Tải bản đầy đủ (.docx) (106 trang)

Nghiên cứu sử dụng tro bay gia cường cho vật liệu cao su

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (894.96 KB, 106 trang )

Trường Đại học sư phạm Hà Nội 2

1

Viện Khoa học Vật liệu

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cao su là loại vật liệu vừa mềm dẻo, vừa có độ bền cơ học cao và khả
năng biến dạng đàn hồi lớn nên được sử dụng ngày càng rộng rãi trong đời
sống và trong công nghiệp. Những tính năng kỹ thuật của cao su phụ thuộc
vào loại cao su (cao su thiên nhiên, cao su tổng hợp từ các loại monome khác
nhau). Trong khuôn khổ đề tài này, chúng tôi chỉ nghiên cứu, khảo sát với đối
tượng là cao su thiên nhiên (CSTN).
Việt Nam là một trong những nước sản xuất cao su thiên nhiên với sản
lượng khá cao. Tuy nhiên, cao su của ta sản xuất ra chỉ sử dụng trong nước rất
ít, phần còn lại xuất khẩu dưới dạng thô với giá cả rất thấp. Trong khi đó
chúng ta phải nhập các sản phẩm từ cao su với giá thành cao. Nghiên cứu các
biện pháp biến tính, mở rộng phạm vi ứng dụng cao su thiên nhiên nhằm phục
vụ nhu cầu trong nước là vấn đề đang được Đảng và Nhà nước quan tâm.
Tro bay là sản phẩm phụ của quá trình đốt than đá ở các nhà máy nhiệt
điện sử dụng bột than đá. Tro bay vốn là phế thải, gây nên tình trạng ô nhiễm
môi trường. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu ứng dụng tro bay để sản
xuất các vật liệu khác nhau với mục đích tận dụng phế thải và bảo vệ môi
trường. Ở nước ta, việc sử dụng tro bay còn hạn chế, mới ứng dụng được
trong một số ngành, chủ yếu là sản xuất vật liệu xây dựng. Tro bay có cấu
trúc đặc biệt, là các hạt hình cầu chứa bên trong các hạt vi cầu có thành phần
chủ yếu là oxit silic và oxit nhôm, tỷ trọng thấp. Tro bay được sử dụng rất phù
hợp làm chất độn gia cường cho các vật liệu từ cao su.
Từ những lý do trên, đề tài “Nghiên cứu sử dụng tro bay để gia cường
cho vật liệu cao su” sẽ sử dụng tro bay để gia cường cho CSTN, nhằm tận


dụng lượng tro bay phế thải, nâng cao một số tính năng cơ lý cho vật liệu cao
Khoá luận tốt nghiệp

Nguyễn Thị Xuân


Trường Đại học sư phạm Hà Nội 2

Khoá luận tốt nghiệp

2

Viện Khoa học Vật liệu

Nguyễn Thị Xuân


su đồng thời hạ giá thành sản phẩm. Đây là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng
trong khoa học, đời sống và kỹ thuật.
2. Mục đích nghiên cứu
Đánh giá vai trò và khả năng ứng dụng của tro bay trong ngành công
nghiệp cao su. Chế tạo được các vật liệu CSTN có sử dụng tro bay đạt các
tính năng cơ lý phù hợp.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu ảnh hưởng của hàm lượng tro bay chưa biến đổi bề mặt tới tính
chất cơ lý và cấu trúc của vật liệu CSTN.
- Nghiên cứu ảnh hưởng của tro bay biến đổi bề mặt tới tính chất cơ lý và cấu
trúc của vật liệu CSTN.
- Nghiên cứu ảnh hưởng của tro bay bến đổi bề mặt tới quá trình gia công
chế tạo vật liệu CSTN.




