Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (77.58 KB, 18 trang )

Lời mở đầu
Quan hệ quốc tế là vấn đề phức tạp, luôn đan xen những yếu tố với những
tính chất và mức độ khác nhau. Khi hợp tác quốc tế không thể nào tránh khỏi
những tranh chấp, xung đột giữa các chủ thể của luật quốc tế. Cho nên đòi hỏi cần
có những quy chế pháp lý đảm bảo việc hợp tác của các quốc gia theo một định
hướng nhất định, đảm bảo quyền, lợi ích cơ bản của các chủ thể khi tham gia vào
quan hệ quốc tế.
Mỗi một ngành luật đều có những nguyên tắc áp dụng riêng, là những tư
tưởng chủ đạo, mang tính định hướng cho ngành luật đó. Luật quốc tế cũng không
phải là một ngoại lệ. Với tính chất là ngành luật điều chỉnh các mối quan phát sinh
giữa các chủ thể của luật quốc tế khi tham gia vào đời sống quốc tế. Vì thế đòi hỏi
cần một thước đo gia trị pháp lý, là căn cứ pháp lý để giải quyết các tranh chấp
quốc tế
Hệ thống luật quốc tế tồn tại nhiều nguyên tắc khác nhau, trong đó có các
nguyên tắc điều chỉnh quan hệ liên quốc gia ở phạm vi toàn cầu, đồng thời lại có cả
những nguyên tắc điều chỉnh quan hệ giữa các nước cùng khu vực và nguyên tắc
điều chỉnh quan hệ trong từng ngành luật cụ thể của hệ thống luật quốc tế. Trong
các nguyên tắc này thì hệ thống các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế là những
nguyên tắc thể hiện tập trung nhất các quan điểm chính trị - pháp lý và cách xử sự
của các quốc gia trong việc giải quyết những vấn đề cơ bản, quan trọng nhất của
đời sống quốc tế.
Nhận thấy được vai trò quan trọng của các nguyên tắc cơ bản của luật quốc
tế. Trong bài luận này, bằng phương pháp phân tích, bình luận sẽ đi nghiên cứu về
vấn đề “ Các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tê. Từ quy định đến thực tiến” nhằm
nắm bắt được nội dung và thực tiễn áp dụng của nó trong đời sống quốc tế.



I.
Khái niệm
1. Định nghĩa


Trong hệ thống luật quốc tế tồn tại nhiều nguyên tắc tuy nhiên không phải nguyên
tắc nào cũng là nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế, một nguyên tắc muốn trở thành
nguyên tắc cơ bản thì nguyên tắc đó cần phải thể hiện tập trung nhất các quan điểm
chính trị - pháp lý và cách ứng xử của các quốc gia trong việc giải quyết các vấn đề
cơ bản và quan trọng đối với đời sống quốc tế. Từ đó có thể đưa ra định nghĩa như
sau: Những nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế là những tư tưởng chính trị, pháp lý
mang tính chỉ đạo, bao trùm, có giá trị bắt buộc chung (Jus cogens) đối với mọi
chủ thể luật quốc tế1
Trong luật quốc tế các nguyên tắc cơ bản tồn tại dưới dạng những quy phạm Jus
cogens được ghi nhận ở điều ước quốc tế và tập quán quốc tế. Các nguyên tắc này
thực hiện hai chức năng quan trọng là ổn định quan hệ quốc tế và ấn định khuôn
khổ xử sự cho các chủ thể trong quan hệ quốc tế, qua đó tạo điều kiện cho quan hệ
quốc tế phát triển.2
2. Đặc điểm3
a) Tính mệnh lệnh
Tất cả các loại chủ thể đều phải tuyệt đối tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của luật
quốc tế, bất kỳ vi phạm nào cũng sẽ làm ảnh hưởng đến lợi ích của chủ thể quốc tế
khác.
Không một chủ thể hay nhóm chủ thể nào của luật quốc tế có quyền hủy bỏ nguyên
tắc cơ bản của luật quốc tế, bất kỳ hành vi đơn phương nào không tuân thủ triệt để
nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế đều bị coi là sự vi phạm nghiêm trọng pháp luật
quốc tế.
11,2 Trang 39 giáo trình Luật Quốc tế đại học Luật Hà Nội
2
3 Tham khảo giaó trình Luật quốc tế của đại học Luật Hà Nội và Đại học Kiểm sát Hà Nội


