điệu.
Ví dụ:
- Cố nhân tây từ / Hoàng Hạc lâu,
Yên hoa tam nguyệt / há Dương Châu...
(Lý Bạch)
Bùi Thị Bích Thuận – K32B Văn

- 17 -

tai lieu,dh su pham, luan van thac si,123doc17bao cao,tieu luan,de tai khoa hoc,khoa luan,tieu luan


luan van,khoa luan, thac si , su pham18document,pdf,docx,download

Khoá luận tốt nghiệp


- Kim dạ / Phu Châu nguyệt
Khuê trung / chỉ độc khan
Dao lân / tiểu nhi nữ
Vị giải / ức Trường An...
(Nguyệt dạ - Đỗ Phủ)
Về kết cấu, bố cục trong thơ Đường luật. Một bài thơ thất ngôn bát cú
Đường luật thường có kết cấu chặt chẽ 4 phần: Đề, thực, luận, kết.
Đề: Bao gồm phá đề (câu 1) và thừa đề (câu 2) nối câu phá đề mà vào
bài.
Thực (phô bày sự thật, giải thích đầu bài): Gồm câu 3 và câu 4
Luận (bàn bạc cho rộng nghĩa đầu bài) : Gồm câu 5 và câu 6
Kết (tóm tắt ý nghĩa cả bài mà chốt lại) : Gồm câu 7 và câu 8.
Với một bài tứ tuyệt, gồm: Khai, thừa, chuyển, hợp. Câu 1 là mở đề,
câu 2 là thừa đề, câu 3 là câu chuyển và câu 4 là câu kết thúc.
Sau đây ta có mô hình của bài thơ thất ngôn bát cú luật Bằng (với bài
thơ thất ngôn bát cú luật Trắc thì các thanh ở các tiếng 2, 4, 6 (bắt buộc) phải
là T - B - T):
1

2

3

4

5

6


7

Liên

1

b

B

t

T

t

B

b(vần)

1

2

t

T

b


B

t

T

b(vần)

Liên

3

t

T

b

B

b

T

t

2

4


b

B

t

T

t

B

b(vần)

Liên

5

b

B

t

T

b

B


t

3

6

t

T

b

B

t

T

b(vần)

Liên

7

t

T

b


B

b

T

t

4

8

b

B

t

T

t

B

b(vần)

Bùi Thị Bích Thuận – K32B Văn

- 18 -


tai lieu,dh su pham, luan van thac si,123doc18bao cao,tieu luan,de tai khoa hoc,khoa luan,tieu luan


luan van,khoa luan, thac si , su pham19document,pdf,docx,download

Khoá luận tốt nghiệp

Một trong những phương diện quan trọng của nghệ thuật thơ Đường là
ngôn ngữ thơ. Đọc thơ Đường, chúng ta thường sự thấy tinh luyện của ngôn
ngữ, hàm chứa một lượng thông tin vô cùng lớn lao, có khả năng diễn đạt nội
dung vô cùng tinh tế và phong phú.
Nguyễn Thị Bích Hải trong Bình giảng thơ Đường nhận xét: “Ngôn
ngữ thơ Đường nhìn chung là giản dị trong sáng, tinh luyện. Cũng có thể nói
đó là sự tinh luyện đến mức giản dị. Do vậy, khi phân tích thơ Đường đừng vì
thấy sự giản dị của ngôn ngữ mà xem thường rồi bỏ qua. Cái độc đáo của thơ
Đường chính là ở sự giản dị đến mức gần như là trong suốt ấy” [6, 17].
Vì vậy, sự “tinh luyện” trong ngôn ngữ đã đem đến cho Đường một nội
dung cơ bản là sự kín đáo, cô đọng, hàm súc, “ý tại ngôn ngoại” (ý ở ngoài lời).
Các nhà thơ Đường quan niệm: Làm thơ nghệ thuật tinh xảo là ở chỗ kiệm lời
(Hàn Dũ); Ngôn tận nhi ý bất tận (lời hết mà ý vô cùng)...Do vậy, thơ Đường
được đánh giá là “đỉnh cao của ngôn ngữ văn minh nhân loại” quả không sai.
Trên đây là những đặc điểm cơ bản nhất về nội dung và nghệ thuật thơ
Đường. Qua tìm hiểu, khảo sát, người viết nhận thấy với thành tựu ba trăm
năm thơ Đường đã để lại một nội dung vô cùng phong phú, song những nội
dung ấy lại được bao chứa trong một hình thức nghệ thuật nghiêm ngặt - một
“luật thi” hết sức gò bó, đơn điệu. Vì thế: “Thơ Đường luật dễ hấp dẫn giai
cấp thống trị, bởi nó bắt người ta tuân theo những phép tắc rất nghiêm ngặt,
chẳng kém gì trật tự xã hội phong kiến...Rằng hay thì thật là hay, nhưng ràng
buộc thì cũng gớm lắm” [3, 3].
Thơ Đường luật là một thể loại có sự ảnh hưởng mạnh mẽ không chỉ

