Tải bản đầy đủ (.docx) (73 trang)

Vấn đề xóa đói, giảm nghèo ở huyện Mường Khương tỉnh Lào Cai hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (490.35 KB, 73 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
**************
VƢƠNG THỊ BÍCH NGUYỆT

VẤN ĐỀ XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO Ở
HUYỆN MƢỜNG KHƢƠNG TỈNH LÀO
CAI
HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Kinh tế chính trị

Ngƣời hƣớng dẫn khoa
học Th.sĩ: Hoàng Thanh
Sơn
HÀ NỘI – 2012



LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy giáo, cô giáo trong khoa
Giáo dục chính trị trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2 đã dạy dỗ, chỉ bảo và
truyền đạt kiến thức cho em trong suốt thời gian học tập tại trƣờng cũng nhƣ
trong quá trình thực hiện khóa luận tốt nghiệp.
Đặc biệt em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Hoàng Thanh Sơn đã tận
tình hƣớng dẫn, giúp đỡ em trong trong quá trình làm khóa luận này.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè và những ngƣời thân
đã tạo điều kiện, giúp đỡ em hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 05 năm 2012


Sinh viên
Vƣơng Thị Bích
Nguyệt


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những nội dung mà tôi đã trình bày trong Khóa luận
tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi với sự hƣớng dẫn của Th.s
Hoàng Thanh Sơn.
Hà Nội, tháng 05 năm 2012
Sinh viên
Vƣơng Thị Bích
Nguyệt


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.........................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài...............................................................................1
2. Mục tiêu nghiên cứu.................................................................................... 4
3. Nhiệm vụ nghiên cứu.................................................................................. 4
4. Phạm vi nghiên cứu.....................................................................................5
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu..................................................5
6. Kết cấu của đề tài........................................................................................ 5
Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận về đói nghèo và xóa đói giảm
nghèo ở Việt Nam...........................................................................................6
1.1. Quan niệm về đói nghèo và tiêu chí xác định chuẩn nghèo.....................6
1.1.1. Quan niệm về đói nghèo........................................................................6
1.1.2. Tiêu chí xác định chuẩn nghèo..............................................................8
1.2. Lý luận về xóa đói giảm nghèo................................................................ 12
1.2.1. Quan điểm chủ yếu về chính sách xóa đói giảm nghèo của Đảng

và Nhà nƣớc ta................................................................................................12
1.2.2. Một số chƣơng trình, chính sách hỗ trợ của Nhà nƣớc và các tổ
chức xã hội, quốc tế liên quan đến xóa đói giảm nghèo..................................20
1.2.3. Quan điểm và chƣơng trình xóa đói giảm nghèo của huyện Mƣờng
Khƣơng – tỉnh Lào Cai................................................................................... 23
1.3. Những nguyên nhân dẫn đến đói nghèo................................................... 25
Chƣơng 2: Thực trạng và giải pháp nhằm xóa đói giảm ngèo ở
huyện Mƣờng Khƣơng.................................................................................28
2.1. Vài nét về huyện Mƣờng Khƣơng...........................................................28
2.1.1. Điều kiện tự nhiên................................................................................. 28
2.1.2. Tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội.........................................................30


2.2. Thực trạng đói nghèo ở huyện Mƣờng Khƣơng......................................32
2.2.1. Thời kỳ đầu chuyển trung tâm huyện lỵ (1991 - 1995).........................32
2.2.2. Thời kỳ 1995 - 2005.............................................................................. 35
2.2.3. Thời kỳ 2005 - 2009 (sau 4 năm thực hiện tiêu chí mới)...................... 47
2.2.4. Từ 2009 đến nay....................................................................................49
2.2.5. Những khó khăn, thách thức..................................................................58
2.3. Những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả công tác xóa đói
giảm nghèo ở huyện Mƣờng Khƣơng trong thời gian tới...............................59
KẾT LUẬN.................................................................................................... 63
Tài liệu tham khảo........................................................................................... 65


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đói nghèo là vấn đề toàn cầu, đã và đang diễn ra trên khắp các châu lục
với những mức độ khác nhau và trở thành một thách thức lớn đối với sự phát
triển của từng khu vực, từng quốc gia, dân tộc, từng địa phƣơng. Sự nghèo đói

và gia tăng giàu nghèo đã trở thành một trong những nguyên nhân gây nên
những bất ổn xã hội ở nhiều quốc gia trên thế giới.
Chúng ta biết rằng, đói nghèo không chỉ là vấn đề kinh tế đơn thuần,
mà còn là vấn đề chính trị, xã hội và là một trong những nội dung cơ bản
trong phát triển kinh tế bền vững ở mỗi địa phƣơng, mỗi quốc gia và trên toàn
thế giới. Giải quyết tình trạng đói nghèo là một trong những vấn đề xã hội vừa
cơ bản lâu dài, vừa là nhiệm vụ cấp bách, nhằm bảo đảm phát triển kinh tế và
tiến bộ, công bằng xã hội. Vì vậy trong những năm qua Đảng và Nhà nƣớc ta
có rất nhiều chủ trƣơng về xóa đói, giảm nghèo. Tại Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ X, một lần nữa Đảng ta khẳng định: “Nhà nƣớc tập trung đầu tƣ xây
dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội và trợ giúp về điều kiện sản xuất, nâng
cao kiến thức để ngƣời nghèo, vùng nghèo tự vƣơn lên thoát nghèo và cải
thiện mức sống một cách bền vững” [8]. Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP ngày
27 tháng 12 năm 2008 của chính phủ tiếp tục khẳng định “ Xóa đói giảm
nghèo là chủ trƣơng lớn của Đảng và Nhà nƣớc ta nhằm cải thiện đời sống
vật chất và tinh thần cho ngƣời nghèo, thu hẹp khoảng cách về trình độ phát
triển giữa các vùng, địa bàn và giữa các dân tộc, nhóm dân cƣ” [4].
Sau 20 năm đổi mới, nền kinh tế nƣớc ta từng bƣớc khởi sắc và đạt
đƣợc nhiều thành tựu to lớn, đời sống nhân dân đã đƣợc cải thiện và nâng cao
một bƣớc rõ rệt. Tuy nhiên, cùng với xu thế phát triển đi lên của xã hội, bên
cạnh một bộ phận dân cƣ giàu lên, vẫn còn một bộ phận không nhỏ rơi vào
7