Ngoài ra, đối với các lĩnh vực có các nguyên tắc chuyên biệt như: Luật hàng không
dân dụng quốc tế, luật biển quốc tế...thì bên cạnh việc tuân thủ các nguyên tắc cơ
bản của luật quốc tế, các bên còn phải chấp hành các nguyên tắc riêng trong từng

lĩnh vực cụ thể.
b) Tính chuẩn mực
Nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế là chuẩn mực để xác định tính hợp pháp của
toàn bộ hệ thống các quy phạm pháp lý quốc tế. Đồng thời chúng được thực hiện
trong tất cả các lĩnh vực của quan hệ quốc tế giữa các quốc gia.
c) Tính phổ biến (được thừa nhận rộng rãi)
Đặc trưng này thể hiện ở chỗ: các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế được áp dụng
trong phạm vi toàn thế giới, đồng thời chúng được ghi nhận trong hầu hết các văn
bản pháp lý quốc tế quan trọng như: Hiến Chương Liên hợp quốc, Tuyên bố năm
1970 về các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế, Hiệp ước thân thiện và hợp tác
Đông Nam Á...
d) Tính bao trùm
Nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế là cơ sở để xác định tính hợp pháp của toàn bộ
hệ thống các quy phạm pháp lý quốc tế. Đồng thời chúng được thực hiện trong tất
cả các lĩnh vực của quan hệ quốc tế giữa các quốc gia. Ví dụ: nguyên tắc không
được dùng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế được áp dụng
trong mọi lĩnh vực không chỉ trong tranh chấp lãnh thổ, kinh tế mà còn trong các
lĩnh vực khác như nhân quyền, khai thác và sử dụng biển. Bởi đó, nguyên tắc này
là vô cùng cần thiết khi xảy ra tranh chấp.

II.

Nội dung của các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế


1. Nguyên tắc tôn trọng và bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia
Chủ quyền là thuộc tính chính trị - pháp lý không thể tách rời của quốc gia. Chủ
quyền quốc gia bao gồm hai nội dung chủ yếu: thứ nhất, quốc gia có quyền tối cao
trong phạm vi lãnh thổ của mình và thứ hai là quyền độc lập của quốc gia trong
quan hệ quốc tế.

Do đó, trong phạm vi lãnh thổ của mình quốc gia có quyền tối cao trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Tức là không quốc gia nào có thể can
thiệp vào đời sống chính trị hay xã hội của quốc gia khác, các quốc gia có quyền tự
do thiết lập bộ máy chính quyền nước mình mà không cần phải theo tuân theo cũng
như chịu sự áp đặt của quốc gia nào khác, ngoài lĩnh vực chính trị thì các lĩnh vực
khác như kinh tế, xã hội, văn hóa,... các quốc gia cũng có toàn quyền quyết định.
Trong quan hệ quốc tế, quốc gia hoàn toàn có quyền trong việc lựa chọn và thực
hiện đường lối đối ngoại của mình. Nói tóm lại tất cả các quốc gia dù lớn hay nhỏ,
dù giàu hay nghèo đều được tôn trọng và phải tôn trọng quyền tự do về đối nội đối
ngoại của nhau sao cho sự tự do đó vừa mang lại lợi ích cho quốc gia mình vừa
không xâm phạm đến lợi ích của quốc gia khác.
Bình đẳng về chủ quyền của các quốc gia là nền tảng quan hệ hiện đại. Trật tự
quốc tế chỉ có thể được duy trì nếu các quyền bình đẳng của các quốc gia tham gia
trật tự đó được hoàn toàn đảm bảo. Việc tôn trọng nghiêm chỉnh nguyên tắc bình
đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia là cơ sở quan trọng để đưa thế giới phát triển
theo xu hướng ngàng càng ổn định, hội nhập và tiến bộ hơn.
2. Nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau

Xuất hiện trong thời cách mạng tư sản và sau này được Hiến chương Liên Hợp
Quốc cụ thể đã cụ thể hóa nội dung của nguyên tắc tại khoản 7 điều 2: “Hiến


chương này hoàn toàn không cho phép Liên hợp quốc được can thiệp vào những
công việc thực chất thuôc thẩm quyền nội bộ của bất cứ quốc gia nào”, đồng thời
nghĩa vụ này cũng được đặt ra cho tất cả các thành viên của cộng đồng quốc tế.
Theo đó nội dung của nguyên tắc này là: không một quốc gia hoặc một nhóm quốc
gia nào có quyền can thiệp trực tiếp hoặc gián tiếp vào công việc công việc nôi bộ
của quốc gia khác. Công việc nội bộ của mỗi quốc gia ở đây có thể hiểu là công
việc nằm trong thẩm quyền giải quyết của mỗi quốc gia độc lập xuất phát từ chủ
quyền của mình, đó là quyền tối thượng của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ của

mình như việc lựa chọn, tiến hành đường lối chính trị và cá chính sách kinh tế văn hóa xã hội, việc thực hiên đường lối chính sách, việc quản lý xây dựng bộ máy
chính quyền, việc điều hành các hoạt động xã hội,...
Nguyên tắc này không cho phép bất kỳ quốc gia nào dù lớn hay nhỏ, dù giàu hay
nghèo, dù văn minh hay lạc hậu được quyền can thiệp vào các lĩnh vực thuộc thẩm
quyền riêng biệt của mỗi quốc gia, xuất phát từ chủ quyền của mình. Không quốc
gia nào được phép áp dụng các biện pháp quân sự, chính trị hoặc các biện pháp
cưỡng bức khác với mục đích nhằm chống lại chủ quyền, nền tảng chính trị, văn
hóa - xã hội của quốc gia.
Cấm các quốc gia tiến hành hoạt động phá hoại hoặc khủng bố nhằm lật đổ chính
quyền quốc gia khác. Bên cạnh đó, việc dùng các biện pháp kinh tế, chính trị và
các biện pháp khác để bắt buộc quốc gia khác phụ thuộc vào mình cũng là vi phạm
nguyên tắc này. Do đó, các quốc gia cần tôn trọng quyền của các quốc gia khác về
sự tự do lựa chọn chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa-xã hội và không được can thiệp
vào nội bộ của quốc gia khác.
Tuy nhiên thì nguyên tắc này cũng có một số ngoại lệ như khi có xung đột vũ trang
xảy ra trong nội bộ của quốc gia: về nguyên tắc, cộng đồng quốc tế sẽ không có


quyền can thiệp. Tuy nhiên, nếu cuộc xung đột này đạt đến mức độ nghiêm trọng,
và có thể gây ra mất ổn định trong khu vực, đe dọa hoà bình và an ninh quốc tế, thì
cộng đồng quốc tế, thông qua Hội đồng bảo an Liên hợp quốc - được quyền can
thiệp trực tiếp hoặc gián tiếp vào cuộc xung đột này.
Ngoài ngoại lệ trên ra thì khi có hành vi vi phạm nghiêm trọng các quyền cơ bản
của con người, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến hòa bình và an ninh quốc tế thì có
thể sẽ có sự can thiệp từ cộng đồng quốc tế.
Các hành động này không bị coi là vi phạm nội dung của nguyên tắc "Không can
thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác".
3. Nguyên tắc tôn trọng quyền tự quyết của các dân tộc
Nguyên tắc này được ghi nhận trong Hiến chương liên hợp quốc và nhiều văn bản
pháp luật quốc tế quan trọng khác. Theo đó thì mỗi dân tộc đều được tự do lựa

chọn con đường và hình thức phát triển cho đất nước mình và được thể hiện rõ
nhất ở chủ quyền dân tôc – quyền thiêng liêng và bất khả xâm phạm của mỗi dân
tộc được pháp luật thừa nhận.
"Quyền dân tộc tự quyết" được hiểu là việc một dân tộc hoàn toàn tự do trong việc
tiến hành cuộc đấu tranh giành độc lập cũng như lựa chọn thể chế chính trị, đường
lối phát triển đất nước. Khoản 2 điều 1 Hiến chương Liên hợp quốc ghi nhận "phát
triển quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc bình
đẳng về chủ quyền và dân tộc tự quyết". Như vậy nguyên tắc dân tộc tự quyết được
hiến chương Liên hợp quốc ghi nhận trên 2 phương diện chủ yếu là: thứ nhất tất cả
các dân tộc có quyền tự do quyết định chế độ chính trị của mình; thứ hai các dân
tộc có quyền tự do theo đuổi sự phát triển về kinh tế, xã hội và văn hóa và không
có bất kỳ sự can thiệp bên ngoài vào.4
4 Trang 70 giáo trình Luật quốc tế của trường đại học Kiểm sát Hà Nội


