Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Tiểu luận triết học và vai trò của triết học đối với sự phát triển của khoa học kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (257.41 KB, 19 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA SAU ĐẠI HỌC
--------

BÀI TIỂU LUẬN :
ĐỀ TÀI : Triết học và vai trò của triết học
đối với sự phát triển của khoa học kinh tế.
Người thực hiện: Hà Thị Nghị
Lớp CH-26P
Giáo viên: TS Lê Ngọc Thông

Hà Nội, 2017

1


MỤC LỤC
I.
II.

LỜI NÓI ĐẦU
Khái niệm và nguồn gốc của triết học
Vai trò của triết học đối với sự phát triển của khoa học
1. Sự tác động của khoa học đối với sự phát triển của triết học

III

IV

2.Vai trò thế giới quan và phương pháp luận của triết học đối với sự
phát triển khoa học


Vai trò của triết học đối với sự phát triển của khoa học kinh tế.

3
4
4
4

7
9

1. Khoa học kinh tế

9

2. Thế giới quan
3.Khái niệm phương pháp luận
4. Thế giới quan triết học khoa học - cơ sở phương pháp luận để nhận
thức và vận dụng sáng tạo, đúng đắn các quy luật kinh tế
5. Thế giới quan triết học khoa học với tư cách cơ sở phương pháp luận
cho việc hình thành văn hóa kinh doanh đúng đắn để trên cơ sở đó, góp
phần thúc đẩy kinh tế phát triển

10
12
13

6. Những giới hạn của chủ nghĩa tư bản và xu thế thời đại hiện nay
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo


2

14
15
17
19


LỜI NÓI ĐẦU
Trước hết, em xin được gửi lời cảm ơn tới thầy Lê Ngọc Thông đã đưa ra chủ đề rất
hay và hướng dẫn chúng em cách làm tiểu luận này.
Triết học nghiên cứu về những vấn đề chung và cơ bản của con người, thế giới
quan và vị trí của con người trong thế giới quan, những vấn đề có kết nối với chân lý, sự
tồn tại, kiến thức, giá trị, quy luật, ý thức, và ngôn ngữ. Triết học được phân biệt với
những môn khoa học khác bằng cách thức mà nó giải quyết những vấn đề trên, đó là ở
tính phê phán, phương pháp tiếp cận có hệ thống chung nhất và sự phụ thuộc của nó vào
tính duy lý trong việc lập luận.
Mặc dù em đã cố gắng nhưng chắc chắn khơng thể khơng cịn những khiếm khuyết.
Nên em rất mong nhận được ý kiến phê bình, nhận xét của thầy để em hồn thiện trong
phương pháp luận và có thể báo cáo tốt hơn trong các chuyên đề sau.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 15 tháng 12 năm 2017
Học Viên
Hà Thị Nghị

3


Đề tài: Triết học và vai trò của triết học đối với sự phát triển của khoa học kinh tế.
Khái niệm và nguồn gốc của triết học

Triết học là bộ môn nghiên cứu về những vấn đề chung và cơ bản của con
người, thế giới quan và vị trí của con người trong thế giới quan, những vấn đề có kết nối
với chân lý,sự tồn tại, kiến thức, giá trị, quy luật, ý thức, và ngôn ngữ. Triết học được
phân biệt với những môn khoa học khác bằng cách thức mà nó giải quyết những vấn đề
trên, đó là ở tính phê phán, phương pháp tiếp cận có hệ thống chung nhất và sự phụ
thuộc của nó vào tính duy lý trong việc lập luận.
Trong tiếng Anh, từ "philosophy" (triết học) xuất phát từ tiếng Hy Lạp cổ đại
(philosophia), có nghĩa là "tình u đối với sự thơng thái". Sự ra đời của các thuật ngữ
"triết học" và "triết gia" được gắn với nhà tư tưởng Hy Lạp Pythagoras. Một "nhà triết
học" được hiểu theo nghĩa tương phản với một "kẻ ngụy biện". Những "kẻ ngụy biện"
hay "những người nghĩ mình thơng thái" có một vị trí quan trọng trong Hy Lạp cổ điển,
được coi như những nhà giáo, thường đi khắp nơi thuyết giảng về triết lý, nghệ thuật
hùng biện và các bộ mơn khác cho những người có tiền, trong khi các "triết gia" là
"những người yêu thích sự thơng thái" và do đó khơng sử dụng sự thơng thái của mình
với mục đích chính là kiếm tiền.
Tóm lại triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế
giới, về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy.
Nguồn gốc: Triết học ra đời từ thực tiễn, do nhu cầu của thực tiễn; nó có nguồn
gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội
o Nguồn gốc nhận thức: Triết học ra đời khi con người đã đạt đến trình độ
trừu tượng hóa, khái quát hóa, hệ thống hóa để xây dựng nên các học thuyết
lí luận
o Nguồn gốc xã hội: triết học ra đời khi xã hội xuất hiện chế độ chiếm hữu nơ
lệ, xã hội có sự phân chia lao động thành lao động trí óc và lao động chân
tay, chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, giai cấp và nhà nước lần lượt
ra đời, làm cho triết học tự nó mang trong mình tính giai cấp sâu sắc, nó
cơng khai tính đảng là phục vụ cho lợi ích của những giai cấp, những lực
lượng xã hội nhất định.
II.
Vai trò của triết học đối với sự phát triển của khoa học

I.

1. Sự tác động của khoa học đối với sự phát triển của triết học

4


Trước khi triết học và khoa học xuất hiện, thế giới xung quanh được phản ánh trong ý
thức nguyên thủy của lồi người dưới hình thức thần thoại. Trong thần thoại bên cạnh
niềm tin vào các lực lượng thần thánh, siêu tự nhiên, thì các vấn đề về nguồn gốc, bản
chất của thế giới có một vị trí đáng kể. Triết học và thần thoại ra đời như một nỗ lực
nhằm giải thích thế giới. Thực chất triết học cũng tìm cách trả lời cho các vấn đề mà
trước đó đã được đặt ra trong thần thoại, nhưng bằng một phương thức khác. Triết học là
sự phân tích lý luận các vấn đề ấy dựa trên lơgíc, các tri thức khoa học và kinh nghiệm
thực tiễn. Về mặt lịch sử, sự ra đời của triết học trùng hợp với sự xuất hiện những mầm
mống đầu tiên của tri thức khoa học, với sự hình thành nhu cầu nghiên cứu lý luận.
Chúng ta có thể thấy rõ điều này ở Hy Lạp cổ đại. Triết học Hy Lạp cổ đại khi mới hình
thành khơng độc lập với các tri thức khoa học, mà thực chất là đồng nhất với chúng để
hình thành nên môn khoa học tổng hợp. Các nhà triết học đầu tiên ở Hy Lạp đồng thời
cũng là các nhà khoa học, như Thalets, Pithagore,... Triết học đặt nhiệm vụ tìm hiểu và
giải thích tự nhiên, xem xét thế giới như một chỉnh thể. Trong nền triết học tự nhiên, các
khoa học nói chung bị đẩy xuống vị trí thứ yếu và bị chi phối bởi triết học. Triết học tự
nhiên thịnh hành ở phương Tây vào lúc khoa học thực nghiệm chưa phát triển, khơng đủ
để tìm ra quy luật của các hiện tượng tự nhiên. Chính vì vậy mà trên thực tế, triết học tự
nhiên là dòng triết học mang tính tư biện (speculation): Những giải thích của nó về thế
giới chủ yếu là dựa trên những phỏng đoán và giả định. Nhưng bắt đầu từ thời Phục hưng
và đặc biệt là trong các thế kỷ XVII - XVIII, sự phát triển của khoa học, nhất là các khoa
học tự nhiên ngày càng diễn ra nhanh chóng. Mối quan hệ triết học - khoa học có sự đổi
chiều. Khoa học tự nhiên từ chỗ phụ thuộc, bị dẫn dắt bởi triết học, thì giờ đây, nó độc
lập trong lĩnh vực nghiên cứu của mình, hơn nữa cịn tác động quyết định đến khuynh