cảnh đói, nghèo với khoảng cách ngày càng xa. Tỷ lệ đói nghèo ở Việt Nam
còn rất cao, theo chuẩn nghèo mới đƣợc chính phủ ban hành trong quyết định
số 170/2005/QĐ-TTg ngày 08/07/2005, cả nƣớc có khoảng 3,9 triệu hộ
nghèo, chiếm 22% số hộ toàn quốc. Vùng có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất là vùng
Tây bắc (42%), Tây Nguyên (38%), thấp nhất là vùng Đông Nam Bộ (9%)
[10]. Thành tựu xóa đói giảm nghèo trong những năm qua đã góp phần tăng

trƣởng kinh tế bền vững và thực hiện công bằng xã hội, đƣợc cộng đồng
Quốc tế đánh giá cao. Tuy nhiên, kết quả giảm nghèo chƣa đƣợc vững chắc,
chênh lệch giàu nghèo giữa các vùng, nhóm dân cƣ chƣa đƣợc thu hẹp, đặc
biệt là ở những huyện có tỷ lệ hộ nghèo cao. Hiện nay nƣớc ta còn 62 huyện
thuộc 20 tỉnh có số hộ nghèo trên 50% [4]. Đây là vấn đề thách thức đối
với sự phát triển và trở thành mối quan tâm chung của toàn xã hội.
Lào Cai là tỉnh vùng cao, biên giới, nhiều dân tộc anh em sinh sống,
đƣợc tái lập từ năm 1991. Nhận thức rõ vai trò, ý nghĩa tầm quan trọng của
công tác xoá đói giảm nghèo, Đảng bộ, chính quyền tỉnh Lào Cai đã đề ra các
chủ trƣơng, chính sách xóa đói giảm nghèo và tổ chức thực hiện phù hợp với
điều kiện thực tế của địa phƣơng, nhờ đó đời sống của nhân dân không ngừng
đƣợc cải thiện, tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh từ gần 43,01% năm 2005 xuống
còn 23,43% năm 2008, nhân dân các dân tộc tin tƣởng vào sự lãnh đạo của
Đảng bộ, chính quyền địa phƣơng, góp phần quan trọng giữ vững và củng cố
quốc phòng, an ninh trên địa bàn [20]. Tuy vậy, so với cả nƣớc Lào Cai vẫn là
một tỉnh nghèo, điều kiện kinh tế xã hội còn nhiều thấp kém, công tác xóa đói
giảm nghèo tuy đạt nhiều thành tựu quan trọng nhƣng kết quả giảm nghèo
chƣa bền vững, đời sống của nhân dân vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn,
một bộ phận chƣa đạt mức sống tối thiểu, tỷ lệ hộ nghèo theo tiêu chí mới còn
cao so với khu vực và cả nƣớc (23,43% vào cuối năm 2008).


Trong những năm qua, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc
huyện Mƣờng Khƣơng đã có nhiều hoạt động thúc đẩy kinh tế phát triển xóa
đói giảm nghèo. Tốc độ tăng trƣởng kinh tế trung bình từ năm 2010 đến nay
là trên 10,0%, thu nhập bình quân đầu ngƣời là 6.000.000đ/ngƣời/năm. Trong
lĩnh vực sản xuất nông lâm nghiệp đã hình thành khá rõ rệt, dựa trên hƣớng
phát triển hàng hóa. Huyện mạnh dạn đầu tƣ cho nhân dân sản xuất từng vùng
chuyên canh, năm 2011 đã có 730 ha chuyên trồng dứa trái vụ, 906 ha trồng
chè, 95% diện tích trồng ngô bằng các giống mới, 700 ha trồng lúa đặc sản

Séng Cù. Những năm gần đây đã khởi động trồng thuốc lá là cây trồng có giá
trị thu nhập cao (800 ha vào năm 2011). Đồng thời huyện còn chỉ đạo các xã
vùng cao có khí hậu mát mẻ, chuyên canh trồng và sản xuất tƣơng ớt, một đặc
sản nổi tiếng đã đăng ký bản quyền cho sản phẩm nông nghiệp huyện Mƣờng
Khƣơng. Tuy nhiên việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nội bộ ngành nông,
lâm nghiệp còn chậm, chƣa cân đối, chỉ chú trọng vào trồng trọt, còn chăn
nuôi ít đƣợc quan tâm. Trong lĩnh vực công nghiệp, xây dựng huyện chủ yếu
tập trung vào công nghiệp khai thác khoáng sản, công nghiệp chế biến nông
sản và xây dựng kết cấu hạ tầng cho các xã 135. Đến nay toàn huyện có 16/16
xã đƣợc sử dụng điện lƣới quốc gia; 10 xã có điểm bƣu điện văn hóa xã;
16/16 xã có điện thoại với trên 1.500 máy; 16/16 xã có đƣờng ô tô đến trung
tâm xã (14/16 xã đã có đƣờng rải nhựa). Đối với các hoạt động dịch vụ thƣơng mại tuy đã có nhiều thay đổi song so với yêu cầu thực tiễn thì chƣa
đáp ứng đƣợc. Mƣờng Khƣơng vẫn là huyện nghèo thứ hai (sau huyện Si Ma
Cai) của tỉnh, là một trong 62 huyện nghèo của cả nƣớc theo nghị quyết 30a
của Chính phủ. Theo kết quả điều tra (chuẩn nghèo đói giai đoạn 2011 2015), đến tháng 11 năm 2011 Mƣờng khƣơng có 6320 hộ nghèo, chiếm
55,52% tổng số hộ trong toàn huyện. Những hộ nghèo này chủ yếu là các hộ
đồng bào dân tộc, tập trung ở các xã vùng cao, biên giới. Đặc biệt, 4 xã biên


giới Pha Long, Tả Gia Khâu, Tả Ngài Chồ, Dìn Chin và 3 xã vùng Cao Sơn,
Tả Thàng, La Pan Tẩn tỷ lệ hộ nghèo chung trên địa bàn là trên 70%, cao hơn
tỷ lệ nghèo chung của toàn huyện.
Do đó việc đẩy mạnh việc thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo đang
là vấn đề cấp bách đặt ra đối với huyện Mƣờng Khƣơng đòi hỏi phải có sự
nhìn nhận phân tích, đánh giá một cách khách quan, khoa học và đúng đắn về
những thành tựu đã đạt đƣợc, những hạn chế trong việc tổ chức thực hiện
công tác xóa đói giảm nghèo trong thời gian qua để từ đó đề ra những chủ
trƣơng, giải pháp và cách thức tổ chức, quản lý cho thời gian tới.
Với đề tài “Vấn đề xóa đói, giảm nghèo ở huyện Mƣờng Khƣơng,
tỉnh Lào Cai hiện nay” em mong muốn sẽ góp phần vào nghiên cứu những

vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác xóa đói giảm nghèo để công cuộc xóa
đói giảm nghèo trên địa bàn huyện Mƣờng Khƣơng thu đƣợc những kết quả
nhất định.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở nhận thức lý luận và thực tiễn về nghèo đói và xóa đói giảm
nghèo, mục đích nghiên cứu của luận văn là:
- Đánh giá thực trạng nghèo đói, kết quả xóa đói giảm nghèo và nguyên nhân
nghèo đói ở huyện biên giới Mƣờng Khƣơng từ năm 1991 đến nay.
- Đề xuất những giải pháp chủ yếu và phù hợp với điều kiện, đặc điểm kinh tế
- xã hội của địa phƣơng, nhằm đẩy mạnh công tác xóa đói giảm nghèo ở
huyện Mƣờng Khƣơng tỉnh Lào Cai đến năm 2010 – 2015 và các năm tiếp
theo.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn về nghèo đói và xóa đói
giảm nghèo.


- Phân tích thực trạng nghèo đói, nguyên nhân nghèo đói, đánh giá những
kết quả công tác xóa đói giảm nghèo ở huyện Mƣờng Khƣơng, tỉnh Lào
Cai những năm qua.
- Đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm nhằm đẩy nhanh việc thực hiện xóa
đói, giảm nghèo ở các xã thuộc huyện Mƣờng Khƣơng, tỉnh Lào Cai.
4. Phạm vi và giới hạn nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu: Chú trọng phân tích, đánh giá đặc điểm kinh tế - xã hội
và tình hình đói nghèo ở huyện Mƣờng Khƣơng, tỉnh Lào Cai.
- Giới hạn nghiên cứu: Đánh giá phân tích thực trạng nghèo đói và công
tác xóa đói giảm nghèo từ năm 1991 – 2011 cho phù hợp với chiến lƣợc phát
triển kinh tế - xã hội của huyện.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Để xem xét vấn đề nghèo đói và xóa đói giảm nghèo một cách khách quan,

sát thực tiễn, đề tài dựa trên cơ sở lý luận và phƣơng pháp luận duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử và các quan điểm đƣờng lối, chính sách của Đảng và
Nhà nƣớc.
- Ngoài ra, đề tài sử dụng nhiều phƣơng pháp nghiên cứu so sánh, phân tích,
tổng hợp số liệu báo cáo, kết hợp giữa nguyên lý của kinh tế chính trị học
với đánh giá thực tiễn, kế thừa những kết quả nghiên cứu từ các dự án có liên
quan để giải quyết nhiệm vụ của đề tài.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung đề tài gồm 2 chƣơng, 6 tiết.


CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐÓI NGHÈO VÀ XÓA ĐÓI
GIẢM NGHÈO Ở VIỆT NAM
1.1. Quan niệm về đói nghèo và tiêu chí xác định chuẩn đói nghèo
1.1.1. Quan niệm về đói nghèo
Hiện nay đói nghèo không còn là vấn đề riêng của từng quốc gia, mà là
vấn đề có tính toàn cầu, bởi lẽ tất cả các quốc gia trên thế giới, kể cả những
nƣớc giàu nhất về kinh tế nhƣ Mỹ, Đức, Nhật… ngƣời nghèo vẫn còn và có
lẽ khó có thể hết ngƣời nghèo khi trong xã hội chƣa thể chấm dứt những rủi
ro về kinh tế - xã hội, môi trƣờng và sự bất bình đẳng trong phân phối và của
cải làm ra. Rủi ro quá nhiều trong sản xuất và đời sống làm cho một bộ phận
dân cƣ rơi vào tình trạng tổn thƣơng về thể xác, tài chính, những điều kiện cơ
bản của cuộc sống và kết quả trở thành nghèo.
Chúng ta thƣờng thấy nhiều khái niệm về nghèo nhƣ: nghèo đói, nghèo
khổ, giàu nghèo, phân hóa giàu nghèo hay khoảng cách giàu nghèo, những
khái niệm này đƣợc các học giả, các nhà khoa học định nghĩa dƣới nhiều góc
độ, khía cạnh khác nhau nhƣ nghèo về vật chất, nghèo về tri thức, nghèo về
văn hóa… Mặt khác, bên cạnh khái niệm nghèo, còn sử dụng khái niệm đói

để phân biệt mức độ rất nghèo của một bộ phận dân cƣ. Chính vì vậy hiện nay
chúng ta thƣờng thấy khái niệm kép: đói nghèo hoặc nghèo đói.
Đói nghèo là một khái niệm rộng, luôn thay đổi theo không gian và thời
gian. Đến nay nhiều nhà nghiên cứu và các tổ chức quốc tế đã đƣa ra nhiều
khái niệm khác nhau, trong đó có khái niệm khái quát hơn cả đƣợc nêu ra tại
Hội nghị bàn về xóa đói giảm nghèo ở khu vực Châu Á Thái Bình Dƣơng do
ESCAP tổ chức tại Băng cốc (Thái Lan) tháng 09/1993, các quốc gia trong
khu vực đã thống nhất cho rằng đói nghèo là tình trạng của một bộ phận dân


cƣ không đƣợc hƣởng và thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con ngƣời đã
đƣợc xã hội thừa nhận, tùy theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và phong tục
tập quán của từng địa phƣơng. Đây là khái niệm khá đầy đủ về đói nghèo,
đƣợc nhiều nƣớc trên thế giới sử dụng, trong đó có Việt Nam.
Để đánh giá đúng mức độ nghèo, ngƣời ta chia nghèo thành hai loại:
Nghèo tuyệt đối và nghèo tƣơng đối.
Nghèo tuyệt đối: Là tình trạng một bộ phận dân cƣ không đƣợc hƣởng
và thỏa mãn những nhu cầu cơ bản, tối thiểu để duy trì cuộc sống (nhu cầu về
ăn, mặc, nhà ở, chăm sóc y tế, giáo dục…).
Nghèo tương đối: Là tình trạng một bộ phận dân cƣ có mức sống dƣới
mức trung bình của cộng đồng tại địa phƣơng, ở một thời kỳ nhất định.
Những quan niệm về đói nghèo nêu trên, phản ánh ba khía cạnh chủ
yếu của ngƣời nghèo là: không đƣợc thụ hƣởng những nhu cầu cơ bản ở mức
tối thiểu dành cho con ngƣời; có mức sống thấp hơn mức sống cộng đồng,
thiếu cơ hội lựa chọn tham gia vào quá trình phát triển của cộng đồng.
Dựa vào những khía niệm chung do các tổ chức quốc tế đƣa ra và căn
cứ vào thực trạng kinh tế - xã hội ở Việt Nam, trong chiến lƣợc toàn diện về
tăng trƣởng và xóa đói giảm nghèo đến năm 2005 và 2010, Việt Nam thừa
nhận định nghĩa chung về đói nghèo do hội nghị chống đói nghèo khu vực
Châu Á - Thái Bình Dƣơng đƣợc ESCAP tổ chức tại Băng Cốc (Thái Lan)