Như vậy, nguyên tắc dân tộc tự quyết bao hàm các nội dung sau:
- Được thành lập các quốc gia độc lập có chủ quyền, tự do liên kết hoặc hợp
nhất với quốc gia khác trên cơ sở tự nguyện
- Các quốc gia được tự lựa chọn cho mình chế độ chính trị, kinh tế xã hội
- Tự giải quyết các vấn đề trong nước mà không cần có sự can thiệt của nước
ngoài
- Tự lựa chọn con đường phát triển phù hợp với truyền thống, lịch sử văn hóa,
tín ngưỡng, điều kiện địa lý
- Các dân tộc có quyền tìm kíếm và quyền nhận được sự trợ giúp phù hợp với
những mục đích và nguyên tắc của Hiến chương liên hợp quốc để chống lại
những hành độc nhằm tước đi nền độc lập hay gây chia rẽ đối với quốc gia
mình
- Tôn trọng quyền tự quyết đối với các quốc gia khác trên cơ cơ sở các
nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế
4. Nguyên tắc không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực

Nguyên tắc này được thừa nhận là một nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế kể từ
sau khi Hiến chương Liên hợp quốc có hiệu lực. Cụ thể tại khoản 4 điều 2 Hiến
chương liên hợp quốc có quy định: “Tất cả các quốc gia thành viên Liên hợp quốc
từ bỏ đe dọa bằng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế nhằm chống
lại sự bất khả xâm phạm về lãnh thổ hay nền độc lập chính trị của bất kỳ quốc gia
nào cũng như bằng cách khác trái với những mục đích của Liên hợp quốc”. Theo
quy định trên thì việc một chủ thể của luật quốc tế sử dụng sức mạnh về vũ khí hay
các loại vũ lực khác nhằm đe dọa, khống chế, tấn công hoặc cưỡng chế trái với
pháp luật quốc tế đối với một chủ thể khác trong quan hệ quốc tế thì hành vi đó bị
coi là hành vi vi phạm pháp luật quốc tế. Ngoài hiến chương Liên hợp quốc ra thì
còn một số các văn bản quốc tế khác ghi nhận cũng như cụ thể hóa nguyên tắc này
như: Tuyên bố của đại hội đồng liên hợp quốc năm 1974 về định nghĩa xâm lược,
định ước Henxinki năm 1975 về an ninh và hợp tác của các nước châu Âu, tuyên


bố của liên hợp quốc năm 1987 về "nâng cao hiệu quả của nguyên tắc khước từ đe
dọa bằng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế".
Trong đó, nổi bật có định ước Henxinki năm 1975 quy định các quốc gia tham gia
sẽ "khước từ mọi biện pháp mang tính cưỡng bức đối với quốc gia, thành viên
khác, khước từ tiến hành hành vi cưỡng bức về kinh tế". Như vậy, quan niện về
“vũ lực” theo luật quốc tế hiện đại thì không chỉ là việc dùng lực lựng vũ trang đe
dọa tấn công, tấn công hay cưỡng bức trái pháp luật quốc tế mà còn mở rộng việc
nghiêm cấm sử dụng các sức mạnh hay đe dọa dùng sức mạnh phi vũ trang trong
quan hệ quốc tế.
Như vậy có thể tổng kết nội dung của nguyên tắc này như sau:
- Cấm xâm chiếm lãnh thổ quốc gia khác trái với các quy phạm của luật
quốc tế;
- Cấm các hành vi trấn áp bằng vũ lực;
- Không được cho quốc gia khác sử dụng lãnh thổ nước mình để tiến hành
xâm lược chống quốc gia thứ ba;