hướng phát triển của triết học và phương pháp tư duy. Chính sự thay đổi này đã tạo ra
tiền đề cho sự ra đời của chủ nghĩa thực chứng. Chủ nghĩa thực chứng (posistivism)
tuyên bố rằng, chỉ có các khoa học cụ thể mới cần thiết, đem lại các tri thức tích cực
(positive), cịn triết học thì khơng. Chính xác hơn, chủ nghĩa thực chứng thừa nhận trong
quá khứ, khi mà các khoa học còn chưa phát triển đầy đủ, thì triết học từng đóng vai trị
tích cực là khoa học bao trùm, tổng hợp mọi tri thức, thậm chí là “khoa học của các khoa
học”. Nhưng khi các khoa học lần lượt xuất hiện và trưởng thành, đem lại một khối lượng
tri thức khổng lồ thì triết học dần đánh mất vai trị lịch sử của mình. Số phận của triết học
thật trớ trêu, chẳng khác gì King Lear - nhân vật văn học của Shakespeare, người chia
toàn bộ vương quốc và tài sản to lớn của mình cho các con đã trưởng thành để rồi trở
thành trắng tay và bị đuổi ra đường.
Không nghi ngờ gì nữa, kể từ thời kỳ Phục hưng trở đi, ảnh hưởng của khoa học đến
triết học càng ngày càng rõ rệt. Theo dõi sự phát triển của khoa học trong thời kỳ này,
chúng ta thấy rằng quá trình phân ngành diễn ra nhanh chóng: Cơ học, vật lý học, hóa
học, sinh vật học, địa lý, thiên văn học,... lần lượt trở thành các khoa học độc lập. Mỗi
một khoa học tự xác định cho mình đối tượng nghiên cứu riêng. Giới tự nhiên được chia
thành nhiều lĩnh vực khác nhau và trở thành đối tượng của những nghiên cứu độc lập.
Việc này là cần thiết, đặc biệt trong giai đoạn phát triển đầu tiên của khoa học, khi mà
nhiệm vụ chủ yếu là phải sưu tập, tích lũy các tài liệu. Nhưng phương pháp được coi là
5


cần thiết và chính đáng ấy của khoa học tự nhiên cũng đã ảnh hưởng đến và in dấu lên tư
duy triết học đương thời - phương pháp tư duy siêu hình. Mặt khác, trong các khoa học tự
nhiên thời bấy giờ, chỉ có cơ học là mơn khoa học được coi là đạt đến mức độ hoàn thiện
nhất định và vì thế, tư duy cơ học máy móc cũng đã ảnh hưởng khơng nhỏ đến triết học.
Chúng ta có thể nói rằng, trong thời kỳ Phục hưng và cận đại, khoa học tự nhiên đã có
ảnh hưởng quyết định đến sự phát triển của triết học. Mỗi bước tiến mới của khoa học
đều bằng cách này hay cách khác tác động lên xu hướng phát triển và tư duy của triết
học.

Như đã biết, một trong các tiền đề của chủ nghĩa duy vật biện chứng là trạng thái và
các thành tựu của khoa học tự nhiên thế kỷ XIX. Khác với các thế kỷ trước đó, khoa học
tự nhiên trong thế kỷ XIX đã khơng cịn là khoa học sưu tập nữa. Những gì nó tích lũy
được trong thời kỳ trước đã cho phép nó có thể sắp xếp, tổng hợp lại. Và nhiệm vụ này
đến lượt nó, khiến người ta phải chú ý nhiều hơn tới những mối liên hệ vốn có của bản
thân giới tự nhiên: Sự thống nhất của thế giới tự nhiên, sự vận động và phát triển nội tại
của nó. Các phát minh vĩ đại của khoa học tự nhiên thế kỷ XIX trong các lĩnh vực vật lý
và sinh vật, như định luật bảo tồn và chuyển hóa năng lượng, thuyết cấu tạo tế bào và
thuyết tiến hóa của các lồi, đã chứng minh trên những nét cơ bản và đem lại một cái
nhìn duy vật biện chứng về thế giới tự nhiên. “Nhờ ba phát hiện vĩ đại đó và nhờ các
thành tựu khác của khoa học tự nhiên...”, mà giờ đây đã có thể có được “một bức tranh
bao quát về mối liên hệ trong tự nhiên dưới một hình thức gần như có hệ thống” Trước
kia việc cung cấp một bức tranh bao quát như vậy là nhiệm vụ của triết học tự nhiên.
Triết học tự nhiên, như chúng ta đã đề cập trên, là khuynh hướng triết học có từ thời kỳ
cổ đại và tiếp tục phát triển trong nhiều thế kỷ sau đó, khi mà các khoa học tự nhiên cịn
chưa phát triển. Vì vậy, triết học tự nhiên đã thay thế những những mối liên hệ hiện thực,
chưa biết bằng những mối liên hệ tưởng tượng, hư ảo, thay những sự kiện còn thiếu bằng
những giả định, phỏng đốn, thậm chí gán ghép cho tự nhiên nhiều sự tưởng tượng hư ảo
kỳ quái. Khi làm như thế triết học tự nhiên đã có nhiều tư tưởng thiên tài, dự đoán trước
được nhiều phát hiện sau này đồng thời cũng đưa ra nhiều điều vô lý, nhưng không thể
nào khác được. Ngày nay thì khác. Những thành tựu quan trọng của khoa học tự nhiên đã
cung cấp cho chúng ta những bằng chứng chứng minh rằng giới tự nhiên là thống nhất.
Ngày nay, một bức tranh bao quát về những mối liên hệ không những trong các lĩnh vực
riêng biệt, mà còn giữa các lĩnh vực hầu như của toàn bộ giới tự nhiên, được rút ra chủ
yếu từ những kết quả nghiên cứu do các khoa học tự nhiên đem lại. Trong những điều
kiện như vậy, thì một thứ triết học tự nhiên đứng ngoài và đứng trên các khoa học là hồn
tồn khơng cần thiết. Mọi ý định khôi phục triết học tự nhiên của các triết gia khơng cịn
phù hợp nữa, thậm chí, theo Ph.Ăngghen, phải coi ý định đó là “những bước thụt lùi”.
Tác động của khoa học lên sự phát triển của triết học không phải là trực tiếp và theo
đường thẳng, mà là gián tiếp tạo ra bầu khơng khí tinh thần cho phép hình thành một kiểu

tư duy, một cái nhìn tương ứng với trạng thái đạt được của khoa học về thế giới. Thông
qua những tri thức và phát minh khoa học, các khái niệm, các phạm trù triết học có thêm
những nội dung mới. Chẳng hạn, thuyết nhật tâm của Copernicus khẳng định rằng, trái
6


đất khơng phải là trung tâm của vũ trụ, thì rõ ràng nó đã giáng một địn chí mạng vào
Kitơ giáo, mở đầu cho thời kỳ mới của khoa học tách khỏi tơn giáo và thần học. Thuyết
tiến hóa của Darwin đưa đến kết luận rằng, các loài động vật, thực vật không phải ngẫu
nhiên, được sự sáng tạo bởi những lực lượng thần thánh siêu tự nhiên, mà là kết quả của
một q trình hồn tồn do các lực lượng tự nhiên chi phối. Kết luận đó là một quan điểm
của triết học duy vật. Thuyết tương đối của Einstein một phát minh vạch thời đại. Tư
tưởng về sự thống nhất giữa vật chất với không gian và thời gian làm cho làm cho thuyết
tương đối mang ý nghĩa duy vật sâu sắc.
Sự phát triển của khoa học tự nhiên nhất định sẽ đưa đến những kết luận triết học
chung như là một sự tổng kết lý luận. Những kết luận triết học rút ra từ các phát minh của
khoa học tự nhiên thường do chính các nhà khoa học tự nhiên thực hiện. Ảnh hưởng của
khoa học đến sự phát triển của triết học có thể đưa đến những kết luận tích cực, nhưng
cũng có thể đưa đến những kết luận tiêu cực, phản khoa học. Những phát minh khoa học
những năm cuối thế kỷ XIX về sóng, về phóng xạ, về điện tử... đã khiến khơng ít nhà
khoa học hoài nghi về khái niệm “vật chất” - nền tảng của chủ nghĩa duy vật; rằng, cần từ
bỏ chủ nghĩa duy vật và thay thế chủ nghĩa duy vật bằng “chủ nghĩa kinh nghiệm phê
phán”.([3])
Kết luận triết học được các nhà khoa học rút ra từ những kết quả của mình đa phần
mang tính tự phát. Chỉ khi được xem xét trên một nền tảng thế giới quan nhất định, chúng
mới thực sự trở thành định hướng tích cực cho sự phát triển khoa học.
2. Vai trò thế giới quan và phương pháp luận của triết học đối với sự phát triển khoa
học
2.1. Thế giới quan và phương pháp luận
Thế giới quan là hệ thống những quan điểm, tư tưởng khái quát của con người về thế