Chƣơng 1: TỔNG QUAN
1.1. CAO SU THIÊN NHIÊN VÀ NHỮNG BIỆN PHÁP NÂNG CAO
TÍNH CHẤT
1.1.1. Cao su thiên nhiên
1.1.1.1. Lịch sử phát triển của cao su thiên nhiên
Cao su thiên nhiên hay còn gọi là cao su tự nhiên được phát hiện và sử
dụng từ cuối thế kỷ XVI ở Nam Mĩ. Trong thời kỳ này người ta chỉ biết trích
cây lấy nhựa tẩm vải sợi làm giầy dép leo núi, đi rừng. Những sản phẩm đầu
tiên này có thời gian sử dụng lâu hơn sản phẩm thông thường, tuy vậy nó vẫn
còn nhiều nhược điểm là độ bền chưa thực sự ổn định và hay dính gây cảm
giác khó chịu, do đó cao su tự nhiên chưa được sử dụng rộng rãi. Đến năm
1939, khi các nhà khoa học Gider và Gencoc phát minh được quá trình lưu
hoá CSTN, chuyển cao su từ trạng thái chảy nhớt sang trạng thái đàn hồi cao,
bền vững thì cao su tự nhiên mới được sử dụng rộng rãi để sản xuất ra nhiều
sản phẩm thông dụng. Đến đầu thế kỷ XX cùng với sự phát triển của ngành
hoá học và đặc biệt là sự ra đời của thuyết cấu tạo polyme thì cao su tự nhiên
đã được nghiên cứu một cách kỹ lưỡng và ứng dụng rộng rãi trong các lĩnh
vực khoa học và cuộc sống.
1.1.1.2. cao su tự nhiên ( latec )
Mủ cao su thiên nhiên là nhũ tương trong nước của các hạt cao su với
hàm lượng phần khô ban đầu từ 28→ 40%. Các hạt cao su có kích thước rất
nhỏ từ 0,05μm→ 0,3μm, luôn ở trong trạng thái chuyển động.
Các hạt latec có hai lớp, bên trong là cacbuahydrua, bên ngoài là lớp
hấp phụ làm nhiệm vụ bảo vệ latec không bị keo tụ. Thành phần của lớp hấp
phụ là các hợp chất chứa nitơ thiên nhiên như protêin, các chất béo và muối




xà phòng của các axit béo.
Trong quá trình bảo quản, các hạt latec thường bị keo tụ. Để ngăn chặn
hiện tượng này người ta thường sử dụng các chất ổn định PH của môi trường
như amôniăc 0,5% (duy trì pH khoảng 10 →11)
Thành phần và tính chất mủ CSTN phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác
nhau, tuy nhiên có thể xác định trong khoảng nhất định :
Nước

: 52,3 - 67%

Cacbuahidro

: 29,5 - 37,3%

Polysaccrit

: 1,2 - 4,2%

Nhựa thiên nhiên : 1,0 - 3,4%
Protêin

: 0,9 - 2,7%

Chất khoáng

: 0,2 - 0,4%

1.1.1.3. Thành phần và cấu tạo hoá học của cao su tự nhiên.
a. Thành phần:

Cao su tự nhiên được sản xuất từ latec bằng nhiều phương pháp:
- Phương pháp tạo keo tụ mủ cao su.
- Phương pháp cho bay hơi nước ra khỏi mủ cao su.
Thành phần hoá học của CSTN gồm nhiều chất hoá học khác nhau:
cacbuahydro (thành phần chủ yếu), các chất trích ly bằng axetôn, các chất
chứa nitơ mà chủ yếu là protêin và các chất khoáng. Hàm lượng các chất này
dao động rất lớn, phụ thuộc vào phương pháp sản xuất, tuổi của cây, cấu tạo
thổ nhưỡng, khí hậu, mùa khai thác mủ… Trong bảng 1.1 trình bày thành
phần hoá học của CSTN, sản xuất bằng nhiều phương pháp hoá học khác
nhau.
Chất trích ly axetôn có thành phần bao gồm 51% axit béo (axit cobic,



axit stearic) phần còn lại là các axit amin và các hợp chất photpho hữu cơ.
Các hợp chất chứa nitơ gồm protêin và các axit amin (sản phẩm phân
huỷ protêin)
Bảng 1.1: Thành phần hoá học của cao su thiên nhiên
Hàm lượng (%)
STT