- Không tổ chức, xúi giục, giúp đỡ hay tham gia vào nội chiến hay các hành
vi khủng bố tại quốc gia khác;
- Không tổ chức hoặc khuyến khích việc tổ chức các băng nhóm vũ trang,
lực lượng vũ trang phi chính quy, lính đánh thuê để đột nhập vào lãnh thổ quốc gia
khác.5
Bên cạnh đó, thì nguyên tắc này cũng có một số ngoại lệ như:

5 Trang 45 giáo trình Luật quốc tế của trường đại học Luật Hà Nội


*

Các quốc gia có quyền sử dụng lực lượng vũ trang để thực hiện quyền tự vệ

hợp pháp, kể cả việc sử dụng biện pháp quân sự nhưng phải tuân thủ nguyên tắc
tương xứng.(cơ sở pháp lý là điều 51 Hiến chương liên hợp quốc)
*

Các dân tộc thuộc địa được phép sử dụng tất cả các biện pháp để đấu tranh

giành quyền tự quyết, kể cả các biện pháp quân sự nhưng phải tuân thủ các quy
định của luật quốc tế.
*

Cộng đồng quốc tế có quyền áp dụng các biện pháp trừng phạt, kể cả các

biện pháp quân sự đối với các chủ thể có hành vi vi phạm nghiêm trọng luật quốc
tế.
5. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng phương pháp hòa bình
Sự hình thành và phát triển của nguyên tắc này gắn liền với sự hình thành và phát

triển của nguyên tắc cấm đe dọa dùng vũ lực và dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế
và là hệ quả tất yếu của nguyên tắc này. Nguyên tắc này được thừa nhận là một
nguyên tắc cơ bản trong quan hệ giữa các quốc gia bởi hiến chương Liên hợp quốc.
tại khoản 3 điều 2 hiến chương Liên hợp quốc khẳng định : “Tất cả các thành viên
của Liên hợp quốc giải quyết các tranh chấp quốc tế của họ bằng biện pháp hoà
bình, sao cho không tổn hại đến hoà bình, an ninh quốc tế và công lý”.
Trên thực tế, các mẫu thuẫn trong các mối quan hệ giữa các quốc gia luôn tiềm
tàng và có thể xảy ra bất cứ lúc nào và từ đó mẫu thuẫn có thể dẫn tới tranh chấp
giữa các quốc gia. Đó có thể là một vấn đề pháp lý cụ thể, một sự kiện thực tế, sự
đối nghịch trong quyền lợi giữa các quốc gia và nhóm quốc gia... Tranh chấp quốc
tế có thể là tranh chấp pháp lý hoặc tranh chấp chính trị. Nguyên nhân của tranh
chấp quốc tế có thể là do sự khác biệt mâu thuẫn, sự không thống nhất về cách
nhìn nhận về một vấn đề có liên quan đến quốc gia hoặc có thể là sự khác nhau về
thể chế, đường lối hoặc hệ tư tưỡng giữa các quốc gia với nhau. Khi các tranh chấp


phát sinh các quốc gia phải giải quyết bằng biện pháp hòa bình. Ngoài ra, các bên
có quyền tự do lựa chọn các biện pháp phù hợp nhất, sao cho mọi tranh chấp đều
được giải quyết trên cơ sở luật quốc tế và nguyên tắc công bằng.
Thực tiễn cho thấy, phương pháp đàm phán là phương pháp thường xuyên được
các quốc gia sử dụng để giải quyết các tranh chấp hoặc bất đồng với nhau.
6. Nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác lẫn nhau
Trong xu thế toàn cầu hóa như hiện nay thì nguyên tắc này càng thể hiện được vai
trò to lớn của mình, sự hợp tác chặt chẽ trên cơ sở các bên cùng có lợi để các quốc
gia ngày càng phát triển. Theo Hiến chương thì các quốc gia có nghĩa vụ “tiến
hành hợp tác quốc tế để giải quyết các vấn đề kinh tế, xã hội, văn hóa và nhân đạo
trên phạm vi quốc tế” cũng như “duy trì hòa bình và an ninh quốc tế bằng cách tiến
hành các biện pháp tập thể có hiệu quả”. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng
phương pháp hòa bình có nội dung được quy đinh rõ ràng tại điều 55 và 56 của
Hiến chương. Đặc biệt, tại điều 55 của Hiến chương quy định, các quốc gia thành