giới (bao gồm cả con người trong thế giới đó), về mối quan hệ giữa con người với thế
giới. Thế giới quan phản ánh hiện thực bên ngoài gián tiếp qua các nhu cầu, lợi ích, các lý
tưởng mang tính cá nhân hay xã hội. Tùy thuộc vào tính chất và phương thức biểu hiện
có thể có nhiều loại thế giới quan khác nhau, như: Thần thoại, tôn giáo, khoa học, đạo
đức, mỹ thuật, chính trị, triết học... Xét về phương thức biểu hiện, triết học là thế giới
quan lý luận, là hệ thống các tư tưởng được xây dựng trên cơ sở tổng kết thực tiễn và
nhận thức. Xét về tính chất, triết học là sự khái quát chung nhất, mang đặc trưng tư duy
tổng hợp.
Những quan điểm, tư tưởng khi trở thành niềm tin của con người, sẽ tích cực tham gia
vào định hướng thái độ của con người đối với các hiện tượng, các sự kiện quan trọng
trong hiện thực và trong đời sống, xác định “chỗ đứng của con người trong thế giới”. Đối
với triết học, những quan điểm tư tưởng ấy cịn giúp hình thành nên các nguyên tắc cơ
bản chỉ đạo con người trong các hoạt động của mình để đạt được mục đích; hay nói cách
7


khác, là chúng thực hiện chức năng phương pháp luận. Phương pháp luận triết học, do
xuất phát từ những quan điểm, quan niệm chung nhất về thế giới, con người và xã hội,
nên cũng là phương pháp luận chung nhất. Nó nêu lên những điều kiện chung cần thiết để
giải quyết các vấn đề, các nhiệm vụ cụ thể, chứ không phải trực tiếp giải quyết chúng.
2.2. Chức năng thế giới quan và phương pháp luận của triết học đối với sự phát triển
khoa học
Chức năng thế giới quan và phương pháp luận chung của triết học đối với khoa học,
được hầu hết các nhà khoa học thừa nhận. Vấn đề ở chỗ, nếu có ai đó cho rằng, mình
khơng cần đến một quan điểm triết học nào, thì như thế cũng đã là có một quan điểm triết
học rồi, song là một quan điểm triết học mơ hồ. Đây cũng chính là tư tưởng của
Ph.Ăgghen khi ơng nói: “Những ai phỉ báng triết học nhiều nhất lại chính là những kẻ nơ
lệ của những tàn tích thơng tục hóa, tồi tệ nhất của triết học”. Albert Einstein - một trong
những nhà khoa học xuất sắc nhất của thể kỷ XX khơng ít lần chỉ rõ các khái qt triết
học cần dựa trên các kết quả khoa học. Max Planck - nhà vật lý, cha đẻ của cơ học lượng

tử đã khẳng định rằng, thế giới quan của người nghiên cứu luôn tham gia vào việc xác
định hướng nghiên cứu của người đó.
Chức năng thế giới quan - phương pháp luận của triết học đối với các khoa học trước
hết là ở vai trị nhận thức của nó, làm gia tăng tri thức mới. Sự phân tích, lý giải triết học
đối với các dữ liệu khoa học cũng chính là sự nghiên cứu các hiện tượng ở mức độ khái
quát chung và sâu sắc hơn. Hàng loạt các phạm trù nền tảng của nhận thức được hình
thành và phát triển như là các phạm trù của triết học và các khoa học, ví dụ như các phạm
trù “vật chất”, “khơng gian”, “thời gian”, “vận động”, “nguyên nhân”, “lượng”, “chất”,...
Triết học không đi sâu giải quyết các vấn đề khoa học cụ thể, mà đi sâu giải quyết các
vấn đề thuộc về lý luận nhận thức phổ quát. Phát triển song hành cùng các khoa học cụ
thể, triết học vạch ra lơgíc của các q trình nhận thức, trở thành phương pháp luận của
nhận thức khoa học.
Chức năng thế giới quan - phương pháp luận của triết học đối với các khoa học là ở sự
tổng kết các thành tựu đã đạt được của khoa học và làm sáng tỏ các nguyên lý chung của
chúng. Tất nhiên, trong mỗi khoa học đều có sự tổng kết, khái quát các tri thức thành các
nguyên lý, các quy luật nhất định. Nhưng những tổng kết, khái quát trong mỗi khoa học
cụ thể chỉ được giới hạn trong lĩnh vực mà nó nghiên cứu. Đặc điểm của khái quát triết
học là những khái quát chung nhất, có liên quan đến các hiện tượng và các quá trình của
tự nhiên, xã hội và tinh thần.
Triết học là công cụ tổng hợp tri thức. Thực tế cho thấy trong sự phát triển của tri thức
hiện đại cùng với xu hướng xuất hiện chuyên ngành mới, chuyên sâu là xu hướng ngược
lại: Xu hướng liên ngành kết hợp nhiều khoa học thành một hệ thống thống nhất. Tính
chất tổng hợp, liên ngành của khoa học hiện đại không chỉ thể hiện ở sự kết hợp của các
ngành khoa học truyền thống thành các khoa học mới như lý hóa, hóa lý, sinh hóa, sinh
8


tâm lý, sinh vật lý, địa vật lý..., mà còn là sự xích lại gần nhau của các ngành khoa học tự
nhiên, khoa học xã hội và khoa học nhân văn. Chính xu hướng liên kết này của các khoa
học cho phép các nhà nghiên cứu đưa ra một bức tranh khoa học chung về thế giới, tìm