đối với nền văn học Trung Quốc mà còn đối với cả nền văn học nước ngoài,
trong đó có nền văn học trung đại Việt Nam. Nó mãi mãi là những kiểu mẫu,
những khuôn vàng thước ngọc cho muôn đời sau học tập và chiêm ngưỡng.

Bùi Thị Bích Thuận – K32B Văn

- 19 -

tai lieu,dh su pham, luan van thac si,123doc19bao cao,tieu luan,de tai khoa hoc,khoa luan,tieu luan


luan van,khoa luan, thac si , su pham20document,pdf,docx,download

Khoá luận tốt nghiệp

1.2. Giới thuyết về thơ Nôm Đường luật
1.2.1. Khái niệm
Vì điều kiện thời gian và trình độ có hạn, tác giả khóa luận đã dựa vào
khái niệm về thơ Nôm Đường luật do PGS - TS Lã Nhâm Thìn nêu ra. Ông
cho rằng: “Khái niệm thơ Nôm Đường luật là bao hàm những bài thơ viết
bằng chữ Nôm theo luật Đường hoàn chỉnh và cả những bài viết theo thơ luật
Đường phá cách - những bài có xen câu ngũ ngôn, lục ngôn vào thơ thất
ngôn” [26, 9].
1.2.2. Quá trình hình thành và phát triển
Trong Thơ Nôm Đường luật, tác giả Lã Nhâm Thìn đã chia cụ thể
quá trình phát triển của thơ Nôm Đường luật trong lịch sử văn học trung đại
Việt Nam thành ba giai đoạn: Giai đoạn hình thành; Giai đoạn phát triển; Giai
đoạn cuối của thơ Nôm Đường luật.
Ở đây, tác giả khoá luận xin khái quát một cách chung nhất về quá trình
hình thành và phát triển thơ Nôm Đường luật - một thể loại văn học tiếp thu

“luật thi” Đường được viết bằng chữ Nôm.
Thơ Nôm Đường luật tồn tại, phát triển trong khoảng bảy thế kỉ (từ thế
kỉ XIII đến cuối thế kỉ XIX) xuất hiện cùng với sự xuất hiện của chữ Nôm
(chữ Nôm về cơ bản mượn ký hiệu chữ Hán nhưng đã được cải biên, sáng tạo
thêm và đọc thành âm tiếng Việt).
Từ thời Trần, bên cạch dòng văn học viết bằng chữ Hán, đã xuất hiện
dòng văn học viết bằng chữ Nôm, bắt đầu từ Nguyễn Thuyên (Hàn Thuyên)
và Nguyễn Sĩ Cố ( ? -? ). Nhiều nhà nghiên cứu hiện nay cho rằng bài thơ
Đuổi Cá Sấu của Hàn Thuyên vẫn còn được lưu truyền, song lại không có căn
cứ chứng minh cụ thể. Do vậy, người có công và đóng viên gạch đầu cho sự
phát triển, sáng tạo dòng thơ Nôm Đường luật phải kể đến Nguyễn Trãi (1380
- 1442) với tập thơ Nôm Quốc âm thi tập. Một mặt, tiếp thu hệ thống chủ đề,
đề tài, “luật thi” của thơ Đường luật Trung Quốc, mặt khác, Nguyễn Trãi đã
Bùi Thị Bích Thuận – K32B Văn