tháng 09/1993. Đồng thời vấn đề đói nghèo ở Việt Nam còn đƣợc nghiên cứu
ở cấp độ khác nhau nhƣ cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng nên bên cạnh khái
niệm nghèo đói, ở nƣớc ta còn một số khái niệm sau:
Đói: Là tình trạng của một bộ phận dân cƣ nghèo có mức sống dƣới
mức tối thiểu và thu nhập không đủ đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy trì
cuộc sống. Đó là những hộ dân cƣ hàng năm thiếu ăn, đứt bữa từ một đến hai
tháng, thƣờng vay mƣợn của cộng đồng và thiếu khả năng chi trả cộng đồng.


Hộ đói: Là hộ cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, con cái không đƣợc
học hành đầy đủ, ốm đau không có tiền chữa bệnh, ở nhà tạm bợ, rách nát…
Hộ nghèo: Là hộ đói ăn không đứt bữa, mặc không đủ lành, không đủ
ấm, không có khả năng phát triển sản xuất.
Xã nghèo: Là xã có tỷ lệ hộ nghèo cao, không có hoặc có rất thiếu
những cơ sở hạ tầng thiết yếu nhƣ điện, đƣờng, trƣờng, trạm, nƣớc sạch…
Trình độ dân trí thấp, tỷ lệ mù chữ cao.
Vùng nghèo: Là địa bàn tƣơng đối rộng nằm ở những khu vực khó
khăn, hiểm trở, giao thông không thuận tiện, có tỷ lệ xã nghèo, hộ nghèo cao.
Nhƣ vậy, đói nghèo là tình trạng bị thiếu thốn ở nhiều phƣơng diện
nhƣ: Thu nhập hạn chế hoặc thiếu cơ hội tạo thu nhập, thiếu tài sản để đảm
bảo tiêu dùng những lúc khó khăn và dễ bị tổn thƣơng trƣớc những đột biến,
ít đƣợc tham gia vào quá trình ra quyết định… Qua nghiên cứu, chúng ta nhận
thấy đói nghèo có nguồn gốc căn nguyên từ kinh tế, nhƣng với tƣ cách là hiện
tƣợng tồn tại phổ biến ở các quốc gia trong tiến trình phát triển, đói nghèo
thực chất là hiện tƣợng kinh tế - xã hội phức tạp, chứ không thuần túy là vấn
đề kinh tế, cho dù các tiêu chí đánh giá của nó trƣớc hết và chủ yếu dựa trên
các tiêu chí về kinh tế. Vì vậy, khi nghiên cứu những tác động ảnh hƣởng đến
thực trạng, xu hƣớng, cách thức giải quyết vấn đề đói nghèo cần phải đánh giá
những tác động của nhân tố chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng có
nhƣ vậy mới đề ra đƣợc các giải pháp đồng bộ cho công tác xóa đói giảm

nghèo ở nƣớc ta, đặc biệt là ở vùng miền núi, biên giới, vùng đồng bào dân
tộc ít ngƣời.
1.1.2. Tiêu chí xác định chuẩn đói nghèo
Để đánh giá đƣợc mức độ đói nghèo, cần phải đƣa ra các tiêu chí xác
định mức độ đói nghèo. Tuy nhiên, những tiêu chí xác định không cố định mà


luôn có sự biến động và khác nhau không những giữa các nƣớc và ngay trong
cùng một nƣớc và cũng khác nhau qua những giai đoạn lịch sử.
Ngân hàng thế giới (WB) đƣa ra các chỉ tiêu đánh giá mức độ giàu
nghèo của các quốc gia dựa vào mức thu nhập quốc dân bình quân tính theo
đầu ngƣời trong một năm và mức ki lô calo tối thiểu cần thiết cho một ngƣời
sống trong ngày với hai cách tính.
- Phƣơng pháp Atlas là tính theo tỷ giá hối đoái và tính theo USD. Theo
phƣơng pháp này, ngƣời ta chia thành 6 loại nƣớc (lấy mức thu nhập bình
quân năm 1990):
Trên 25.000 USD/ngƣời/năm: Nƣớc cực giàu
Từ 20.000 USD đến dƣới 25.000 USD/ngƣời/năm: Nƣớc giàu
Từ 10.000 đến dƣới 10.000 USD/ngƣời/năm: Khá giàu
Từ 2.500 đến dƣới 10.000 USD/ngƣời/năm: Nƣớc trung bình
Từ 500 đến 2.500 USD/ngƣời/năm: Nƣớc nghèo
Dƣới 500 USD/ngƣời/năm: Nƣớc cực nghèo
- Phƣơng pháp tính theo sức mua tối thiểu của một ngƣời khoảng 1
USD: Tổ chức Liên Hiệp Quốc dùng cách tính dựa trên cơ sở phân phối thu
nhập theo đầu ngƣời hoặc theo nhóm dân cƣ. Thƣớc đo này tính phân phối
thu nhập cho đến nguồn mang lại thu nhập hay môi trƣờng sống của dân cƣ
mà chia đều cho mọi thành phần dân cƣ.
Phƣơng pháp tính: Đem chia dân số của một nƣớc, một châu lục hoặc
toàn cầu ra làm 5 nhóm (ngũ phân vị), mỗi nhóm có 20% dân số, bao gồm: rất
giàu, giàu, trung bình, nghèo và rất nghèo. Theo cách tính này, vào những

năm 1990 thì 20% dân số giàu nhất chiếm 82,7% thu nhập toàn thế giới, trong
khi 20% dân số nghèo nhất chỉ chiếm 1,4%. Nhƣ vậy, nhóm giàu nhất có thu
nhập gấp 59 lần nhóm nghèo nhất.