kiếm một cơ sở phương pháp luận chung thống nhất, khắc phục tính chất phân tán manh
mún của các khoa học chuyên ngành, xác lập cơ sở cho sự hợp tác trong nghiên cứu khoa
học. Ở đây, triết học đóng vai trị là hạt nhân lý luận kết nối các ngành khoa học, là trung
tâm phương pháp luận đem lại khả năng thâm nhập vào các quá trình này một cách chủ
động và tích cực.
Cuối cùng, sự phát triển nhanh chóng của khoa học và vai trị ngày càng tăng của nó
trong đời sống xã hội, mối liên hệ hữu cơ của nó với các nhân tố, điều kiện phát triển xã
hội và con người khiến cho vấn đề quản lý khoa học và định hướng giá trị của nó trở nên
cần thiết hơn. Quản lý và định hướng giá trị khoa học ở đây không phải là quản lý sự
sáng tạo khoa học, mà là quản lý các thiết chế khoa học, kế hoạch chương trình phát triển
khoa học; ứng dụng các kết quả nghiên cứu khoa học vào sản xuất và đời sống. Việc quản
lý và định hướng ấy chắc chắn không thể không liên quan đến một thế giới quan nói
chung, đến những quan điểm triết học nhất định.
Mối quan hệ giữa triết học và khoa học có một quá trình phát triển lâu dài. Mối quan
hệ ấy khơng đơn giản, bất biến, mà phức tạp, thay đổi và trở thành một trong những “vấn
đề triết học”, nghĩa là xung quanh nó ln tồn tại những quan điểm khác nhau. Có thể
thấy hai quan điểm nổi bật. Quan điểm thứ nhất, tuyệt đối hóa vai trị của triết học, hạ
thấp, coi thường vai trò của các khoa học. Quan điểm thứ hai, tuyệt đối hóa vai trị của
các khoa học, hạ thấp hoặc gạt bỏ vai trò của triết học. Cả hai quan điểm này thực chất là
cực đoan, chúng chỉ phản ánh và tuyệt đối hóa một xu hướng nhất định đã có trong lịch
sử triết học và khoa học mà chúng tơi đã đề cập ở trên. Có thể nói, cách tiếp cận như vậy
về mối quan hệ giữa triết học và khoa học là biểu hiện của lối tư duy siêu hình – lối tư
duy, mà xét trong những điều kiện nhất định có thể được coi là chính đáng, cần thiết,
nhưng xét trong phạm vi phổ qt thì nó bộc lộ những hạn chế nhất định.
Sự ra đời chủ nghĩa duy vật biện chứng đã đem đến một quan điểm mới, tích cực về
mối quan hệ giữa triết học và khoa học. Mối quan hệ giữa triết học và các khoa học là
mối quan hệ biện chứng, thống nhất của các mặt đối lập. Tính đặc thù của mối quan hệ
này nằm ở chỗ, tùy từng giai đoạn phát triển cụ thể mà mặt này hay mặt kia nổi trội, tác
động của mặt này lên mặt kia không phải chỉ theo một hướng duy nhất. Các kết luận triết
học được rút ra từ khoa học có thể là tích cực, nhưng cũng có thể là tiêu cực. Điều đó phụ

thuộc vào lý luận nhận thức của các nhà khoa học được định hướng bởi thế giới quan triết
học nào. Trong những năm cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, những phát minh mới của
khoa học tự nhiên, như phát hiện ra tia X, hiện tượng phóng xạ, điện tử,... đã làm bộc lộ
những hạn chế của bức tranh cũ về thế giới vật lý, tạo nên tình thế khủng hoảng. Phân
tích “cuộc khủng hoảng của vật lý học” ấy, V.I.Lênin đã chỉ ra rằng, chủ nghĩa duy tâm đã
lợi dụng và xuyên tạc những thành tựu có tính cách mạng nói trên của khoa học tự nhiên;
rằng, các nhà khoa học - những người xuất sắc trong các lĩnh vực của mình, nhưng lại
9


bộc lộ các giới hạn nhận thức trong lĩnh vực triết học. Họ, vì khơng nắm vững bản chất
của tư duy biện chứng, cho nên đã dao động và tìm đến chủ nghĩa hồi nghi mà bỏ qua
vai trị thực chứng trong vật lý học của chủ nghĩa duy vật biện chứng. V.I.Lênin khẳng
định rằng, trong trường hợp này, chỉ có nắm vững phép biện chứng duy vật mới có thể
thốt khỏi “cuộc khủng hoảng vật lý” đó.
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại với sự phát triển nhanh chóng của
khoa học cũng như những ứng dụng rộng rãi của nó trong thực tiễn đã và đang làm thay
đổi sâu sắc đời sống con người, góp phần làm bộc lộ những hạn chế của tư duy siêu hình.
Con đường duy nhất để khắc phục những giáo điều, những khn sáo, trì trệ trong nhận
thức và hành động là nắm chắc và vận dụng đúng phép biện chứng duy vật, vì phép biện
chứng duy vật là phương pháp luận chung nhất của nhận thức khoa học và thực tiễn cách
mạng.
Vai trò của triết học đối với sự phát triển của khoa học kinh tế.
1. Khoa học kinh tế là:
Theo một khái niệm chung nhất, khoa học kinh tế chính là kinh tế học, nó là một bộ
mơn khoa học giúp cho con người hiểu về cách thức vận hành của nền kinh tế nói chung
và cách thức ứng xử của từng tác nhân tham gia vào nền kinh tế nói riêng. Vấn đề khan
hiếm nguồn lực yêu cầu các nền kinh tế hay các đơn vị kinh tế phải giải quyết đối với sự
lựa chọn. Các Nhà Kinh tế cho rằng: Kinh tế học là "khoa học của sự lựa chọn". Kinh tế
học tập trung vào việc sử dụng và quản lý các nguồn lực hạn chế để đạt được thỏa mãn

tối đa nhu cầu vật chất của con người. Đặc biệt, kinh tế học nghiên cứu hành vi trong sản
xuất, phân phối, và tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ trong thế giới nguồn lực hạn chế.
III.

Như vậy, kinh tế học quan tâm đến hành vi của toàn bộ nền kinh tế tổng thể và hành vi
của các chủ thể kinh tế riêng lẻ trong nền kinh tế, bao gồm các doanh nghiệp, các hộ tiêu
dùng, người lao động và chính phủ. Mỗi chủ thể kinh tế đều có mục tiêu tối cao để hướng
tới, đó là mục tiêu tối đa hóa các lợi ích kinh tế của họ. Mục tiêu của các doanh nghiệp là
tối đa hóa lợi nhuận, mục tiêu của các hộ tiêu dùng là tối đa hóa ích lợi khi tiêu dùng và
mục tiêu của chính phủ là tối đa hóa phúc lợi xã hội. Kinh tế học có nhiệm vụ giúp các
chủ thể kinh tế giải quyết các bài toán tối đa hóa lợi ích kinh tế này.
2. Thế giới quan:
là tồn bộ những quan điểm, quan niệm của con người về thế giới xung quanh, về
bản thân con người, về cuộc sống và vị trí của con người trong thế giới đó.
Thế giới quan là nhân tố định hướng cho con người tiếp tục quá trình nhận thức thế giới
xunh quanh, cũng như tự nhận thức bản thân mình, và đặc biệt là từ đó con người xác
định thái độ, cách thức hoạt động và sinh sống của mình. Thế giới quan đúng đắn là tiền
đề hình thành nhân sinh quan tích cực tiến bộ.
10


Thế giới quan triết học khoa học: Sự hình thành, phát triển của triết học không
thể tách rời sự phát triển của khoa học cụ thể, là thế giới quan và phương pháp luận cho
khoa học cụ thể, là cơ sở lý luận cho các khoa học cụ thể trong việc đánh giá thành tựu đã
đạt được, cũng như vạch ra phương hướng, phương pháp cho quá trình nghiên cứu khoa
học cụ thể
Trong lịch sử triết học, chủ nghĩa duy vật đóng vai trị tích cực đối với sự phát
triển của khoa học, ngược lại chủ nghĩa duy tâm thường được sử dụng làm công cụ biện
hộ cho tôn giáo và cản trở khoa học phát triển
Chủ nghĩa duy vật biện chứng ra đời vào cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX đã làm

cho quan điểm “triết học là khoa học của các khoa học” và phương pháp tư duy siêu hình
khơng cịn phù hợp nữa. CN DVBC ln gắn liền với các thành tựu khoa học hiện đại, nú
đóng vai trị to lớn đối với sự phát triển của khoa học hiện đại, nú là thế giới quan và
phương pháp luận thật sự khoa học cho các khoa học cụ thể
Trong giai đoạn hiện nay, cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang đạt được
nhiều thành tựu to lớn làm thay đổi sâu sắc nhiều mặt của đời sống xã hội, tình hình thế
giới đang có nhiều biến động phức tạp thì nắm vững thế giới quan và phương pháp
DVBC càng có ý nghĩa quan trọng. Tuy nhiên, CN DVBC không thể thay thế được các
khoa học khác. Theo yêu cầu của sự phát triển đòi hỏi phải có sự liên minh chặt chẽ giữa
triết học với các khoa học khác
Triết học khơng chỉ có vai trị to lớn đối với khoa học cụ thể, mà cịn có vai trò to
lớn đối với rèn luyện năng lực tư duy của con người.