Thành phần

Crêp trong khói

Crep trắng

Bay hơi

1


Hidrocacbon

93 – 95

93 – 95

85 - 90

2

Chất trích ly
Bằng axeton

1,5 - 3,5

2,2 - 3,45

3,6 - 5,2

3

Hợp chất
chứa nitơ

2,2 - 3,5

2,4 -3,8

4,2 - 4,8


4

0,3 -0,85

0,2 - 0,4

5,5 - 5,72

5

Chất tan
trong nước
Chất khoáng

0,25 – 0,85

0,16 -0,85

1,5 - 1,8

6

Độ ẩm

0,2 - 0,9

0,2 - 0,9

1,0 - 2,5


Chất khoáng (thành phần thu được sau quá trình thiêu kết polime) gồm
các hợp chất của kim loại kiềm, kiêm thổ như muối natri, kali, magie, các ôxit
kim loại như Fe2O3, MnO2, CuO...
b. Cấu tạo hoá học của cao su tự nhiên
Thành phần chủ yếu của cao su thiên nhiên là polyisopren mà mạch đại
phân tử của nó được hình thành từ các mắt xích isopenten cis đồng phân liên
kết với nhau ở vị trí 1,4.
CH3

CH2

H
C = C CH

CH2

CH2
C=C

2

CH3

CH3
C=C
CH2

H


H
CH2



Ngoài các mắt xích isopren đồng phân 1,4-cis, trong CSTN còn có
khoảng 2% các mắt xích isopren tham gia vào hình thành mạch đại phân tử ở
6

vị trí 3,4. Khối lượng phân tử trung bình của CSTN là 1,3.10 .
1.1.1.4. Tính chất của cao su thiên nhiên
a. Tính chất vật lý.
Ở nhiệt độ thấp, cao su thiên nhiên có cấu trúc tinh thể, CSTN kết tinh
0

mạnh nhất ở 25 C.
Các thông số đặc trương của CSTN:
3

+ Khối lương riêng

: 913

(kg/cm )

+ Hệ số dãn nở thể tích

: 656.10

+ Nhiệt dẫn riêng


: 0,14

(W/m.k)

+ Nhiệt rung riêng

: 1.88

(kJ/ kg.k)

+ Nửa chu kỳ kết tinh

: 2- 4

(h)

-4

3

0

[dm / C]

+ Điện trở riêng (Ωm)
- Crep trắng : 5.10
- Crep hong khói

12


(Ωm)

: 3.10

12

(Ωm)

CSTN tan tốt trong dung môi hữu cơ mạch thẳng, mạch vòng, CCl4,
CS2, không tan trong rượu và axetôn.
b. Tính chất cơ lý.
CSTN có khả năng lưu hoá bằng lưu huỳnh phối hợp với các loại xúc
tiến. Tính chất cơ lý của CSTN được xác định theo tính chất của hợp phần cao
su theo tiêu chuẩn sau:



Bảng 1.2: Thành phần tiêu chuẩn để xác định
các tính chất cơ lý của CSTN
STT

Thành phần

Hàm lượng (pkl)

1

Cao su tự nhiên


100

2

Lưu huỳnh

3

Mercaptobenzolthiazol

4

Kẽm oxit

5

Axit stearic

3
0,7
5
0,5
0

Hỗn hợp được lưu hoá ở nhiệt độ 145- 150 C với thời gian tối ưu 20 30 phút có tính chất cơ lý sau:
+ Độ bền kéo đứt