- 20 -

tai lieu,dh su pham, luan van thac si,123doc20bao cao,tieu luan,de tai khoa hoc,khoa luan,tieu luan


luan van,khoa luan, thac si , su pham21document,pdf,docx,download

Khoá luận tốt nghiệp

cố gắng tìm ra một “lối thơ” riêng cho thể loại thơ Đường luật Nôm Việt
Nam.
Tiếp đó, phải kể đến những thành tựu thơ Nôm khác: Lê Thánh Tông
và hội Tao Đàn với tập Hồng Đức Quốc âm thi tập và sau đó là tổng tập
Việt âm thi tập (1459) do Phan Phu Tiên và Chu Xá biên tập với trên 700 bài
thơ Nôm) đã đánh dấu sự trưởng thành và phát triển của dòng văn học chữ

Nôm dưới sự ảnh hưởng của thơ Đường luật.
Từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII, thơ Nôm Đường luật ở vào giai đoạn
“thịnh trị nhất”. Đi từ bước “thể nghiệm” trong thơ Nguyễn Trãi và thơ Lê Thánh
Tông, thơ Nôm Đường luật giai đoạn này đã dần trở nên ổn định, tạo thành dòng
văn học chủ lực của văn học trung đại Việt Nam, gặt hái được nhiều thành công
với một số lượng tác phẩm đồ sộ và lực lượng sáng tác đông đảo. Tiêu biểu :
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585) với tập thơ Bạch Vân quốc ngữ thi tập;
Trịnh Căn (1633 - 1709) với tập Ngự Đề Thiên Hoà Doanh bách vịnh; Thơ
Nôm Nguyễn Công Trứ, Bà huyện Thanh Quan...Đặc biệt, thế kỉ XVIII nổi bật
lên những sáng tác thơ Nôm của nữ sĩ Hồ Xuân Hương. Đến Hồ Xuân Hương,
thơ Nôm Đường luật đã “tiếp tục xu hướng dân chủ hoá đồng thời chuyển nhanh
trên con đường dân chủ hoá nội dung và hình thức thể loại” [27, 46].
Cuối thế kỉ XIX, được coi là giai đoạn “thoái trào” của thơ Nôm Đường
luật. Khi chữ Nôm mất vai trò trong cuộc sống, thay vào đó dân tộc ta đã chuyển
sang sáng tác văn học bằng “quốc ngữ Đường luật”. Song với sự xuất hiện của
hai tác giả Nguyễn Khuyến (1835 - 1909) và Trần Tế Xương (1870 - 1907) đã
khẳng định thành tựu thơ Nôm Đường luật của thế kỉ này. Thơ Nôm Đường luật
của Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xương đã “có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa
trào phúng và trữ tình trong những vần thơ “cười ra nước mắt và hơn ai hết, họ
đã để lại phong cách tác giả trong thơ Nôm Đường luật” [27, 50]
Như thế, trong bảy thế kỉ thơ Nôm Đường luật tồn tại và phát triển thì
đã có năm thế kỉ phát triển rực rỡ, đạt được nhiều thành tựu với diện mạo
Bùi Thị Bích Thuận – K32B Văn