Triết học có đối tượng nghiên cứu của mình là mối quan hệ của con người với tự
nhiên và quan hệ của con người với nhau trong xã hội, đặc biệt là quan hệ của con người
với con người trong sản xuất vật chất. Quan hệ của con người với tự nhiên được biểu thị
thông qua lực lượng sản xuất, lực lượng sản xuất là toàn bộ các yếu tố vật chất và tinh
thần của con người, tạo thành năng lực thực tiễn cải biến giới tự nhiên theo mục đích của
q trình sản xuất vật chất. Quan hệ của con người với nhau trong xã hội được biểu thị cơ
bản nhất thông qua quan hệ sản xuất, quan hệ sản xuất là mối quan hệ kinh tế giữa con
người với con người nảy sinh trong quá trình sản xuất và tái sản xuất vật chất của xã hội.
Có thể nói, đây là hai mối quan hệ cơ bản nhất của con người. Do vậy, để phát triển kinh
tế thì phải có tư duy về kinh tế một cách đúng đắn. Tư duy về kinh tế muốn đúng đắn
phải dựa trên một thế giới quan triết học khoa học. Như triết học Mác - Lênin nghiên cứu
xã hội với tư cách một chỉnh thể thống nhất hữu cơ với "hạt nhân" của nó là kinh tế.
Nhưng kinh tế được triết học Mác - Lênin nghiên cứu dưới góc độ lịch sử - cụ thể, tức là
dưới những phương thức sản xuất lịch sử - cụ thể.( Như chúng ta đã rõ, phương thức sản
xuất lại là sự thống nhất hữu cơ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Trong đó,
11



lực lượng sản xuất là nội dung, còn quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của nó. Như vậy,
theo triết học Mác - Lênin, muốn phát triển một phương thức sản xuất thì trước hết phải
tập trung vào phát triển lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất, theo quan điểm của chủ
nghĩa duy vật lịch sử, là sự kết hợp hữu cơ giữa người lao động với tư liệu sản xuất, mà
trước hết là công cụ lao động để tạo ra một sức sản xuất nhất định. Từ đây cho thấy, để
phát triển kinh tế, trước hết phải tập trung vào phát triển nhân tố người lao động và sau
đó là cơng cụ lao động. Nếu người lao động khơng được giải phóng, khơng có sức khoẻ,
khơng có trình độ học vấn, khơng có kinh nghiệm, kỹ năng lao động, v.v. thì dù cơng cụ
lao động có hiện đại chăng nữa, lực lượng sản xuất cũng không thể phát triển được.
Ngược lại, nếu người lao động có sức khoẻ, có trình độ, có tay nghề, có kinh nghiệm, kỹ
năng lao động, nhưng công cụ lao động thô sơ, lạc hậu thì lực lượng sản xuất cũng khơng
thể phát triển. Như vậy, kinh tế cũng không thể phát triển. Do đó, muốn phát triển kinh tế
phải có được những chính sách phù hợp để giải phóng người lao động nhằm giải phóng
sức sản xuất. Đồng thời, phải đào tạo, bồi dưỡng trình độ chun mơn, nghiệp vụ, kỹ
năng, kinh nghiệm lao động cho họ. Không những thế mà cịn phải có được những chính
sách "lên men" được sự hăng say, tính tích cực, lịng nhiệt tình, sự cần cù, chịu khó, sự
sáng tạo, dám nghĩ, dám làm và biết phát huy có hiệu quả cơng cụ lao động hiện có của
người lao động. Nghĩa là phải tạo được sự kết hợp tối ưu giữa người lao động có tri thức,
kinh nghiệm, kỹ năng lao động với công cụ lao động. Chỉ có như vậy mới có thể phát huy
tối đa vai trò của lực lượng sản xuất trong phát triển kinh tế. Đồng thời phải có chiến lược
phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ hợp lý. Phát triển giáo dục - đào tạo là
trực tiếp bồi dưỡng, phát triển nguồn lực con người, là đào tạo người lao động, là trực
tiếp góp phần phát triển lực lượng sản xuất. Phát triển khoa học, cơng nghệ là trực tiếp
góp phần phát triển cơng cụ lao động, cải tiến, nâng cao, hoàn thiện và chuyển giao công
nghệ sản xuất,v.v.. Phát triển khoa học - công nghệ cịn góp phần phát triển tư liệu sản
xuất, như tạo ra các nguồn nguyên, nhiên, vật liệu mới, nhân tạo khơng có sẵn trong tự
nhiên cho sản xuất. Trên cơ sở đó góp phần làm cho tri thức khoa học ngày càng trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học – cơng nghệ
cịn góp phần nâng cao hiệu quả, tính khoa học của quá trình quản lý sản xuất; trên cơ sở

đó, góp phần phát triển kinh tế. Đương nhiên, những điều này chỉ mới là những điều kiện
cần cho sự phát triển kinh tế. Để những điều này hậu thuẫn tốt cho sự phát triển kinh tế
trên thực tế còn đòi hỏi phải biết tổ chức, quản lý sản xuất một cách hợp lý; giải quyết tốt
mối quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất và quan hệ phân phối sản phẩm được sản
xuất ra. Rõ ràng là, triết học không trực tiếp tạo ra của cải vật chất, nhưng triết học khoa
học, đúng đắn sẽ cung cấp cơ sở lý luận, phương pháp luận khoa học cho cho sự phát
triển tư duy về kinh tế một cách đúng đắn, khoa học; trên cơ sở đó góp phần phát triển
lực lượng sản xuất nói riêng, kinh tế nói chung. Đương nhiên, cơ sở lý luận, phương pháp
luận triết học đúng đắn còn phải được nhận thức đúng và vận dụng vào thực tiễn phát
triển kinh tế sáng tạo, phù hợp thực tiễn thì mới mang lại hiệu quả thiết thực. Thực tế lịch
sử đã chứng minh những điều này. Chẳng hạn, chính cuộc "cách mạng" trong quản lý
kinh tế do các chủ nô dân chủ, tiến bộ khởi xướng ở Hy Lạp, La Mã vào thế kỷ II, III,
nhằm giải phóng người nơ lệ với tư cách người sản xuất chính trong xã hội khi ấy đã hậu
thuẫn cho phương thức sản xuất phong kiến ra đời. Bởi lẽ, sự đánh đập nô lệ một cách dã
12


man, sự đối xử hà khắc với họ chỉ như đối với cơng cụ lao động biết nói đã làm cho nô lệ
đốt, phá hoại mùa màng, công cụ sản xuất, bỏ trốn, v.v. dẫn tới sức sản xuất bị kìm hãm,
kinh tế khơng phát triển. Để giải phóng sức sản xuất, một số chủ nô dân chủ, tiến bộ đã
thay đổi tư duy về kinh tế, trước hết là thay đổi cách quản lý nô lệ, không đánh đập mà
"khoán" sản phẩm trên đơn vị đất canh tác. Do được "tự do" canh tác, không bị giám sát,
đánh đập nên người nô lệ đã “phấn khởi” làm việc. Hơn nữa, nếu chăm chỉ làm việc, sản
phẩm vượt mức khoán thì nơ lệ được hưởng. Đây chính là mầm mống của địa tơ và đồng
thời là chất “men” giải phóng sức sản xuất, hậu thuẫn cho phương thức sản xuất phong
kiến ra đời. Thời kỳ Phục hưng ở châu Âu cũng cho thấy, không phải ngẫu nhiên mà chủ
nghĩa nhân đạo lại ra đời vào thời kỳ này. Đó là do nhu cầu giải phóng con người nhằm
giải phóng sức sản xuất địi hỏi. Nếu con người khơng được tự do đi lại, tự do làm giầu,
tự do bán sức lao động, v.v. thì nền kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa không thể ra đời và
phát triển. Cũng không phải ngẫu nhiên mà thuyết Nhật tâm lại ra đời vào thời kỳ này và

