Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (61.46 KB, 10 trang )

A.

Lời mở đầu
Tội phạm là một hiện tượng xã hội – pháp lý, tồn tại cùng với xã hội, xuất

hiện và được phản ánh dưới góc độ của pháp luật hình sự đối với những hành vi
vi phạm đạo đức xã hội và gây thiệt hại nghiêm trọng đối các mối quan hệ xã
hội. Căn cứ theo khoản 1 điều 8 BLHS 2015 thì khái niệm tội phạm được nêu
“Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình
sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực
hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa,
quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức,
xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm
những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của
Bộ luật này phải bị xử lý hình sự”.
Theo sự phát triển của khoa học luật hình sự, thì đối với các giai đoạn
khác nhau khi thực hiện tội phạm thì sẽ truy cứu mức trách nhiệm ở các mức
khác nhau, hay còn gọi là các giai đoạn thực hiện phạm tội. Nhưng sẽ thế nào
khi một người có ý định phạm tội, có hành vi chuẩn bị phạm tội, hoặc đã bắt tay
vào thực hiện nhưng tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội. Xét căn cứ dựa
trên điều 16 BLHS 2015 thì tự ý nửa chừng chấm dứt phạm tội đã được quy
định trong luật nhưng lại mang tính tổng quát cao, chưa giải thích rõ ràng về nội
dung của chế định này, chưa nêu các điều kiện khách quan và chủ quan của chế
định, trách nhiệm hình sự đối với chế định này, nội dung của chế định,… Liệu
rằng thông tin từ điều luật này đã đủ cho mọi người, liệu rằng đó có thể là một
chiếc phao để người có hành vi tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội cứu lấy
chính mình. Xét thấy tầm quan trọng của vấn đề, em xin chọn đề tài “Trường
hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội” để nghiên cứu.
Các thuật ngữ sử dụng trong bài: BLHS = Bộ luật hình sự
TNHS = Trách nhiệm hình sự




B.

Nội Dung

I.

Khái niệm, dấu hiệu, ý nghĩa của chế định tự ý nửa chừng chấm dứt

việc phạm tội.
1.

Khái niệm và các dấu hiệu
Theo quy định tại điều 16 BLHS 2015 thì khái niệm được nêu “Tự ý nửa

chừng chấm dứt việc phạm tội là tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng,
tuy không có gì ngăn cản.
Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm hình
sự về tội định phạm; nếu hành vi thực tế đã thực hiện có đủ yếu tố cấu thành của
một tội khác, thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này.”
Cụm từ không thực hiện tội phạm đến cùng có nghĩa là thời điểm muộn
nhất để dừng lại là thời điểm trước khi hành vi của người đó thỏa mãn các dấu
hiệu của một cấu thành tội phạm hoàn chỉnh và việc dừng lại là do ý muốn chủ
quan của bản thân người có hành vi, đây cũng chính là một trong hai dấu hiệu để
được công nhận đó là hành vi tự ý nửa chừng chấm dứt phạm tội.
Dấu hiệu khách quan: Để thừa nhận là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm
tội là sự chấm dứt việc phạm tội phải xảy ra trong quá trình một người đã có
hành vi chuẩn bị các điều kiện cần thiết để thực hiện tội phạm hoặc đã bắt đầu
thực hiện hành vi thực hiện ý định phạm tội nhưng không thực hiện tội phạm

đến cùng, tuy không có gì ngăn cản. Điều kiện này đòi hỏi người phạm tội đang
còn điều kiện thực hiện tội phạm như công cụ, phương tiện phạm tội có hiệu
nghiệm, người phạm tội không bị phát hiện hoặc điều kiện thuận lợi khác để
thực hiện tội phạm trót lọt. Việc chấm dứt tội phạm phải xảy ra ở giai đoạn
chuẩn bị phạm tội hoặc ở giai đoạn phạm tội chưa đạt, chưa hoàn thành. Người
phạm tội không tiếp tục thực hiện tội phạm nữa, là điều kiện đủ của tự ý nửa
chừng chấm dứt việc phạm tội.
Ví dụ 1: X lên kế hoạch chi tiết về việc cướp tiền của người quen tên là Y
vào buổi đêm trên con đường Y hay đi làm về, nhưng sau đó X đã từ bỏ ý định
cướp của Y trước khi Y đến con đường đó và không đợi Y cướp của nữa.