: 23 MPa

+ Độ dãn dài tương đối


: 700%

+ Độ dãn dư

: ≤ 12%

+ Độ cứng tương đối

: 65 shore A

1.1.2. Một số biện pháp nâmg cao tính chất của cao su thiên nhiên
1.1.2.1. Biến tính cao su thiên nhiên bằng nhựa hoặc cao su tổng hợp khác
Trong khoa học vật liệu, việc nghiên cứu ứng dụng của vật liệu tổ hợp
polyme đóng vai trò quan trọng. Các loại vật liệu polyme được chế tạo theo 3
hướng:
- Hướng thứ nhất: trùng hợp các loại monome.
- Hướng thứ hai: tổng hợp các copolyme khối; copolyme ghép và copolyme
thống kê từ các monome thông dụng hiện nay.
- Hướng thứ ba: trộn hợp các polyme sẵn có ở trạng thái nóng chảy, dung
dịch, để tạo ra những loại vật liệu tổ hợp có những tính chất đặc biệt,



khác hẳn tính chất của các polyme riêng rẽ ban đầu, đáp ứng được yêu cầu
của cuộc sống và kỹ thuật.
Trong ba hướng trên, hướng thứ ba được đặc biệt quan tâm nghiên cứu
và phát triển vì đó là phương pháp đơn giản nhất, nhanh nhất và kinh tế nhất
tạo ra những vật liệu mới, đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của đời sống
và kỹ thuật. Theo các chuyên gia trong lĩnh vực Hoá học Cao phân tử, đây là

hướng chủ đạo của Hoá học các hợp chất Cao phân tử trong những năm cuối
thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21 vì nó có những ưu điểm sau:
• Lấp được khoảng trống về tính chất công nghệ cũng như kinh tế giữa các loại
nhựa nhiệt dẻo. Người ta có thể tối ưu hoá về mặt giá thành và tính chất của
vật liệu sử dụng.
• Tạo khả năng phối hợp các tính chất mà một loại vật liệu khó hoặc không
thể đạt được, đáp ứng được yêu cầu kỹ thuật cao trong các lĩnh vực khoa
học và kinh tế.
• Quá trình nghiên cứu, chế tạo một sản phẩm mới trên cơ sở vật liệu tổ hợp
polyme nhanh hơn nhiều so với các sản phẩm từ vật liệu mới khác vì nó
được chế tạo trên cơ sở vật liệu và công nghệ có sẵn.
• Những kiến thức rộng rãi về cấu trúc, sự tương hợp phát triển nhanh trong
những năm gần đây tạo cơ sở cho việc phát triển loại vật liệu này.
1.1.2.2. Biến tính CSTN bằng phương pháp hoá học
CSTN hầu như không phân cực và có các tính chất như trên nên độ bám
dính của nó không tốt. Cấu trúc mạch CSTN không chặt chẽ nên tính chịu
nhiệt kém. Vì vậy nhiều nhà nghiên cứu đã cố gắng biến tính cao su nhằm
khắc phục những mặt hạn chế và mở rộng khả năng ứng dụng của vật liệu
này.
a. Hóa vòng cao su



Hoá vòng CSTN có thể thực hiện trong dung dịch toluene có mặt của
xúc tác SnCl4.
Quá trình hoá vòng diễn ra đồng thời với phản ứng cắt mạch CSTN làm
cho khối lượng sản phẩm giảm dần theo thời gian. Quá trình phân huỷ xảy ra
chủ yếu ở giữa mạch, nó tiếp tục diễn ra sau khi phản ứng hoá vòng kết thúc.
Nồng độ cao su, nồng độ xúc tác, nhiệt độ, dung môi có ảnh hưởng đến tốc độ
của phản ứng hoá vòng [1]. Khi độ hoá vòng càng sâu độ cứng càng lớn dẫn