sau Cơpécníc, Brunơ, Galilê lại xuất hiện Lêôna đơ Vanhxi - nhà cơ học, kỹ thuật, có thể
nói như vậy, đầu tiên của nhân loại. Chính sự ra đời của cơ học đã hậu thuẫn cho sự phát
triển của nền sản xuất cơ khí tư bản chủ nghĩa. Hơn nữa, thuyết Nhật tâm ra đời là nhằm
đánh đổ thuyết Địa tâm - một học thuyết không khoa học - cản trở sự phát triển của khoa
học và kinh tế. Không phải ngẫu nhiên mà trong Biện chứng của tự nhiên Ph.Ăngghen đã
khẳng định: “Những ai phỉ báng triết học nhiều nhất lại chính là những kẻ nơ lệ của
những tàn tích thơng tục hố, tồi tệ nhất của những học thuyết triết học tồi tệ nhất”
3.Khái niệm phương pháp luận
Thực tiễn nghiên cứu văn hóa và con người ở nước ta mấy chục năm gần đây cho
thấy, thơng thường, nói đến phương pháp luận, các nhà nghiên cứu thường nghĩ ngay đến
những phững phương pháp luận đã có, tức là những phương pháp luận đã được các nhà
tư tưởng, các học thuyết, các quan điểm có uy tín… đề xướng và hồn thiện ở mức độ
nhất định. Công việc của những người nghiên cứu tiếp theo, do vậy, chỉ là lựa chọn và
ứng dụng. Dẫu cũng khơng kém phần khó khăn và phức tạp, nhưng cái khó thường được
chú ý chỉ là lựa chọn phương pháp luận nào, ứng dụng nó ra sao, hay cần phải cải tạo
hoặc phát triển nó như thế nào để ứng dụng cho phù hợp hơn với đối tượng nghiên cứu cụ
thể. Trên thực tế, những phương pháp luận đó chưa phải là tất cả, mới chỉ là một phần của
những phương pháp luận cần phải có. Theo chúng tơi, phương pháp luận đã có, dẫu rằng
rất quan trọng, rất căn bản nhưng vẫn chưa đủ để giải quyết toàn bộ những vấn đề đặt ra
đòi hỏi phải được định hướng về mặt phương pháp luận. Cịn có những phương pháp luận
khác, tạm gọi là phương pháp luận cần được xây dựng, đã và vẫn đang xuất hiện trong
khơng ít cơng trình nghiên cứu, phân biệt tương đối rạch rịi với những phương pháp luận
đã có. Tuy nhiên, do các cơng trình nghiên cứu lâu nay khơng buộc phải giải quyết sự
khác biệt giữa hai loại phương pháp luận này, nên có thể vì thế mà khơng mấy ai chú ý để
phân biệt.
4. Thế giới quan triết học khoa học - cơ sở phương pháp luận để nhận thức và
vận dụng sáng tạo, đúng đắn các quy luật kinh tế

13



Mỗi hệ thống triết học đều nhằm trang bị cho chủ thể một cơ sở phương pháp luận
cho việc nhận thức và trên cơ sở đó, vận dụng các quy luật kinh tế. Chẳng hạn, đối với
triết học Mác - Lênin, trang bị phương pháp tư duy biện chứng duy vật để giúp con người
nhận thức và vận dụng các quy luật kinh tế một cách khách quan, khoa học hơn. Nhờ
phương pháp tư duy biện chứng duy vật mà chúng ta hiểu được rằng, các quy luật kinh tế
cũng giống như các quy luật khác, chẳng hạn quy luật của tự nhiên là ở tính khách quan
của chúng. Nghĩa là các quy luật kinh tế tồn tại, vận động, phát triển một cách khách
quan, tuân theo những quy luật vốn có của nó, khơng phụ thuộc vào mong muốn chủ
quan của con người. Nhưng, khác với các quy luật tự nhiên, các quy luật kinh tế cịn
mang tính xã hội. Chúng chỉ tồn tại, vận động và phát triển trên cơ sở các hoạt động
kinh tế của con người. Do đó, con người khơng thể "sáng tạo" ra các quy luật kinh tế
cũng như tuỳ tiện xoá bỏ chúng. Nhưng, con người là chủ thể hoạt động kinh tế có ý
thức, có lợi ích, v.v.. Vì vậy, thơng qua các hoạt động kinh tế của mình, con người có thể
tác động để các quy luật kinh tế có thể nhanh diễn ra, hoặc chậm diễn ra. Điều này có ý
nghĩa phương pháp luận rất quan trọng trong việc lý giải tại sao một số nước có thể thực
hiện chiến lược "đi tắt, đón đầu" trong phát triển kinh tế, cũng như thực hiện quá độ lên
một phương thức sản xuất nào đó trên cơ sở bỏ qua một giai đoạn phát triển nhất định
dưới góc độ kinh tế. Đương nhiên, để thực hiện được “đi tắt, đón đầu”, hay “rút ngắn”
trong q trình phát triển thì địi hỏi phải có nhiều điều kiện khách quan và chủ quan khác
nhau. Nhưng, vai trò của triết học Mác - Lênin là ở chỗ, nó trang bị cho chúng ta phương
pháp tư duy biện chứng duy vật - công cụ quan trọng để giúp nhận thức và vận dụng sáng
tạo các quy luật kinh tế.
Phương pháp tư duy biện chứng duy vật cũng cho phép chúng ta cắt nghĩa sự phát triển
của phương thức sản xuất là do những mâu thuẫn bên trong phương thức sản xuất ấy quy
định. Đặc biệt là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Mâu thuẫn này
được giải quyết sẽ thúc đẩy phương thức sản xuất phát triển tiến bộ hơn. Sự phát triển từ
phương thức sản xuất này lên phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn là quá trình lịch sử tự nhiên. Đặc trưng của sản
xuất vật chất là không ngừng biến đổi, phát triển và bao giờ cũng bắt đầu từ sự biến đổi,
phát triển của lực lượng sản xuất. Chính sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến mâu

thuẫn với quan hệ sản xuất hiện tồn. Khi lực lượng sản xuất mâu thuẫn gay gắt với quan
hệ sản xuất hiện tồn thì quan hệ sản xuất hiện tồn này sẽ trở thành lực cản đối với sự phát
triển của lực lượng sản xuất nói riêng và kinh tế nói chung. Nghĩa là quan hệ sản xuất
hiện tồn khơng cịn phù hợp với lực lượng sản xuất đó nữa. Phương pháp tư duy biện
chứng duy vật cũng chỉ ra rằng, theo quy luật kinh tế khách quan, quan hệ sản xuất ln
phải phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. Nếu quan hệ sản xuất khơng phù hợp
với trình độ của lực lượng sản xuất, nó sẽ kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển, nghĩa là
kìm hãm kinh tế phát triển. Quan hệ sản xuất khơng phù hợp với trình độ của lực lượng
sản xuất cả trong trường hợp nó lạc hậu hoặc vượt quá xa so với trình độ của lực lượng
sản xuất. Dấu hiệu phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất
được biểu hiện ở năng suất lao động tăng; người lao động được đào tạo và đào tạo lại; đời
sống người lao động được đảm bảo; môi trường sản xuất được cải thiện; cơng cụ, máy
móc, dây chuyền sản xuất được đầu tư cải tiến v.v.. Phương pháp tư duy biện chứng duy
14


vật cũng chỉ ra rằng, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là tất yếu
khách quan; sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất bao giờ
cũng hàm chứa những yếu tố phá vỡ sự phù hợp; khi có dấu hiệu của sự khơng phù hợp
của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất thì phải giải quyết kịp thời. Nếu
quan hệ sản xuất thuộc về giai cấp thống trị đã lỗi thời trong xã hội và lợi ích của giai cấp
này khơng cịn phù hợp với lợi ích của sự phát triển xã hội, thì mâu thuẫn này phải được
giải quyết thơng qua cách mạng xã hội. Nếu quan hệ sản xuất thuộc về giai cấp tiến bộ,
đại diện cho sự phát triển xã hội thì giai cấp đó cần phải chủ động thay đổi, hoàn thiện
quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất; đổi mới quan hệ tổ chức, quản lý sản xuất cũng
như quan hệ phân phối sản phẩm.
5. Thế giới quan triết học khoa học với tư cách cơ sở phương pháp luận cho việc
hình thành văn hóa kinh doanh đúng đắn để trên cơ sở đó, góp phần thúc đẩy kinh tế
phát triển
Quan hệ giữa văn hoá và kinh doanh.