viên có nghĩa vụ hợp tác với nhau, đồng thời có nghĩa vụ hợp tác với các tổ chức
quốc tế nhằm mục đích thực hiện tôn chỉ, mục tiêu của chúng. Theo đó hình thức
và mức độ hợp tác này sẽ hoàn toàn phụ thuộc vào chính quyết định của các quốc
gia xuất phát từ tình hình thực tế và năng lực của mỗi quốc gia.
Ngoài hiến chương ra thì trong tuyên bố về các nguyen tắc của luật quốc tế năm
1970 thì nguyên tắc này đã được quy định cụ thể hơn:
- Quốc gia phải hợp tác với các quốc gia khác trong việc duy trì hòa bình và an
ninh quốc tế;
- Các quốc gia phải hợp tác để khuyến khích sự tôn trọng chung và tuân thủ quyền
con người và các quyền tự do cơ bản khác của cá nhân, thủ tiêu các hình thức phân
biệt tôn giáo, sắc tộc, chủng tộc;


- Các quốc gia phải tiến hành quan hệ quốc tế trong lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn
hóa, thương mại và kỹ thuật, công nghệ theo các nguyên tắc bình đẳng về chủ
quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau;
- Các quốc gia thành viên Liên hợp quốc phải thực hiện các hành động chung hay
riêng trong việc hợp tác với Liên hợp quốc theo quy định của Hiến chương;
- Các quốc gia phải hợp tác trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội và văn hóa, khoa học,
công nghệ nhằm khuyến khích sự tiến bộ về văn hóa, giáo dục, phát triển kinh tế
trên toàn thế giới, đặc biệt là các nước đang phát triển.
7. Nguyên tắc tận tâm thiên chí tuân thủ những cam kết quốc tế (pacta sunt
savanda)
Nguyên tắc tận tâm, thiện chí thực hiện cam kết quốc tế được hiểu là khi các bên
chủ thể trong quan hệ luật quốc tế tham gia và kí kết các điều ước quốc tế thì phải
trên cơ sở của sự thỏa thuận và tự nguyện, bình đẳng. Khi tham gia vào Điều ước
quốc tế các quốc gia phải có nghĩa vụ tuân thủ nội dung mà mình đã cam kết.
Theo cá cơ sở pháp lý đã nêu ở trên thì nguyên tắc Pacta sunt servanda bao gồm
các nội dung chính sau:
Thứ nhất, mỗi quốc gia đều có nghĩa vụ thực hiện tự nguyện và có thiện chí, trung

thực và đầy đủ các nghĩa vụ quốc tế của mình. Đầu tiên, đó là các nghĩa vụ trong
hiến chương Liên Hợp Quốc ( ví dụ như: tất cả các thành viên của Liên hợp quốc
giải quyết các tranh chấp quốc tế của họ bằng biện pháp hoà bình, sao cho không
tổn hại đến hoà bình, an ninh quốc tế và công lý), tiếp theo đó là các nghĩa vụ phát
sinh từ các nguyên tắc và quy phạm được thừa nhận rộng rãi của luật quốc tế, bên
cạnh đó các quốc gia phải có nghĩa vụ tuân thủ những cam kết mà mình đưa ra khi
tham gia một tổ chức thành viên nào đó, cam kết song phương giữa hai quốc gia,...