- 21 -

tai lieu,dh su pham, luan van thac si,123doc21bao cao,tieu luan,de tai khoa hoc,khoa luan,tieu luan


luan van,khoa luan, thac si , su pham22document,pdf,docx,download


Khoá luận tốt nghiệp

“không có tuổi ấu thơ chập chững cũng như không có tuổi già” (chữ dùng của
PGS - TS Lã Nhâm Thìn). Trong quá trình sáng tác thơ Nôm Đường luật, các
nho sĩ trung đại Việt Nam không ngừng tiếp thu những tinh hoa của thơ
Đường luật Trung Quốc. Đồng thời cũng Việt hoá và sáng tạo chứ không đơn
thuần là sao chép, rập khuôn một cách máy móc. Do vậy đã tạo nên một dòng
thơ mang đậm dấu ấn riêng của con người, đất nước và bản sắc văn hoá Việt
Nam thời trung đại.
1.2.2. Đặc trưng thể loại
Trong bài viết Một thời đại trong thi ca, Hoài Thanh nhận xét:
“Thanh thế thơ Đường ở nước ta xưa nay bao giờ cũng lớn”. Đồng thời cũng
khẳng định, “thời nay”- Tức là những năm 30 của thế kỉ XX vẫn còn những
“thiếu niên Tây học xem sách Nho”. “Họ chỉ cốt tìm một nguồn sống tinh
thần. Họ đi tới thơ Đường với một tấm lòng trong sạch và mới mẻ, điều kiện
cần thiết để hiểu thơ. Cho nên, dầu dốt nát, dầu nghĩa câu nghĩa chữ lắm khi
họ rất mờ, họ đã hiểu thơ Đường hơn nhiều tay khoa bảng”...[28, 42].
Lời nhận xét trên của Hoài Thanh chứng tỏ thơ Đường có sức âm vang
và ảnh hưởng rất lớn đối với nhiều thi sĩ, nhiều nhà văn Việt Nam. Vì vậy, có
một thực tế nền văn học trung đại Việt Nam cùng với quá trình học tập văn
hoá, văn học Trung Hoa trên nhiều phương diện: Ngôn ngữ, chữ viết đến hệ
thống thể loại, phương thức tư duy nghệ thuật, xây dựng hệ thống hình
tượng...là quá trình cha ông ta không ngừng tiếp thu có chọn lọc trên cơ sở
căn cội văn hoá, tư tưởng dân tộc để xây dựng một nền văn học mang đậm
bản sắc, phong cách nghệ thuật của các nho sĩ Việt Nam trong ngần ấy thế kỉ
(khoảng mười thế kỉ văn học trung đại Việt Nam).
Xét từ khái niệm về thơ Nôm Đường luật của Lã Nhâm Thìn thì nét đặc
trưng và cơ bản nhất của thơ Nôm Đường luật là “sự kết hợp hài hoà yếu tố
Nôm và yếu tố Đường luật”.


Bùi Thị Bích Thuận – K32B Văn

- 22 -

tai lieu,dh su pham, luan van thac si,123doc22bao cao,tieu luan,de tai khoa hoc,khoa luan,tieu luan