Mối quan hệ giữa văn hoá và kinh doanh là một mối quan hệ bổ sung cho nhau và tác
động lẫn nhau nhưng nó lại dường như tách bạch nhau, khơng liên quan đến nhau. Đã có
nhiều thời và cả ngày nay nữa, vẫn tồn tại nhiều ý kiến, cho rằng "văn hoá" dường như
chỉ là một cái gì đó mà khi người ta có một đời sống vật chất khá đầy đủ thì mới cần quan
tâm và phát triển nó và chỉ coi "văn hố" như một việc nâng cao đời sống cho thêm
phong phú. Nên "vănhoá" lúc đó dường như bị lãng quên, mà có nhớ chắc hẳn chỉ là một
yếu tố "giải trí" thêm. Nhưng khi chúng ta nhìn nhận vào những kinh nghiệm thực tế ở
nhiều nước trên thế giới, qua những thời gian qua thì việc tách tời yếu tố "văn hố" ra
khỏi kinh doanh thì sự phát triển kinh tế dường như khơng phát triển cho lắm, mà có thể
nó sẽ ln dậm chân tại chỗ. Mà nó cịn dẫn tới kinh tế không thể phát triển không lành
mạnh và lâu bền nếu thiếu nền tàng văn hố. Và văn hố khơng phải là một sản phẩm thụ
động của kinh tế mà có một sức mạnh tinh thần lớn lao tác động ngược lại đối với kinh
tế. Chỉ trên cơ sở mối quan hệ hài hoà, hợp lý giữa kinh tế và văn hố thì mỗi quốc gia
mới mong đạt tới sự phát triển năng động, có hiệu quả và chất lượng cao về mọi mặt đời
sống. Ở Việt Nam chúng ta đã và đang học tập điều đó để phát triển nền kinh tế tăng
trưởng hơn nữa.
- Vai trò của nhân tố văn hoá trong kinh doanh ở Việt Nam.
Nền kinh tế của Việt Nam hiện nay cũng có một bước tiến đáng kể so với thời kỳ
trước đây, khi còn thực hiện nền kinh tế chỉ huy theo đường lối quan liêu, bao cấp,
nguyên nhân thành công của sự phát triển đó khơng chỉ nhờ có thêm vốn, kỹ thuật hiện
đại, công nghệ, thị trường mà trước hết là phải nhờ ở sự đổi mới tư duy trên cơ sở, bài
học "lấy dân làm gốc" là chủ yếu của mọi chủ trương, chính sách và kế hoạch phát triển,
khơi dậy và nhân lên tiềm năng sáng tạo của mỗi tầng lớp nhân dân bằt nguồn từ những
giá trị văn hoá của mỗi tầng lớp nhân dân bằt nguồn từ những giá trị văn hố nhân loại.
Điều đó có nghĩa rằng chính văn hố đó là một động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế
của đất nước trong quá trình đổi mới. Nó cịn đảm bảo giá trị cốt lõi của văn hố với các
lợi của mục đích của kinh doanh. Loại bỏ được những mầm mống tha hố có thể làm thay
đổi bản chất con người do thế lực của đồng tiền gây nên.
-


15


6. Những giới hạn của chủ nghĩa tư bản và xu thế thời đại hiện nay
(1) Về giới hạn của chủ nghĩa tư bản
Không phải ngẫu nhiên, ngay từ những năm 90 của thế kỷ XX, một số nhà nghiên cứu,
trong đó có P.F.Drucker đã nhận thấy một chiều hướng là "Các nước phát triển đang
chuyển ra khỏi bất kỳ những gì mà có thể gọi là chủ nghĩa tư bản".Ngồi ra cịn nhiều
cơng trình nghiên cứu sự thay đổi từng lĩnh vực trong xã hội tư bản. Tất cả đều chỉ rõ một
vấn đề: Sự phát triển của hình thái tư bản đã tới giới hạn của nó, thể hiện trên hai mặt
chủ yếu sau đây:
Thứ nhất,bản chất kinh tế thị trường thúc đẩy mối quan hệ giữa con người với con
người, nhưng hình thái tư bản vừa thúc đẩy mối quan hệ ấy, lại vừa hướng mối quan hệ
ấy vào chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa tự do ích kỷ. Hậu quả là xảy ra khủng hoảng kinh
tế và xã hội, phân hoá giàu nghèo quá lớn, lối sống theo kiểu xã hội tiêu thụ, phát sinh
nhiều tai hoạ (bắn giết nhau, tình trạng tự tử tập thể...). Đó là hai mặt của nền văn minh
phương Tây.
Các nhà nước tư bản luôn đứng trước hai sức ép nặng nề từ phía xã hội và từ phía các tập
đồn tư bản. Khi nhà nước quan tâm đến yêu cầu xã hội thì sức ép tập đồn tư bản lớn
nhất (trong lịch sử Hoa Kỳ, nước phát triển nhất của chủ nghĩa tư bản có 7 tổng thống đã
bị ám sát và đầu độc, có người bị đầu độc ngay sau khi đọc diễn văn nhậm chức như
W.H.Harrison (1841), có người bị bắn chết khi còn là ứng cử viên sáng giá chức tổng
thống như Robert Kennedy (1968). Còn khi nhà nước nghiêng về lợi ích các tập đồn tư
bản thì sớm muộn cũng xảy ra khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Thứ hai, bất lực của chủ nghĩa tư bản trong mối quan hệ giữa con người với tự
nhiên. Có thể cho rằng nếu trong mối quan hệ giữa con người với con người, giai đoạn
phát triển kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa đã giải quyết được một nửa, đã tạo cơ sở
cần thiết để hoàn thiện mối quan hệ ấy, thì trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên
lại gây ra những hậu quả hiểm nghèo cho cả nhân loại. Đằng sau mơ hình tăng trưởng
kinh tế của các nước là sự tàn phá môi trường tự nhiên ngày càng nghiêm trọng. Hậu quả

của tàn phá môi trường tự nhiên đã vượt lên trên những khó khăn do sự khác nhau về văn
hố, về hệ tư tưởng. Chỉ cần tính cả những thiệt hại về mơi trường vào GDP thì có lẽ
khơng có nước nào trên thế giới có tỷ lệ tăng trưởng dương.
Mối quan hệ giữa con người với tự nhiên ngày càng xấu đi, lại đang tác động tiêu cực đến
mối quan hệ giữa con người với con người, ngày càng xuất hiện những nghịch lý có tính
tồn cầu về kinh tế, văn hố, chính trị và quan hệ quốc tế
Phân tích thực trạng phát triển mối quan hệ kép của con người trong cuối thế kỷ
XX cho thấy: Hình thái xã hội - kinh tế tư bản chủ nghĩa đã tới giới hạn cuối cùng của nó.