đến sản phẩm bị giòn.
Cao su đã hoá vòng bền với tác dụng của axit, bazơ ở nhiệt độ thường
nhưng khi có mặt của oxi chúng bị oxi hoá nhanh do có nguyên tử cacbon bậc
3. Các sản phẩm hoá còng cao su được sử dụng rộng rãi để làm sơn bảo vệ,
làm keo dán, mực in, làm bao gói, vật liệu cảm quang.
b. Gắn các nhóm phân cực vào mạch cao su
Bên cạnh việc hoá vòng cao su, người ta có thể biến tính bằng cách gắn
các nhóm phân cực vào mạch cao su như phenol hoá, epoxy hoá,…để sử dụng
trong các ngành sản xuất keo dán, sơn phủ, vật liệu cách điện, vật liệu
compozit… Trong số các phương pháp biến đổi CSTN, người ta tập trung vào
nghiên cứu epoxy hoá CSTN, bởi sản phẩm tạo ra có tính ưu việt và khả năng
ứng dụng rộng rãi.
Sự có mặt của nhóm epoxy trong mạch chủ đã cho phép thực hiện
nhiều phản ứng chuyển hoá cao su. Cao su epoxy hoá (ENR) có thể thu được
trực tiếp từ latec bằng phản ứng epoxy hoá theo 2 cách [2]
• Dùng peroxyt có sẵn.
• Phương pháp Insitu (peroxyt mới sinh)



1.1.2.3. Biến tính cao su bằng các biện pháp hoá lý
a. Chất độn vô cơ hoạt tính
Các chất độn vô cơ được sử dụng nhiều trong công nghiệp, gia công
cao su như: bột nhẹ, bazit, thạch cao, silicdioxit… Trong các chất độn này thì
silicdioxit là chất độn có hiệu quả tăng cường cao nhất. Cũng như các chất
độn tăng cường khác, mức độ phân tán là đặc trưng quan trọng mà bằng đặc
trưng này có thể đánh giá mức độ tăng cường của silicdioxit. Silicdioxit còn
được sử dụng làm chất độn tăng cường cho các hợp phần cao su-nhựa tổng
hợp khác.
Đối với các loại cao su không kết tinh hoặc cao su có cấu trúc vô định

hình, silicdioxit có tác dụng tăng cường tính chất cơ lý. Silicdioxit có chứa
nhiều nhóm phân cực trên bề mặt vì thế có khả năng hấp thụ hầu hết các chất
phối hợp khác trên bề mặt làm giảm tác dụng của chúng, đặc biệt là các chất
lưu hoá và các chất xúc tiến lưu hoá cho cao su.
b. Các chất độn hữu cơ hoạt tính
Chất độn hữu cơ hoạt tính hay chất độn hữu cơ gia cường là các hợp
chất hữu cơ với các kích thước hạt nhỏ, có tác dụng gia tăng tính chất cơ lý
của vật liệu khi đưa nó vào hợp phần cao su.
c. Than đen
Than đen kỹ thuật là sản phẩm cháy không hoàn toàn của các hợp chất
cacbuahydro. Than đen là chất độn tăng cường chủ yếu được sử dụng trong
công nghệ gia công cao su. Sự có mặt của than đen trong hợp phần cao su với
hàm lượng cần thiết đã làm tăng tính chất cơ lý cao su như: giới hạn bền kéo
đứt, xé rách, khả năng chống mài mòn, độ cứng và môđun đàn hồi của vật
liệu. Sự có mặt của nhóm phân cực trên bề mặt than đen là yếu tố quyết định