luan van,khoa luan, thac si , su pham23document,pdf,docx,download

Khoá luận tốt nghiệp

Yếu tố Đường luật trong thơ Nôm Đường luật “là những gì tiếp thu của
nước ngoài và có tính chất tao nhã, ước lệ” [26, 10] và chịu ảnh hưởng từ tư
tưởng Nho Giáo của người Trung Quốc. Đó là hệ thống đề tài, chủ đề hướng
đến mục đích biểu đạt cho những phạm trù của tư tưởng Nho giáo như: Thơ
cốt để “tỏ chí, tỏ lòng”, qua thơ để nói về lí tưởng của đấng trượng phu với tư
tưởng “trung, hiếu, lễ, nghĩa, trí, tín”... Nói như Nguyễn Trãi:
Bui một tấc lòng trung lẫn hiếu,
Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen.
(Thơ Nôm, Thuật hứng, bài 24)
Về tư duy nghệ thuật, thơ Nôm Đường luật chịu ảnh hưởng rõ rệt nhất từ
khuôn mẫu nghệ thuật và phải được coi là “khuôn vàng, thước ngọc” lồng
trong một thứ ngôn ngữ trang nhã, trau chuốt với những từ Hán Việt, điển tích,
điển cố Hán học...trong niêm, luật chặt chẽ, đúng quy cách.
Tuy nhiên, như “một quy luật tất yếu”, văn học trung đại vẫn chủ
trương Việt hóa và sáng tạo trên nền học tập và tiếp thu những yếu tố trong
thơ Đường luật. Với quan niệm “nôm na là cha mách qué”, thơ chữ Nôm ra
đời để “miêu tả thiên nhiên của đất nước, để phản ánh hiện thực của dân tộc,
để phát biểu những tư tưởng, tình cảm trực tiếp và sâu sa nhất của con người

- mà đây chính là chức năng chủ yếu của văn học, thì tốt nhất vẫn dùng tiếng
mẹ đẻ, mà có khi lại nhất thiết dùng tiếng mẹ đẻ” [10, 17] nên trong thơ Nôm
là “yếu tố Nôm những gì thuộc về dân tộc và có tính chất dân dã, bình dị
(Nôm là đọc biến âm của Nam và Nôm còn được hiểu là nôm na, dân dã)”
[26, 10]. Như vậy, một trong những phương diện đầu tiên và quan trọng của
đặc trưng thể loại thơ Nôm Đường luật là việc cha ông ta đã sử dụng chữ
Nôm - thứ chữ của dân tộc và việt hóa thành công thể thơ Đường luật thành
thơ Nôm Đường luật của dân tộc.
Về mặt nội dung, thơ Nôm Đường luật hướng tới những vấn đề của đất
nước, dân tộc với bức tranh toàn diện, chân thực về đời sống xã hội, những
Bùi Thị Bích Thuận – K32B Văn

- 23 -

tai lieu,dh su pham, luan van thac si,123doc23bao cao,tieu luan,de tai khoa hoc,khoa luan,tieu luan


luan van,khoa luan, thac si , su pham24document,pdf,docx,download

Khoá luận tốt nghiệp

tình cảm riêng tư của con người cùng thiên nhiên tạo vật muôn màu muôn vẻ
với những hình ảnh chân thực, bình dị, dân dã và trở thành đặc trưng nội dung
quan trọng của thơ Nôm.
Về mặt hình thức nghệ thuật, một trong những đặc điểm của thơ Nôm
Đường luật là việc cha ông ta đã sáng tạo thành công thể thơ thất ngôn xen
lục ngôn - một thể thơ hoàn toàn do người Việt Nam sáng tạo. Hà Minh Đức Bùi Văn Nguyên cho rằng: “Sự phối hợp thể lục ngôn với thể thất ngôn
Đường luật dẫn tới một thể thất ngôn xen lục ngôn đặc biệt của Việt Nam” [5,
21].
Chúng tôi dựa vào kết quả khảo sát sau đây để khẳng định thể thất ngôn