16


Q trình xã hội hố lao động và sản xuất sẽ vượt qua hình thái đó và phát triển với hình
thái mới. Đó là xu thế tất yếu của thời đại hiện nay.
(2). Xu thế thời đại kinh tế mới của quá trình lịch sử - tự nhiên
Bước vào thế kỷ XXI, tuy mới ở thập kỷ đầu, nhưng sự vận động phát triển của nó lại thể
hiện một quan niệm biện chứng của Mác: "Khi lịch sử đặt ra vấn đề gì thì nó cũng chuẩn
bị khả năng để giải quyết vấn đề ấy".
Đúng như vậy, khả năng để giải quyết các vấn đề nói trên đã hình thành ở giai đoạn cuối
của chủ nghĩa tư bản. Đó là lực lượng sản xuất mới dựa trên khoa học và nền kinh tế tri
thức. Đây là thành tựu lớn nhất của q trình xã hội hố lao động và sản xuất mấy trăm
năm, dựa trên động lực chạy theo giá trị gia tăng của chủ nghĩa tư bản. Đồng thời đây
cũng là nhân tố phủ định đối với chủ nghĩa tư bản theo mỗi bước trưởng thành của nền
kinh tế tri thức. Theo C.Mác, thì đó là sự phủ định của phủ định đối với sở hữu tư nhân
trong lịch sử nhân loại.
Như vậy, quá trình hình thành mối quan hệ kép của con người thực sự đã diễn ra theo một
quá trình lịch sử - tự nhiên: Sự phát triển sở hữu tư nhân dựa trên lao động bản thân trong
nền sản xuất nhỏ thủ cơng đã hình thành sở hữu tư bản; q trình xã hội hố trong chế độ
sở hữu tư bản lại phủ định sở hữu tư nhân dựa trên lao động bản thân và hình thành sở
hữu tư bản dựa trên lao động làm thuê; sự phát triển của sở hữu tư bản mấy trăm năm,

cuối cùng lại tạo ra sở hữu cổ đông của người lao động một cách phổ biến - cơ sở và điều
kiện của phát triển cá nhân.
Nhìn tổng quát, khâu trung tâm của quá trình lịch sử chuyển biến như thế là sự phát triển
tự do và toàn diện của con người với tư cách mỗi cá nhân theo từng nấc thang của xã hội
hoá lao động và sản xuất. Ngồi ra, cịn cần chú ý một khía cạnh khác là sự phát triển cá
nhân trong quá trình xã hội hố ln ln là điều kiện cho sự phát triển cộng đồng. Mặt
khác, sự phát triển của cộng đồng lại là môi trường cần thiết của sự phát triển cá nhân.
Kinh tế tri thức là hình thái kinh tế duy nhất đem lại khả năng thực tế cho sự phát triển
đồng thời của cá nhân và cộng đồng một cách hài hồ, khi nó hình thành và tất yếu hình
thành hình thái xã hội - kinh tế mới thay thế cho hình thái xã hội - kinh tế tư bản chủ
nghĩa.
Theo những nghiên cứu đáng tin cậy trong hai thập kỷ (cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI)
đã dự báo một số biến đổi theo hướng nói trên sau đây:
- Về kinh tế,để tồn tại, các tập đoàn kinh tế sẽ tự tổ chức thành một liên minh các
công ty nhỏ độc lập,do tác động của khuynh hướng "Nền kinh tế thế giới càng lớn, thì
những phần tử nhỏ nhất trong nó sẽ càng mạnh hơn" (J.Naisbitt).

17


Thế giới mới sẽ là một sự đan quyện giữa cạnh tranh và liên kết, giống như âm với dương
để tìm sự cân bằng và ln thay đổi.
-. Về văn hoá - xã hội,những thay đổi quan trọng nhất được dự báo là:

+ Xu hướng thâm nhập vào nhau giữa khoa học tự nhiên với khoa học xã hội
mà kết quả là hình thành khoa học về con người. Xu hướng này đã được Mác dự
báo và trong thế kỷ XX đã thể hiện ở một số nhà khoa học lớn như A.Einstein,
J.Quyri.
+ Về giáo dục hướng tới mục đích "Học để làm người" đúng như tư tưởng Hồ
Chí Minh, bằng cách giáo dục thức tỉnh các tài năng, bồi dưỡng, phát hiện tài

năng và phẩm chất ở con người.
+ Cùng với bước tiến của kinh tế tri thức, thì lao động tri thức ngày càng chiếm
đa số trong lực lượng lao động xã hội. Trong cơ cấu xã hội hình thành tầng lớp
trung lưu ngày càng tăng. Đó là cơ sở hình thành xã hội mới dân chủ, cơng
bằng, văn minh (A.Toffler hy vọng đó là nền văn minh thứ ba).
Những thay đổi trong kinh tế, văn hoá, xã hội, môi trường là những tiềm lực mới
tạo thành định hướngPhát triển bền vững về kinh tế và xã hội, lấy sự phát triển tự do và
toàn diện của con người làm mục tiêu.
(3). Về chính trị,từ những thay đổi về chất trong kinh tế, văn hố xã hội nói trên,
đã có dự báo về sự kết thúc của nền dân chủ đại diện, để người dân có thể trực tiếp tham
gia và kiểm soát những biến đổi trong đời sống của họ. Như vậy, những thay đổi về chất
trong cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội chắc chắn sẽ địi hỏi một nền chính trị nhân văn.
Đồng thời, những thay đổi ấy là báo hiệu sự kết thúc của các thể chế chính trị lỗi thời như
chủ nghĩa dân tộc bá quyền, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, các thẻ chế độc quyền (của một
nhóm hay gia đình trị), các lực lượng chống lại con người...
Niềm tin ở xu thế thời đại mới là có căn cứ và sẽ như lời của Victor Hugo: "Khơng có gì,
kể cả qn đội trên tồn thế giới, có thể ngăn cản được một ý tưởng khi thời đại của nó đã
tới".
Kết luận
Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành
theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay, lý luận nhận thức, vấn đề cải tạo thực tiễn nền kinh tế luôn thu hút sự
quan tâm của nhiều đối tượng.
IV.

18


Ngày nay, triết học là một bộ phận không thể tách rời với sự phát triển của bất cứ
hình thái kinh tế nào. Những vấn đề triết học về lý luận nhận thức và thực tiễn, phương

pháp biện chứng... luôn là cơ sở, là phương hướng, là tôn chỉ cho hoạt động thực tiễn, xây
dựng và phát triển xã hội. Nếu xuất phát từ một lập trường triết học đúng đắn, con người
có thể có được những cách giải quyết phù hợp với các vấn dề do cuộc sống đặt ra. Việc
chấp nhận hay không chấp nhận một lập trường triết học nào đó sẽ khơng chỉ đơn thuần
là sự chấp nhận một thế giới quan nhất định, một cách lý giải nhất định về thế giới, mà
còn là sự chấp nhận một cơ sở phương pháp luận nhất định chỉ đạo cho hoạt động.
Những bước phát triển gì nữa sẽ đặt ra cho nền kinh tế Việt Nam trước thềm thiên
niên kỷ mới? Đổi mới kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải chăng vẫn chưa đáp
ứng được nhu cầu thời đại ? Tất nhiên, những câu trả lời cho vấn đề ấy cịn đang nằm ở
phía trước. Song chắc chắn, với con đường đi đúng đắn và sự lựa chọn quyết đoán của
Đảng và Nhà nước, chúng ta sẽ gặt hái được rất nhiều thành tựu mới. Nhà nước sử dụng
các đòn bẩy kinh tế trong kế hoạch hố trực tiếp và kế hoach hóa gián tiếp để đảm bảo
thực hiện những phương hướng, mục tiêu của kế hoạch kinh tế quốc dân. Trước thực tế
của quá trình phát triển kinh tế Việt Nam từ sau cách mạng Tháng Tám, một lần nữa ta lại
càng cần khẳng định vai trị khơng thể thiếu được của q trình lý luận nhận thức và các
chính sách, chủ trương xuất phát từ thực tiễn chi phối nền kinh tế. Khi đi đúng vào tiến
trình lịch sử của nhân loại, tất yếu chúng ta sẽ không bị lạc hậu, tụt lùi mà ngày càng có
vị thế, phát triển mạnh mẽ hơn. Hy vọng chỉ một thời gian không lâu nữa nền kinh tế Việt
Nam sẽ phát triển vượt bậc, phát triển có cơ sở vững chắc, đứng vào vị trí những nước có
nền kinh tế tăng trưởng mạnh trên thế giới.

19


Danh mục tài liệu tham khảo
1.

Giáo trình những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lenin – NXB Chính trị

quốc gia;

2. Giáo trình những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lenin – Đại học Luật
Hà Nội;
3. Tạp chí triết học;
4. Và một số tài liệu tham khảo khác

20



×