khả năng tác dụng lý học và hoá học của than đen với các nhóm phân cực, các
liên kết đôi có trong mạch đại phân tử. Dựa vào các thành phần nguyên tố hoá
học của than đen có thể chọn loại than đen thích hợp cho từng loại cao su để
đạt được lực tác dụng giữa than đen và mạch cao su lớn nhất.
1.1.3. Những xu hƣớng, kết quả nghiên cứu và ứng dụng CSTN ở nƣớc ta
Cao su thiên nhiên là vật liệu có độ bền kéo tốt, khả năng đàn hồi cao,
dễ gia công và biến tính hoá học, tuy nhiên cao su thiên nhiên lại có một số
nhược điểm dễ lão hoá do trong phân tử còn liên kết đôi, khả năng chịu thời
tiết kém, do cao su không phân cực vì vậy khả năng chịu dầu mỡ kém. Ngoài
ra trong một số trường hợp vật liệu từ CSTN không đáp ứng được yêu cầu kỹ
thuật đòi hỏi. Vì vậy việc nghiên cứu các biện pháp biến tính để mở rộng
phạm vi ứng dụng cho CSTN vẫn là vấn đề thời sự, nhằm nâng cao hiệu quả

kinh kế cho ngành trồng trọt và chế biến cao su ngày càng phát triển ở nước
ta nói riêng và thế giới nói chung. Sau đây là một số hướng nghiên cứu và kết
quả đạt được.
Tác giả Đào Thế Minh và các cộng sự đã sử dụng phương pháp tạo gốc
cơ học trên máy trộn kín để ghép axit acrylic vào cao su thiên nhiên nhằm
mục đích nâng cao sự kết dính của cao su lên kim loại để tạo keo dán, sơn và
chất kết dính cho vật liệu compozit [3]. Từ hướng như vậy, Nguyễn Việt Bắc,
Chu Chiến Hữu, Vũ Hồng Quân nghiên cứu chế tạo vật liệu compozit cao su kim loại trên cơ sở cao su epoxy hoá. Cao su epoxy hoá được đưa vào thành
phần chất kết dính, làm tăng khả năng kết dính giữa CSTN và bản cốt thép tạo
cho vật liệu có một số tính chất cơ lý tốt, đặc biệt là độ bền uốn, độ bền va
đập. Nhờ các ưu điểm đó vật liệu được dùng chế tạo các sản phẩm ứng dụng
trong ngành giao thông vận tải, hàng hải [4]. Trần Quang Hân, Phan Văn
Ninh và Trần Quang Thanh nghiên cứu chế tạo vật liệu compozit trên cơ sở



CSTN lỏng và graphit. Mặc dù vật liệu nhận được có độ bền va đập không
cao, song chúng lại có khả năng chịu nhiệt, chịu hoá chất và độ bền uốn cao.
Từ những ưu điểm đó, vật liệu compozit được ứng dụng sản xuất các mặt
hàng chịu hoá chất [5].
Lê Xuân Hiền, Nguyễn Thị Việt Triều, Phạm Thị Hồng đã nghiên cứu
ảnh hưởng của tỷ lệ hydropeoxyt, axit focmic và liên kết đôi isopren tới phản
ứng epoxy hoá CSTN bằng perfomic axit cũng như cấu trúc trên mạch của
sản phẩm epoxy hoá. Sản phẩm thu được là nguyên liệu cho chế tạo vật liệu
polyme blend [6]. Nguyễn Thị Việt Triều, Lê Xuân Hiền, Christian Decker sử
dụng phương pháp khâu mạch quang chế tạo thành công chất tạo màng trên
cơ sở CSTN và dầu đậu acrylic hoá. Sản phẩm thu được có thể ứng dụng
trong nhiều lĩnh vực: keo dán, vật liệu compozit, nhất là trong lĩnh vực làm
lớp phủ bảo vệ đóng rắn nhanh bằng tia tử ngoại [7]. Lê Xuân Hiền, Hoàng
Ngọc Tảo, Trần Thanh Vân nghiên cứu ảnh hưởng của tỷ lệ (mol) peraxetic