Mặc dù thu nhập bình quân là căn cứ quan trọng, song không thể coi đó
là tiêu chí duy nhất để đánh giá mức độ giàu nghèo của một quốc gia. Nghèo
đói còn chịu tác động của nhiều yếu tố khác nhƣ yếu tố chính trị, xã hội.
Có thể nhận thấy, trên thế giới có nhiều tiêu chí xác định chuẩn nghèo
đói, nhƣng tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu nên lựa chọn chuẩn nào cho
phù hợp với yêu cầu.
Trong những năm qua, tại Việt Nam 2 loại tiêu chí đƣợc sử dụng để
xác định chuẩn nghèo. Một là, chuẩn nghèo do Bộ lao động - Thƣơng binh và
xã hội đƣa ra để áp dụng trong công tác xóa đói giảm nghèo, theo tiêu chí thu
nhập bình quân đầu ngƣời. Hai là, chuẩn nghèo do Tổng cục thống kê và WB
đƣa ra để đánh giá đói nghèo trên giác độ vĩ mô, dựa theo mức chi tiêu thông
qua các cuộc điều tra mức sống dân cƣ.
*Phƣơng pháp xác định chuẩn nghèo đói theo tiêu chuẩn quốc gia
Bộ Lao động - Thƣơng binh và xã hội, cơ quan thƣờng trực của
chƣơng trình xóa đói giảm nghèo đã 6 lần công bố chuẩn nghèo đói cho
từng giai đoạn khác nhau:
Giai đoạn 1993 - 1995, với yêu cấp bách về chỉ đạo xóa đói giảm
nghèo, bộ Lao động – Thƣơng binh và xã hội đã đƣa ra chuẩn đói nghèo của
nƣớc ta nhƣ sau:
- Hộ đói ở khu vực nông thôn có mức thu nhập bình quân đầu ngƣời quy ra
gạo là dƣới 8kg/ngƣời/tháng;
- Hộ đói ở khu vực thành thị có mức thu nhập bình quân đầu ngƣời quy ra gạo
là dƣới 13kg/ngƣời/tháng;
- Hộ đói ở khu vực nông thôn có mức thu nhập bình quân đầu ngƣời quy ra
gạo là dƣới 15kg/ngƣời/tháng;

- Hộ đói ở khu vực nông thôn có mức thu nhập bình quân đầu ngƣời quy ra
gạo là dƣới 20kg/ngƣời/tháng.


Giai đoạn 1996 - 1997:
- Hộ đói nghèo là hộ có thu nhập bình quân đầu ngƣời quy ra gạo là dƣới
13kg/ngƣời/tháng cho mọi vùng;
- Hộ nghèo là hộ có thu nhập bình quân đầu ngƣời quy ra gạo là dƣới
20kg/ngƣời/tháng đối với khu vực thành thị, dƣới 20 kg đối với khu vực nông
thôn đồng bằng và dƣới 15kg đối với khu vực nông thôn, miền núi, hải đảo.
[3].
Giai đoạn 1998 - 2000: Theo thông báo số 1751/LĐ-TBXH ngày
20/05/1997 của Bộ LĐ-TB&XH đƣợc quy định nhƣ sau:
- Hộ đói tính cho mọi khu vực có mức thu nhập dƣới 13kg gạo tƣơng ứng
với 45.000 đồng/ngƣời/tháng;
- Hộ nghèo khu vực nông thôn miền núi, hải đảo có mức thu nhập dƣới 20kg,
tƣơng ứng với 70.000đ/ngƣời/tháng;
- Hộ nghèo khu vực thành thị có mức thu nhập dƣới 25kg gạo, tƣơng ứng
với 90.000đ/ngƣời/tháng. [3].
Theo tiêu chí này, đến hết năm 1997 cả nƣớc còn khoảng 2,65 triệu hộ
nghèo đói chiếm 17,7%; trong đó có 300.000 hộ thƣờng xuyên đói, 1.498 xã
có tỷ lệ nghèo đói từ 40% trở lên. Đến cuối năm 2000 tình trạng đói cơ bản
đƣợc giải quyết.
Giai đoạn 2001 - 2005: Theo quyết định số 1143/QĐ-LĐ-TB&XH
ngày 1/11/2000 của Bộ Lao động – Thƣơng binh và xã hội thì chuẩn hộ nghèo
đƣợc điều chỉnh theo chuẩn mức thu nhập bình quân 1 đầu ngƣời trong hộ
cho từng vùng nhƣ sau:
- Vùng nông thôn miền núi, hải đảo: 80.000 đồng/ngƣời/tháng;
- Vùng nông thôn đồng bằng: 100.000 đồng/ngƣời/tháng;
- Vùng thành thị: 150.000 đồng/ngƣời/tháng. [2].

Áp dụng chuẩn mới tỷ lệ hộ nghèo tăng lên, cuối năm 2001 có 14,5%
hộ nghèo, nhƣng với nhiều chủ trƣơng chính sách của Đảng và Nhà nƣớc


đƣợc đề ra kịp thời, cùng với sự nỗ lực của toàn dân, đến cuối năm 2005 tỷ lệ
hộ nghèo chỉ còn 7%.
Giai đoạn 2006 - 2010: Theo Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg ngày
08/07/2005 của Thủ tƣớng Chính phủ chuẩn nghèo giai đoạn này đƣợc nâng
lên cho phù hợp với mức sống đã đƣợc nâng lên của nhân dân, số hộ nghèo
theo tiêu chí cũ đã giảm đáng kể, đồng thời đƣa ra chuẩn đói nghèo mới để
gần với chuẩn đói nghèo của quốc tế.
- Vùng nông thôn, hải đảo: 200.000 đồng/ngƣời/tháng
- Vùng thành thị: 260.000 đồng/ngƣời/tháng. [6].
Với chuẩn nghèo này cả nƣớc còn 22% hộ nghèo, tập trung chủ yếu ở
các tỉnh miền núi biên giới, tây nguyên.
Giai đoạn 2011 - 2015: Mức chuẩn nghèo theo Quyết định số
09/2011/QĐ-TTg ngày 30/01/2011 của Thủ thƣớng Chính phủ chuẩn nghèo
giai đoạn này tiếp tục đƣợc nâng lên cho phù hợp với mức sống của nhân dân
đã đƣợc tăng lên đáng kể, đồng thời đƣa ra chuẩn đói nghèo mới để tiếp tục
gần với chuẩn nghèo của quốc tế.
- Vùng nông thôn: 400.000 đồng/ngƣời/tháng;
- Vùng thành thị: 500.000 đồng/ngƣời/tháng. [5].
Phƣơng pháp xác định đói nghèo theo chuẩn Quốc tế do Tổng cục
Thống kê và WB đƣa ra, đã đƣợc thực hiện trong các cuộc khảo sát mức sống
dân cƣ ở Việt Nam.
1.2. Lý luận về xóa đói giảm nghèo
1.2.1. Quan điểm chủ yếu về chính sách xóa đói giảm nghèo của Đảng và
Nhà nƣớc ta
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh
Khi nghiên cứu phân tích xã hội tƣ bản để chỉ ra những quy định vận