xen lục ngôn là một sáng tạo của các nho sĩ Việt Nam. Nó không hề tồn tại
trong thơ Đường và là một đặc điểm nổi bật trong thơ Nôm Đường luật.
Theo các nhà nghiên cứu, trong:
Tập thơ Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi có 186 / 254 bài thất ngôn
xen lục ngôn.
Tập Hồng Đức quốc âm thi tập của Lê Thánh Tông và hội Tao Đàn có
135 / 328 bài.
Tập Bạch Vân quốc ngữ thi tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm có 97 / 161
bài thất ngôn xen lục ngôn.
Tập Ngự Đề Thiên Hoà Doanh bách vịnh của Trịnh Căn có 10 bài.
Tập Ngôn ẩn thi tập của Nguyễn Hữu Chỉnh có 5 bài.
Như vậy, với việc sáng tạo ra thể thơ thất ngôn xen lục ngôn, cha ông ta
đã “miêu tả một cách linh hoạt và cụ thể hơn văn học chữ Hán những nét
phong phú và mĩ lệ của thiên nhiên đất Việt, có thể biểu lộ sâu sắc và tế nhị
hơn những khía cạnh độc đáo trong tâm hồn người Việt” [10, 28].
Bên cạnh việc sáng tạo thể thơ thất ngôn xen lẫn lục ngôn trong thơ Nôm
Đường luật, cha ông ta cũng đặc biệt chú ý đến hình thức về cách ngắt nhịp và
yếu tố ngôn ngữ.
Bùi Thị Bích Thuận – K32B Văn

- 24 -

tai lieu,dh su pham, luan van thac si,123doc24bao cao,tieu luan,de tai khoa hoc,khoa luan,tieu luan


luan van,khoa luan, thac si , su pham25document,pdf,docx,download

Khoá luận tốt nghiệp

Nếu trong thơ Đường chủ yếu dùng hình thức ngắt nhịp chẵn trước - lẻ

sau thì trong thơ Nôm Đường luật, cha ông ta lại ưa dùng lối ngắt nhịp lẻ
trước - chẵn sau.
Ví dụ:
- Đêm / đợi trăng lên cài bóng trúc
Ngày / chờ gió thổi in hoa...
(Bạch Vân quốc ngữ thi tập, bài 17)
- Chàng cóc ơi / chàng cóc ơi
Thiếp bén duyên chàng có thế thôi...
(Thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hương).
Mục đích của cách ngắt nhịp như vậy cốt để tạo ra nhịp điệu, “tính
nhạc” riêng khác với cách ngắt nhịp của thơ Đường Trung Quốc, là sự cố
gắng khách quan của ý thức dân tộc nhằm chuyển đổi mạch thơ theo quy luật
âm vận và nhịp điệu tâm hồn Việt Nam.
Hơn nữa, với việc sử dụng ngôn ngữ dân tộc: Từ Việt, ngôn ngữ văn
học dân gian, ngôn ngữ sinh hoạt trong đời sống...Thơ Nôm Đường luật
hướng đến việc truyền đạt những nội dung bình dị của cuộc sống hàng ngày
trong một thứ ngôn ngữ gần gũi như “tiếng mẹ đẻ” với tất cả sự phong phú,
nhiều vẻ của thiên nhiên, đất nước và con người trung đại Việt Nam.
Quá trình đi từ bước thể nghiệm đến ổn định, từ tiếp thu và sáng tạo, từ
ước lệ tượng trưng đến phá vỡ ước lệ tượng trưng, từ nội dung quan phương đến
nội dung phản ánh hiện thực cuộc sống, từ nội dung trang trọng đến giản dị, gần
gũi, từ mật độ sử dụng dày đặc từ ngữ Hán đến sự kết hợp hài hòa và nhuần
nhuyễn cả yếu tố Hán và Việt dẫn đến sự thắng thế của yếu tố Việt (Nôm), thơ
Nôm Đường luật từ Hàn Thuyên, Trần Nhân Tông, Nguyễn Trãi...đến Nguyễn
Khuyến đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình. Như vậy, trên bước đường
tiếp thu, Việt hoá và sáng tạo thể thơ Đường luật, ông cha ta đã không ngừng
“thể nghiệm”, tìm tòi đổi mới và dần hoàn thiện một thể thơ mang đặc trưng
riêng, dấu ấn riêng cả về nội dung và hình thức so với thơ Đường.
Bùi Thị Bích Thuận – K32B Văn


- 25 -

tai lieu,dh su pham, luan van thac si,123doc25bao cao,tieu luan,de tai khoa hoc,khoa luan,tieu luan


×