axit, liên kết đôi đến quá trình epoxy hoá cao su lỏng trong clorofom. Sản
phẩm được sử dụng làm chất biến tính nhựa [8]. Nguyễn Quốc Hiến, Đoàn
Bình, Võ Tấn Thiện, Lê Hải đã nghiên cứu ảnh hưởng của H2O2 lên quá trình
lưu hoá latex cao su thiên nhiên bằng bức xạ gamma Co-60 mục đích giảm
lượng chất lưu hoá và gia tăng hơn nữa tính chất cơ lý của sản phẩm cao su từ
latex có sử dụng chất nhậy bức xạ khác nhau từ hợp chất chứa halogen và
monome họ acrylic [9]. Nguyễn Văn Khôi, Đỗ Quang Kháng đã biến tính
CSTN bằng maleic có mặt chất khởi đầu là gốc tự do nhằm tạo ra oligome
trung gian với các nhóm chức hoạt động có khả năng biến tính với các tác
nhân hoá học khác nhau hay sử dụng chất hoạt động bề mặt [10]. Đinh Gia
Thành, Nguyễn Văn Khôi đã nghiên cứu thành công ảnh hưởng của quang
hoá lên quá trình cắt mạch cao su latex nhằm tạo ra cao su có trọng lượng
phân tử thấp, giá thành hạ hơn so với phương pháp dung dịch hoặc rắn phù



hợp làm nguyên liệu cho quá trình epoxy hoá và biến tính khác [11].
Tác giả Đỗ Quang Kháng, Nguyễn Văn Khôi, Nguyễn Quang cùng các
đồng nghiệp đã nghiên cứu ảnh hưởng của các chất biến đổi cấu trúc tới tính
chất của vật liệu polyme blend từ CSTN và polyetylen. Kết quả nghiên cứu đã
mở ra khả năng nâng cao tính năng và mở rộng phạm vi ứng dụng cho vật liệu
CSTN. Mặt khác, kết quả này đã khẳng định vai trò của các chất biến đổi cấu
trúc trong việc chế tạo vật liệu polyme blend nói chung [12]. Lê Anh Tuấn
nghiên cứu tìm ra một phương pháp tiếp cận mới để nghiên cứu động học lưu
hoá vật liệu polyme blend cao su, nhìn nhận chúng là tổng hợp của những
phản ứng độc lập bậc nhất [13]. S.H. El. Sabbagh đã nghiên cứu sự ảnh hưởng
chất tương hợp copolyme ghép EPDM-g-MAH tới cấu trúc của vật liệu
polyme blend trên cơ sở CSTN và cao su EPDM. Kết quả nghiên cứu mở ra
khả năng sử dụng một loại chất tương hợp nhằm biến tính CSTN [14].
K.T.Varughese thông qua việc nghiên cứu nhiệt độ hoá thuỷ tinh (Tg) để

khảo sát khả năng tương hợp giữa PVC và cao su epoxy hoá. Kết quả nghiên
cứu mở ra một phương pháp mới nghiên cứu cấu trúc vật liệu polyme blend
cao su [15].
Nguyễn Quang cùng đồng nghiệp đã chế tạo vật liệu polyme blend trên
cơ sở hỗn hợp CSTN epoxy hoá (ENR-50) với CSTN, với cao su tổng hợp để
hạ giá thành sản phẩm và có thể biến đổi tính chất của vật liệu phù hợp với
từng ứng dụng cụ thể [16]. Nguyễn Văn Khôi, Đỗ Trường Thiện, Đỗ Quang
Kháng nghiên cứu tổ hợp vật liệu CSTN được biến tính cardanol
formandehyt-vải rayon và dầu tùng tiêu như là chất dẻo hoá lên tính chất của
tổ hợp vật liệu cao su vải. Sản phẩm thu được là vật liệu thích hợp cho việc
chế tạo băng vải in cho máy in vải [17]. Đặng Văn Luyến, Tống Công Minh,
Phạm Hữu Lý đã chế tạo thành công vật liệu polyme blend trên cơ sở CSTN
và polyolephin có mặt chất dầu đào lộn hột. Kết quả nghiên cứu ứng dụng vào


×