động và phát triển của nó, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đề cập một cách khá toàn


diện và sâu sắc tình cảnh nghèo đói và bị bóc lột đến cùng cực của giai cấp vô
sản và những ngƣời làm thuê trong chủ nghĩa tƣ bản. Trong các tác phẩm của
mình Mác và Ăngghen đã mô tả cặn kẽ, xác thực tình cảnh nghèo đói của
những ngƣời vô sản, bán sức lao động cho chủ tƣ bản để kiếm sống. Phụ nữ
và trẻ em phải làm việc đến kiệt sức trong các xƣởng thợ; nông dân bị cƣỡng
đoạt ruộng đất, mất hết tƣ liệu sản xuất... Họ trở thành nạn nhân của tình trạng
bị bóc lột giá trị thặng dƣ tƣơng đối và tuyệt đối của các chủ tƣ bản trong
thời kỳ tích lũy nguyên thủy và thời kỳ cạnh tranh tự do cho chủ nghĩa tƣ bản.
Tiếp tục những nghiên cứu phân tích về chủ nghĩa tƣ bản của Mác và
Ăngghen, Lênin đã phân tích những mâu thuẫn về kinh tế xã hội trong thời kỳ
chủ nghĩa tƣ bản độc quyền, lũng đoạn cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. Lênin
cho rằng muốn giải phóng toàn bộ giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức
khỏi ách thống trị của chủ nghĩa tƣ bản phải tiến hành cách mạng vô sản do
Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo.
Trong quá trình đi tìm đƣờng cứu nƣớc, cứu dân, Hồ Chí Minh đã tiếp
thu đƣợc những tinh hoa của chủ nghĩa Mác - Lênin và vận dụng sáng tạo vào
điều kiện cụ thể của nƣớc ta. Ngƣời chủ trƣơng làm cách mạng để giành độc
lập tự do cho tổ quốc; để “đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng
đƣợc học hành” [11, tr.31]. Ngay từ khi nƣớc ta mới giành đƣợc độc lập
(1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan tâm ngay đến nhiệm vụ chống đói
nghèo. Ngƣời coi đói và dốt cũng là giặc, thứ giặc này nguy hiểm cũng không
kém giặc ngoại xâm, giành đƣợc độc lập rồi mà nhân dân sống trong cảnh
nghèo nàn, lạc hậu thì độc lập cũng không có nghĩa lý gì. Vì vậy, trong phiên
họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Ngƣời đã nêu 6 vấn đề cấp bách của
Chính phủ, trong đó việc cấp bách hàng đầu là cứu dân khỏi chết đói. Ngƣời
kêu gọi toàn dân ra sức tăng gia sản xuất thực hành tiết kiệm, quyên góp gạo
để cứu đói, và Ngƣời gƣơng mẫu thực hiện. Ngƣời nói “Tôi xin đề nghị với



đồng bào cả nƣớc và tôi xin thực hành trƣớc. Cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa,
mỗi tháng nhịn ăn 3 bữa, đem gạo đó để cứu dân nghèo” [11, tr.161 - 162].
Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền bắc nƣớc ta, Hồ
Chí Minh quan niệm rằng chủ nghĩa xã hội là xa lạ với nghèo đói, bần cùng
và lạc hậu. Theo Ngƣời, chủ nghĩa xã hội phải chứng minh đƣợc bản chất ƣu
việt của mình ở chỗ đem lại ngày càng nhiều, ngày càng tốt hơn những lợi ích
thiết thân hàng ngày cho nhân dân nhƣ ăn no, mặc ấm, có nhà ở, đƣợc học
hành... Ngƣời đã từng căn dặn: Chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết
sức chăm lo đến đời sống nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi;
nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi và dân đủ ăn, đủ mặc là Đảng và
Chính phủ dễ dàng thực hiện. Nếu dân đói, rét, dốt, bệnh thì chính sách của ta
dù có hay đến mấy thì cũng không thực hiện đƣợc. Đồng thời Ngƣời còn chủ
trƣơng “Làm cho ngƣời nghèo thì đủ ăn, ngƣời đủ ăn thì khá giàu, ngƣời
giàu thì giàu thêm” [12, tr.65]. Theo Ngƣời xóa đói phải tiến tới giảm
nghèo và tăng giàu, đói nghèo là một cửa ải cần vƣợt qua, phải tiến tới giàu
có, vì “Dân có giàu thì nƣớc mới mạnh”. Những tƣ tƣởng này của Hồ Chí
Minh đã đƣợc Đảng ta quán triệt trong suốt quá trình xây dựng chủ nghĩa
xã hội, nhất là trong thời kỳ thực hiện công cuộc đổi mới đất nƣớc.
Trong 80 năm qua, Đảng ta luôn xác định chủ nghĩa Mác – Lênin, tƣ
tƣởng Hồ Chí Minh là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, là kim chỉ nam cho mọi hành
động. Đảng và Nhà nƣớc đã đề ra nhiều chủ trƣơng, chính sách về xóa đói
giảm nghèo, phong trào xóa đói giảm nghèo đƣợc phát động rộng khắp và thu
hút sự tham gia của đông đảo tầng lớp nhân dân. Kết quả xóa đói giảm nghèo
trong những năm vừa qua, khẳng định thêm những chủ trƣơng, chính sách của
Đảng và Nhà nƣớc ta là hoàn toàn đúng đắn với tƣ tƣởng về xóa đói giảm
nghèo của Hồ Chí Minh, vừa hợp với lòng dân.



- Quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về xóa đói
giảm nghèo:
Từ khi hòa bình đƣợc lập lại ở miền bắc (1945) và đất nƣớc hoàn toàn
thống nhất (1975), Đảng và Nhà nƣớc ta đã có nhiều quyết sách để xóa dần
nghèo đói nhƣ: cải cách ruộng đất, xây dựng các công trình thủy lợi miễn
giảm thuế... Làm cho dân bớt nghèo, vƣơn lên giàu không phải là chính sách
nhất thời có tính chất đối phó, mà là chủ trƣơng chiến lƣợc, là mục tiêu hoạt
động của Đảng và Nhà nƣớc ta. Từ Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ
VI đến nay, đất nƣớc ta bƣớc vào công cuộc đổi mới toàn diện; xóa bỏ cơ chế
tập trung, quan liêu, bao cấp chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần, sau này là nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa. Việc giải
phóng sức sản xuất, phát triển kinh tế đã làm cho thu nhập, đời sống của đại
đa số nhân dân từng bƣớc đƣợc cải thiện. Nhƣng do điểm xuất phát của nền
kinh tế thấp, lại chịu hậu quả to lớn của thiên tai và chiến tranh, kèm theo tác
động mạnh mẽ của cơ chế thị trƣờng, nên sự phân hóa thu nhập, đời sống giữa
nông thôn và thành thị, giữa các vùng ngày càng tăng nhanh. Trong quá trình
đổi mới, hội nhập và phát triển, bộ phận dân nghèo kể cả những gia đình có
công với cách mạng, chịu nhiều thiệt thòi. Vì vậy, thu hẹp khoảng cách chênh
lệch giàu, nghèo và trợ giúp ngƣời nghèo đã trở thành nhu cầu bức thiết và là
một trong những biểu hiện bản chất của xã hội chủ nghĩa. Lúc đầu phong trào
xóa đói giảm nghèo là sáng kiến của thành phố Hồ Chí Minh, sau đó lan tỏa
nhiều địa phƣơng khác và trở thành phong trào xóa đói giảm nghèo sâu rộng
trong cả nƣớc. Từ thực tiễn phong trào xóa đói giảm nghèo, Nghị quyết Trung
ƣơng 5 khóa VII đã nêu lên một nhiệm vụ có ý nghĩa kinh tế - chính trị, xã
hội to lớn: “Tăng thêm diện giàu và đủ ăn, xóa đói giảm nghèo, nhất là vùng
cao, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng trƣớc đây là căn cứ cách
mạng” [1]. Thực hiện chủ trƣơng của Đảng và Chính phủ, phong trào xóa đói


giảm nghèo đã trở thành cuộc vận động lớn, có tác dụng thiết thực làm giảm

bớt khó khăn. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đề ra mục
tiêu “Giảm tỷ lệ hộ nghèo đói trong tổng số hộ của cả nƣớc từ 20 – 25% hiện
nay xuống còn khoảng 10% vào năm 2000, bình quân giảm 300 nghìn hộ/
năm. Trong 2 - 3 năm đầu của kế hoạch 5 năm tập trung xóa cơ bản nạn đói
kinh niên” [1].
Đến Đại hội IX của Đảng, Đảng ta khẳng định “khuyến khích làm giàu
hợp pháp, đồng thời ra sức xóa đói, giảm nghèo” [7]. Mục tiêu chiến lƣợc xóa
đói giảm nghèo thời kỳ 2001 - 2010, do Đại hội X đề ra là “ Nhà nƣớc tạo
môi trƣờng thuận lợi, khuyến khích mọi ngƣời dân vƣơn lên làm giàu chính
đáng và giúp đỡ ngƣời nghèo... phấn đấu đến năm 2010, về cơ bản không còn
hộ nghèo, thƣờng xyên củng cố thành quả xóa đói, giảm nghèo” [8].
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X Đảng ta khẳng định: Khuyến khích
mọi ngƣời làm giàu theo pháp luật, thực hiện có hiệu quả các chính sách xóa
đói, giảm nghèo, hƣởng thụ các dịch vụ xã hội cơ bản, vƣơn lên thoát nghèo
vững chắc ở các vùng nghèo và các bộ phận dân cƣ nghèo. Khắc phục tƣ
tƣởng bao cấp, ỷ lại.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI một lần nữa Đảng ta chủ trƣơng:
Tập trung triển khai có hiệu quả các chƣơng trình xóa đói, giảm nghèo ở vùng
sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Đa dạng hóa các ngồn lực và phƣơng
thức xóa đói, giảm nghèo gắn với phát triển nông nghiệp, nông thôn, phát
triển giáo dục, dạy nghề và giải quyết việc làm để xóa đói, giảm nghèo bền
vững; tạo điều kiện và khuyến khích ngƣời đã thoát nghèo.
Có thể nói, chủ trƣơng xóa đói giảm nghèo của Đảng ta ngày càng thể
hiện rõ quan điểm xóa đói giảm nghèo gắn với phát triển bền vững, gắn với
phƣơng trâm tăng trƣởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã


hội ngay trong từng bƣớc và từng chính sách phát triển, góp phần thực hiện
mục tiêu “Dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”.
Nghiên cứu đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng và Nhà nƣớc ta về xóa đói

giảm nghèo có thể rút ra các quan điểm cơ bản sau:
Quan điểm thứ nhất: Xóa đói, giảm nghèo phải đƣợc giải quyết trong
tổng thể chiến lƣợc phát triển của đất nƣớc. Kết hợp hài hòa giữa tăng trƣởng
kinh tế với công bằng xã hội ngay từ đầu và trong suốt quá trình phát triển,
ngay trong từng giai đoạn của quá trình phát triển.
Xóa đói giảm nghèo, khuyến khích làm giàu chính đáng, lành mạnh xã
hội là những nhân tố chủ yếu thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế bền vững, là cơ sở
kinh tế để thực hiện quá trình xóa đói giảm nghèo. Việt Nam là một nƣớc
đang phát triển ở trình độ thấp, nguồn lực của nhà nƣớc, của cộng đồng còn
rất hạn chế và bản thân ngƣời nghèo còn hết sức khó khăn. Trong những năm
thực hiện đƣờng lối đổi mới, kinh tế ngày một tăng trƣởng, bƣớc đầu tạo
công ăn việc làm, nguồn vốn và cơ hội vƣơn lên cho ngƣời nghèo. Trong
20 năm đổi mới, nền kinh tế nƣớc ta có nhiều bƣớc phát triển vƣợt bậc. Từ
năm 1991 đến năm 1995 bình quân hàng năm tốc độ tăng trƣởng theo
GDP là 8,3%, năm 2001 - 2005 bình quân 7,5%, tuy có giảm sút so với
giai đoạn trƣớc nhƣng vẫn cao hơn nhiều nƣớc trong khu vực. Nhờ kinh tế
tăng trƣởng, thu ngân sách tăng nên nhà nƣớc có điều kiện đầu tƣ nhiều hơn
cho các chƣơng trình xã hội và xóa đói giảm nghèo. Nhƣ vậy đối với nƣớc ta
giữa tăng trƣởng kinh tế, phát triển xã hội và xóa đói giảm nghèo có mối
quan hệ biện chứng với nhau. Tăng trƣởng kinh tế là điều kiện vật chất, là nội
lực để xóa đói giảm nghèo, xóa đói giảm nghèo là mục tiêu, động lực phát
triển kinh tế xã hội, là tiền đề cơ bản đảm bảo cho sự ổn định chính trị - xã
hội của đất nƣớc, gắn liền với tăng trƣởng bền vững và hạn chế tác động của
thiên tai.