(ví dụ như Việt Nam đã cam kết mở cửa thị trường đối với các dịch vụ kinh doanh
khi gia nhập WTO).
Thứ hai, mọi quốc gia phải tuyệt đối tuân thủ việc thực hiện nghĩa vụ điều
ước quốc tế, tuân thủ một cách triệt để, không do dự.
Thứ ba, các quốc gia thành trong viên điều ước quốc tế không được viện dẫn
các quy định của pháp luật nước để coi đó là nguyên nhân và từ chối thực hiện
nghĩa vụ của mình.
Thứ tư, các quốc gia không có quyền ký kết điều ước quốc tế mâu thuẫn với
nghĩa vụ của mình được quy định trong điều ước quốc tế hiện hành mà quốc gia ký
kết hoặc tham gia ký kết trước đó với các quốc gia khác
Thứ năm, không cho phép các quốc gia đơn phương ngừng thực hiện và xem
xét lại điều ước quốc tế. Hành vi này chỉ được thực hiện với phương thức đình chỉ
và xem xét hợp pháp theo sự thỏa thuận của các bên là thành viên điều ước.
Thứ sáu,Việc cắt đứt quan hệ ngoại giao hay quan hệ lãnh sự giữa các nước
thành viên của điều ước quốc tế không làm ảnh hưởng đến các quan hệ pháp lý
phát sinh giữa các quốc gia này, trừ trường hợp các quan hệ ngoại giao hoặc lãnh
sự này là cần thiết cho việc thực hiện điều ước (Điều 63 Công ước Viên 1969).
Nguyên tắc Pacta sunt servanda hay còn nguyên tắc tận tâm, thiện chí thực
hiện cam kết quốc tế là một trong những nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế, các
quốc gia là chủ thể của luật quốc tế đều phải tuân theo nguyên tắc này. Tuy nhiên,
trong một số trường hợp chịu sự tác động khác nhau của các yếu tố khách quan và

chủ quan ảnh hưởng đến hiệu lực của điều ước thì nguyên tắc này cũng cho phép
các quốc gia có thể không phải thực hiện điều ước quốc tế mà mình là thành viên.


Thứ nhất, các quốc gia không phải thực hiện điều ước quốc tế nếu trong quá
trình ký kết các bên có sự vi phạm pháp luật quốc gia về thẩm quyền và thủ tục ký
kết.
VD: Theo pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế chỉ được ký với 2 danh nghĩa nhà
nước và chính phủ. Nếu điều ước nào được ký với danh nghĩa của các bộ, ngành…
không được coi là một điều ước quốc tế (chẳng hạn như: các thỏa thuận hợp tác
đào tạo sinh viên giữa trường Đại học Kiểm Sát Hà Nội với Đại học Luật Budapest
của Hungary không phải điều ước quốc tế…).
Thứ hai, khi điều ước quốc tế có nội dung trái với Hiến chương Liên hợp
quốc, trái với các nguyên tắc và quy phạm được thừa nhận rộng rãi của luật quốc tế
( VD: 2 quốc gia ký kết một điều ước quốc tế có nội dung thiết lập chính sách
nhằm phân biệt đối xử với phụ nữ da màu...)
Thứ ba, khi có sự vi phạm nghiêm trọng của một bên cam kết thì bên còn lại
có quyền từ chối thực hiện, vì nghĩa vụ theo điều ước quốc tế chỉ có thể được thực
hiện trên cơ sở có đi có lại nhằm đảm bảo sự bình đẳng về quyền lợi giữa các bên
kí kết.
Thứ tư, khi xuất hiện điều khoản Rebus-sic-stantibus (điều khoản về sự thay
đổi cơ bản của hoàn cảnh) dẫn đến các bên không thể tiếp tục thực hiện được điều
ước quốc tế (Điều 62 Công ước Viên 1969).
Thứ năm, hoàn cảnh bị thay đổi được ghi nhận trong điều 62 Công ước Viên
1969 phải là cơ sở chủ yếu tạo nên sự thỏa thuận của các bên; hoàn cảnh này các
bên không thể thấy trước (dự liệu trước) vào thời điểm ký kết điều ước quốc tế.
III.

Thực tiễn áp dụng


Trong thời đại hiện nay, nhìn chung hầu hết các hành vi của các quốc gia trên phạm
vi quốc tế trong mọi lĩnh vực của đời sống quốc tế và cả một số hành vi của các
quốc gia trong phạm vi lãnh thổ của mình, trong một chừng mực nhất định, đều đã