Khi một người đã thực hiện được tất cả những hành vi mà người đó cho là
cần thiết để thực hiện tội phạm, để gây ra hậu quả tội phạm, nhưng hậu quả tội
phạm chưa xảy ra, tội phạm chưa hoàn thành do những nguyên nhân khách quan
ngoài ý muốn của người đó thì sau đó mặc dù người ấy lại nhận thức được là
vẫn có thể tiếp tục thực hiện tội phạm, gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội
nhưng đã tự ý không tiếp tục thực hiện tội phạm nữa thì cũng không được coi là
tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội. Vì trước khi người đó chấm dứt việc
phạm tội hành vi mà người đó thực hiện đã ở giai đoạn phạm tội chưa đạt hoàn
thành. Trong trường hợp này hậu quả tội phạm chưa xảy ra, tội phạm chưa hoàn
thành được là do những nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của người thực
hiện hành vi.
Ví dụ 2 : M định cho nổ nhà N nhưng khi M cài thuốc nổ xong và bấm nút
kích hoạt thuốc nổ nhưng thuốc nổ lại không nổ do đầu công tắc kích nổ chưa
được gắn chặt. Sau đó mặc dù có thể gắn lại nhưng M từ bỏ ý định, không cho
nổ nhà N nữa.
Dấu hiệu chủ quan: Người phạm tội phải chấm dứt việc phạm tội một cách
tự nguyện và dứt khoát, triệt để. Sự chấm dứt hành vi phạm tội dứt khoát thể
hiện ở việc từ bỏ hẳn, chấm dứt hẳn tội phạm.Việc chấm dứt không tiếp tục thực

hiện tội phạm phải là dứt khoát, nghĩa là phải từ bỏ hẳn ý định phạm tội của
người thực hiện hành vi chứ không phải là sự tạm thời dừng lại để người đó tính
toán, tìm cơ hội khác thuận lợi hơn thực hiện tội phạm sau này. Người phạm tội
phải tự mình chấm dứt hành vi phạm tội, việc chấm dứt hoàn toàn tự nguyện, tự
giác chứ không phải vì lý do bị ngăn cản. ”. Như vậy khi người phạm tội chấm
dứt tội phạm một cách triệt để thì đã làm mất tính nguy hiểm của hành vi phạm
tội, ý định thực hiện tội phạm cũng không còn. Pháp luật không quy định
nguyên nhân dẫn đến chấm dứt tội phạm, do vậy người phạm tội có thể chấm
dứt hành vi phạm tội bởi bất kỳ nguyên nhân nào như thương người bị hại, sợ
trừng phạt, hối hận...v.v. Điều này cũng đã được đề cập đến ở nghị quyết số 02HĐTP-TANDTC/QĐ ngày 5-01-1986 của hội đồng thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của bộ luật hình sự đã nêu rõ.


Cũng với ví dụ 1 đã nêu ở trên thì nguyên nhân dẫn đến việc X không cướp của
Y nữa có thể là do X trong khi đợi Y đã hối hận vì trước đây Y đã đối tốt với X
hoặc do X sợ đi tù sau khi thực hiện vụ cướp.
2. Đặc điểm của tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội
Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là một chế định nhân đạo của pháp
luật hình sự Việt Nam, thể hiện sự tự nguyện dứt khoát của một người không
thực hiện ý định hoặc hành vi phạm tội của mình đến cùng mặc dù họ có khả
năng thực hiện và điều kiện khách quan không có gì ngăn cản.
Thứ nhất, chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là một chế định
nhân đạo trong BLHS Việt Nam. Chế định này đã cho một người đã có ý định
phạm tội, đã có hành vi chuẩn bị hoặc bắt tay vào việc thực hiện tội phạm nhưng
đã tự nguyện nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, được hưởng lượng khoan
hồng, không phải chịu trách nhiệm hình sự
Thứ hai, chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là một chế định
miễn TNHS đặc biệt. Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn
TNHS khi họ tự nguyện chấm dứt hành vi phạm tội của mình một cách dứt
khoát ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành

(chưa thực hiện tội phạm đến cùng). Chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc
phạm tội chỉ áp dụng đối với người phạm tội với lỗi cố ý, còn các trường hợp
khác có thể áp dụng với cả tội phạm với lỗi vô ý. Ngoài ra, người phạm tội
không được miễn toàn bộ TNHS, họ chỉ được miễn TNHS về tội định phạm, nếu
hành vi của họ thực tế có đầy đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm khác thì họ vẫn
phải chịu TNHS về tội phạm đó. Điều này không đặt ra đối với các trường hợp
miễn TNHS khác. Thêm một điểm đặc biệt nữa đó là việc miễn TNHS của chế
định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội không được áp dụng nếu giai đoạn
phạm tội ở giai đoạn phạm tội hoàn thành hoặc chưa đạt nhưng đã hoàn thành.
Còn ở các trường hợp miễn TNHS khác thì sẽ có thể tồn tại mặc dù ở các giai
đoạn khác nhau, việc được miễn tồn tại vào các yếu tố khách quan khác.


3. Ý nghĩa của chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội
Sự ra đời của chế định này góp phần hoàn thiện khoa học luật hình sự Việt
Nam, bổ sung những lỗ hổng còn thiếu trong hệ thống pháp lý của luật hình sự
Việt Nam, hỗ trợ cho việc xây dựng các chế tài liên quan đến các giai đoạn
phạm tội.
Mặt khác, chế định tự ý nửa chừng châm dứt việc phạm tội cũng là một
trong những biện pháp góp phần ngăn chặn những hậu quả nguy hiểm cho xã
hội. Nó cho phép một người có ý định phạm tội, đã chuẩn bị hoặc bắt tay vào
việc thực hiện tội phạm, vẫn có khả năng lựa chọn cách xử sự của mình. Chế
định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được quy định trong BLHS đã tạo
ra cơ sở pháp lý vững chắc cho người đang chuẩn bị phạm tội hoặc đã bắt tay
vào thực hiện tội phạm tự nguyện chấm dứt việc phạm tội để hưởng chính sách
khoan hồng của Nhà nước.
Chế định miễn trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam có ý
nghĩa quan trọng trong việc tạo cơ sở pháp lý cho sự kết hợp các biện pháp
cưỡng chế hình sự của Nhà nước với các biện pháp tác động xã hội trong việc
giáo dục, cải tạo người phạm tội, giúp họ trở thành người có ích trong xã hội,

giảm nhẹ cường độ áp dụng trách nhiệm hình sự và hình phạt khi có căn cứ pháp
lý và những điều kiện cho phép.
Việc quy định chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội trong
BLHS có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong thực tiễn xét xử.Cơ sở pháp lý trong
việc xác định TNHS cho người phạm tội khi họ đã tự nguyện không tiếp tục
thực hiện tội phạm dù không có gì ngăn cản. Hệ thống tư pháp đã trở nên đồng
bộ và nhất quán hơn trong toàn bộ quá trình điều tra, truy tố, xét xử.
II. Trách nhiệm hình sự trong trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc
phạm tội
Cơ sở để xét trách nhiệm hình sự trong trường hợp tự ý nửa chừng chấm
dứt việc phạm tội được quy định tại đoạn 2 điều 16 BLHS 2015 “Người tự ý nửa
chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm;
nếu hành vi thực tế đã thực hiện có đủ yếu tố cấu thành của một tội khác, thì


người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này.” .Ở đây thì ta sẽ chia việc
truy trách nhiệm hình sự trong tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội thành 2
phần để tìm hiểu: Trách nhiệm hình sự của người tự ý nửa chừng chấm dứt việc
phạm tội đối với tội định phạm và trách nhiệm hình sự của người tự ý nửa chừng
chấm dứt việc phạm tội đối với tội phạm khác.
1.

Trách nhiệm hình sự của người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm

tội đối với tội định phạm
Một người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm
hình sự về tội định phạm. Đối với việc miễn trách nhiệm hình sự của việc tự ý
nửa chừng thì được xác định dựa trên 2 yếu tố cơ bản, bao gồm: Căn cứ vào tính
nguy hiểm cho xã hội và căn cứ mục đích của hình phạt và chính sách hình sự
của Nhà nước.