Quan điểm thứ hai: Xóa đói, giảm nghèo là vấn đề kinh tế - xã hội sâu
rộng cho nên mọi lúc, mọi nơi đều phải thống nhất chính sách kinh tế với
chính sách xã hội.
Đói nghèo là do kinh tế thấp kém, và bởi trình độ lạc hậu về mọi mặt.

Những yếu tố đó tác động lẫn nhau và hậu quả là đói nghèo tăng dẫn đến
những hộ, xã, huyện nghèo. Sau Cách mạng Tháng tám năm 1945, mặc dù
phải đối phó với thù trong, giặc ngoài, Chính phủ Việt Nam đứng đần là chủ
tịch Hồ Chí Minh đã từng chủ trƣơng phải chống “giặc dốt, giặc đói”. Chủ
trƣơng này mang lại kết quả góp phần vào sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Trong giai đoạn hiện nay, nƣớc ta cố gắng thực hiện chủ trƣơng nhất quán kết
hợp giữa tăng trƣởng kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội. Nghèo đói theo
cách xem xét biện chứng là vấn đề xã hội, nghèo đói và mất ổn định xã hội
thƣờng có quan hệ chặt chẽ với nhau. Hơn nữa nghèo đói còn có nguồn gốc từ
nhân tố xã hội: Tập quán, hủ tục lạc hậu, tệ nạn xã hội, khả năng gắn bó của
cộng đồng… Nguyên nhân nghèo và xóa đói giảm nghèo mang tính tổng hợp.
Thậm chí có vùng nhiều rừng, nhiều đất nhƣng phƣơng thức canh tác lạc hậu
làm cho đất xấu dẫn tới đất không còn khả năng canh tác.
Quan điểm thứ ba: Thực hiện chƣơng trình xóa đói giảm nghèo gắn với
khuyến khích làm giàu chính đáng, thƣờng xuyên củng cố thành quả xóa đói
giảm nghèo.
Đói nghèo vừa thể hiện thiếu thốn vật chất và mức độ hƣởng thụ văn
hóa, tinh thần với hoàn cảnh, điều kiện rất đa dạng của từng hộ, từng vùng.
Do đó đòi hỏi chủ trƣơng, chính sách phải sát hợp với thực tiễn mới có tính
thuyết phục, vừa gợi mở vấn đề, nâng cao tính sáng tạo của cá nhân và cộng
đồng, thực hiện lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh “giúp ngƣời nghèo
vƣơn lên giàu, ai giàu vƣơn lên giàu thêm” nhằm làm cho dân giàu nƣớc
mạnh. Cƣơng lĩnh xây dựng đất nƣớc thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã


khẳng định: “Nhà nƣớc đã tạo môi trƣờng và điều kiện cho mọi ngƣời lao
động có việc làm, chăm lo cải thiện điều kiện lao động, khuyến khích tăng thu
nhập và làm giàu dựa trên kết quả lao động” [9].
Nhƣ vậy thực hiện chủ trƣơng xóa đói giảm nghèo không triệt tiêu đi
động lực làm giàu, ở vùng nghèo có ngƣời giàu càng cổ vũ, hỗ trợ ngƣời

nghèo vƣơn lên xóa đói giảm nghèo. Làm giàu chính đáng bằng tài năng, học
vấn, khoa học, kinh tế, sản xuất kinh doanh, trên nền tảng đạo đức và pháp
luật, từ đó mới có điều kiện giúp đỡ ngƣời nghèo, nhất là giải quyết việc làm,
nâng cao đời sống. Hơn nữa, thực tế ở Việt Nam rất nhiều gia đình giàu, nhất
là ở nông thôn, rất tích cực thực hiện chƣơng trình xóa đói giảm nghèo. Họ
giúp ngƣời nghèo giải quyết việc làm, kinh nghiệm làm ăn, cách thức chi
tiêu… Nhiều nông dân nghèo ở các địa phƣơng đã tâm sự: Chính cuộc sống
ổn định, khá giả ngay trong thôn xóm là những ngƣời thực, việc thực thúc đẩy
họ vƣơn lên xóa đói giảm nghèo.
Trong cơ chế thị trƣờng hiện nay, dù muốn hay không tình trạng có bộ
phận dân cƣ giàu lên và một bộ phận dân cƣ khác nghèo đói, có vùng giàu có
và vùng nghèo đói vẫn diễn ra là tất yếu. Vấn đề đặt ra là kiên trì chủ trƣơng
xóa đói giảm nghèo bằng các chính sách kinh tế - xã hội phù hợp để luôn có
khoảng cách giàu nghèo hợp lý, số hộ nghèo đói ngày càng giảm, số hộ giàu
tăng lên, có nhƣ vậy mới xóa đói giảm nghèo nhanh và bền vững.
Quan điểm thứ tư: Xóa đói, giảm nghèo gắn với phát triển kinh tế bằng
chủ động, tự lực vƣơn lên của ngƣời nghèo, cộng đồng, các ngành, các cấp và
Nhà nƣớc cùng sự cạnh tranh các đối thủ và giúp đỡ các bạn bè quốc tế.
Quan điểm này thể hiện xóa đói giảm nghèo phải bằng sức mạnh tổng
hợp, sức sáng tạo và nguồn lực của ngƣời nghèo, của cộng đồng, của Nhà
nƣớc và toàn xã hội. Trƣớc hết làm cho ngƣời nghèo, vùng nghèo không ỷ lại
thụ động, chờ cứu giúp mà phải tự cứu mình, vƣơn lên bằng chính sức lao


×