tuân theo các quy định của luật quốc tế hay được thực hiện trên cơ sở của những
nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế.
Nổi bật có thể kể ra một số vụ việc như sau:
- Ứng xử của Việt Nam trong vụ việc “Trung Quốc có những hành vi trái với
pháp luật quốc tế trên phạm vi vùng biển của Việt Nam” đã tuân thủ một
cách tuyệt đối nguyên tắc hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế. Việt
Nam không dùng bất kỳ một biện pháp vũ lực để đe dọa trái với pháp luật
quốc tế nào, mặt khác đã mở các cuộc hội đàm hay đàm phán với phía Trung
Quốc, bên cạnh đó cũng nhờ dư luận quốc tế tác động. Ngoài ra thì Việt
Nam cũng khẳng định rằng: “Đảng, Nhà nước luôn quyết tâm đấu tranh
bằng biện pháp hòa bình để giữ vững toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền lãnh hải;
quyết tâm bảo vệ quyền lợi, an toàn tính mạng, tài sản cho ngư dân.”
- Nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác cũng được các nước áp dụng
rộng rãi, các hiệp định, điều ước song phương cũng như điều ước đa phương
ngày càng được các quốc gia quan tâm và ký kết nhiều hơn như: Hiệp Ước
Paris về bảo vệ môi trường, Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương
(TPP), ...
- Việc thực nguyên tắc tận tâm , thiện chí thực hiện cam kết với các nước trên
thế giới điển hình là vụ việc “Nga cắt đứt quan hệ lãnh sự với Mỹ vì cho
rằng các thành viên lãnh sự Mỹ hoạt động gián điệp trên lãnh thổ Nga. Tuy
nhiên, điều này không ảnh hưởng đến quan hệ pháp lý phát sinh giữa Nga và
Mỹ trong việc thực hiện điều ước quốc tế được quy định tại Hiến chương
Liên hợp quốc.”



Tuy nhiên, bên cạnh một số hành vi kể trên ra, thì trên thế giới vẫn còn các trường
hợp mà chủ thể của luật quốc tế không tuân theo các nguyên tắc cơ bản của luật
quốc tế như:
- Trường hợp Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 vào
vùng biển của Việt Nam là vi phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền, quyền
tài phán đối vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Hành
động này đi ngược lại luật pháp và thông lệ quốc tế, vi phạm nguyên tắc cơ
bản của luật quốc tế là bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia, vi phạm
Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, vi phạm Tuyên bố về
ứng xử của các bên ở Biển Đông. Việt Nam có đầy đủ căn cứ pháp lý và lịch
sử khẳng định chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt
Nam.
- Triều tiên liên tục có các vụ thử tên lửa, tên lửa mang đầu đạn hạt nhân,... và
có những phát biểu đe dọa Nhật Bản, Hành vi này đã vi phạm nghiên trọng
nguyên tắc cấm đe dọa dùng vũ lực hay dùng vũ lực.
Trên đây là tình hình thực tiễn của việc tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của luật
quốc tế, tuy nhiên trong khuôn khổ bài viết vẫn chưa thể liệt kê một cách đầy đủ
nhất vấn đề này. Nhưng nhìn chung các chủ thể của luật quốc tế đã tuân thủ những
nguyên tắc cơ bản, việc này có ý nghĩa to lớn cho sự phát triển của thế giới theo
chiều hướng văn minh, tiến bộ hơn.

IV.

Kết luận

Những nguyên tăc cơ bản của luật quốc tế là một phần không thể thiếu trong luật
quốc tế bên cạnh những nguyên tắc pháp luật chung và nguyên tắc chuyên ngành.


Theo đó, các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế là thước đo giá trị hợp pháp của

mọi nguyên tắc, mọi quy phạm pháp luật của luật quốc tế, là căn cứ pháp lý để giải
quyết các tranh chấp quốc tế, ngoài ra đó còn là công cụ pháp lý để bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của các chủ thể luật quốc tế. Vì vậy việc tuân thủ những
nguyên tắc cơ bản này góp một phần không nhỏ cho sự phát triển của lịch sử nhân
loại theo hướng đến hoà bình, công lý, tự do và hạnh phúc cho con người.


Tài liệu tham khảo
1.
2.
3.

Giáo trình luật so sánh trường đại học Kiểm sát Hà Nội, năm 2015
Giáo trình luật so sánh trường đại học Luật Hà Nội, năm 2014
Bài viết “Các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế” tại địa chỉ:
/>
4.

luat-quoc-te/
Bài viết “Chương hai các nguyên tắc cơ bản” tại địa chỉ:

5.

/>Bài viết “Các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế và ngoại lệ” tại địa chỉ:
/>


×