Tính nguy hiểm cho xã hội được coi là thành tố quan trọng nhất trong việc
miễn trách nhiệm hình sự cho chủ thể thực hiện hành vi phạm tội. Các quan hệ
được luật hình sự bảo vệ bị thiệt hại hoặc có nguy cơ bị gây thiệt hại bởi các
hành vi có ý chí phạm tội. Nếu một hành vi gây thiệt hại nhưng xét trên tính chất
mà mức độ nguy hiểm cho xã hội là không đáng kể thì có thể xử lý bằng các
biện pháp khác không phải truy cứu trách nhiệm hình sự. Tính nguy hiểm cho xã
hội là dấu hiệu phản ánh tính gây thiệt hại về khách quan và tính có lỗi thuộc về
mặt chủ quan của tội phạm. Xét đến tính nguy hiểm cho xã hội sẽ được đánh giá
dựa trên tính chất nguy hiểm cho xã hội và mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi đó. Việc không thực hiện tiếp hành vi phạm tội dù không có yếu tố gì
ngăn cản đã thể hiện tinh thần tự giác và điều đó cho thấy mức độ nguy hiểm đã
giảm xuống rất nhiều và gần như là không.
Căn cứ vào mục đích của hình phạt và chính sách hình sự của Nhà nước
Bên cạnh cơ sở trên, thì mục đích của hình phạt và chính sách nhân đạo trong
luật hình sự của Nhà nước ta cũng được coi là cơ sở của việc miễn trách nhiệm
hình sự. Một người bị coi là tội phạm khi thỏa mãn các dấu hiệu trong cấu thành
tội phạm thì họ phải chịu hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất
của Nhà nước. Tuy vậy trong trường hợp xét thấy không cần phải áp dụng


TNHS đối với người phạm tội mà vẫn đảm bảo yêu cầu đấu tranh phòng và
chống tội phạm, có căn cứ chứng tỏ khả năng giáo dục, cải tạo nhanh chóng hòa
nhập với cộng đồng của người phạm tội, thì các cơ quan tiến hành tố tụng có
thẩm quyền cho họ được miễn TNHS. Xét cho cùng mục đích của hình phạt
không chỉ nhằm trừng trị người, pháp nhân thương mại phạm tội mà còn giáo
dục họ ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ
phạm tội mới; giáo dục người, pháp nhân thương mại khác tôn trọng pháp luật,
phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.
2.


Trách nhiệm hình sự của người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm

tội đối với tội khác
Nếu hành vi của người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội vi thực tế
đã thực hiện có đủ yếu tố cấu thành của một tội khác, thì người đó phải chịu
trách nhiệm hình sự về tội này.
Ví dụ về hai hành vi cùng tính chất: một người có ý định giết người đã
dùng búa đập gây thương tích người khác, sau đó tự ý nửa chừng chấm dứt việc
giết người thì người đó được miễn trách nhiệm hình sự về tội giết người nhưng
tùy tỉ lệ thương tật gây ra, người đó có thể phải chịu trách nhiệm về tội cố ý gây
thương tích theo quy định tại điều 134 BLHS 2015
Ví dụ về hai hành vi khác tính chất: một người mua một khẩu súng quân
dụng để chuẩn bị đi cướp tài sản , sau đó lại tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm
tội thì được miễn trách nhiệm hình sự về tội cướp tài sản nhưng phải chịu trách
nhiệm hình sự về tôi mua bán trái phép vũ khí quân dụng theo quy định tại Điều
304 Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm
đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự.
III. Tự ý nửa chừng chấm dứt thực hiện phạm tội trong vụ án có đồng
phạm
Trong vụ án có đồng phạm, khi có sự tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm
tội của một người hay một số người thì việc miễn TNHS chỉ được áp dụng đối
với bản thân người đã tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội. Đối với người
thực hành trong vụ án có đồng phạm tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội


phải được xem xét qua hai trường hợp: có một người thực hành hay có hai người
đồng thực hành trở lên. Trường hợp đồng phạm có một người thực hành tự ý nửa
chừng chấm việc phạm tội khi thỏa mãn các điều kiện như vụ án riêng lẻ đó là:
Phải tự nguyện từ bỏ việc thực hiện tiếp tội phạm khi không có gì ngăn cản;
Việc từ bỏ đó phải là từ bỏ hẳn chứ không phải là tạm dừng chờ cơ hội thuận lợi

sẽ tiếp tục thực hiện tội phạm; Việc chấm dứt thực hiện tội phạm phải xảy ra ở
giai đoạn chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành. Trong
trường hợp đồng phạm có hai người thực hành trở lên thì có thể xảy ra một
người hoặc một số người thực hành tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, còn
những người đồng thực hành khác vẫn tiếp tục thực hiện tội phạm. Việc xác định
thời điểm coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội phải căn cứ vào hành vi
thực tế của mỗi người đồng phạm vì hành vi phạm tội của từng người có quan
hệ mật thiết với nhau nên tổng hợp hành vi phạm tội của tất cả những người
đồng phạm đã thỏa mãn đầy đủ dấu hiệu của một cấu thành tội phạm cụ thể thì
vấn đề tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội không được đặt ra. Trong số
những người đồng thực hành, nếu có một hoặc một số người thôi không thực
hiện tội phạm nữa thì cũng được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội
và được miễn TNHS theo Điều 16 BLHS nếu họ đã không làm gì hoặc những
việc mà họ đã làm trước khi từ bỏ ý định phạm tội không giúp gì cho những
người đồng phạm khác trong việc tiếp tục thực hiện tội phạm. Còn nếu những
việc mà họ đã làm được những người đồng phạm khác sử dụng để thực hiện tội
phạm, thì họ cũng phải có những hành động tích cực để ngăn chặn việc thực
hiện tội phạm đó, thì họ mới có thể được miễn TNHS. Nhưng nếu họ không
ngăn chặn được những người đồng phạm khác thực hiện tội phạm, hậu quả của
tội phạm vẫn xảy ra thì họ vẫn phải chịu TNHS. (quy định tại mục I.2- Nghị
quyết HĐTP số 01/1989).
Đối với hành vi tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội của người tổ
chức, người xúi giục, người giúp sức. Đây là những người gián tiếp thực hiện tội
phạm nên điều kiện để được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội có
nhiều điểm khác so với người trực tiếp thực hiện tội phạm. Người tổ chức, người


xúi giục và người giúp sức chỉ được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm
tội khi thỏa mãn hai điều kiện: Thứ nhất, họ phải chấm dứt việc phạm tội trước
và trong khi người thực hành thực hiện tội phạm; Thứ hai, họ phải có những

hành động tích cực làm mất tác dụng của những hành vi trước đó của mình để
ngăn chặn việc thực hiện tội phạm.
IV. Một số ý kiến hoàn thiện chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm
tội.
Thứ nhất, nâng cao kiến thức về pháp luật cho các tầng lớp trong xã hội,
không ngừng tuyên truyền về pháp luật, nâng cao tinh thần pháp luật trong quần
chúng nhân dân.Mở các lớp bồi dưỡng, nâng cao nghiệp vụ của những người có
vai trò trong việc thực thi pháp luật, áp dụng những kiến thức về tự ý nửa chừng
trong các vụ án thực tế.
Thứ hai, tăng cường sự hợp tác với quốc tế, học hỏi và chắt lọc những
kinh nghiệm về các chế định có liên quan đến hành vi tự ý nửa chừng chấm dứt
việc phạm tội.
Thứ ba, bộ luật Hình sự năm 2015 của nước ta mới chỉ quy định việc áp
dụng trường hợp miễn trách nhiệm hình sự đối với một loại người đồng phạm –
người thực hành (khi sử dụng thuật ngữ “việc phạm tội”) mà chưa quy định cụ
thể và rõ ràng việc áp dụng nó với ba loại người đồng phạm còn lại – người tổ
chức, người xúi giục và người giúp sức. Tuy đã được hướng dẫn trong Mục I
Nghị quyết số 01-89/HĐTP ngày 19-04-1989 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao Hướng dẫn bổ sung việc áp dụng một số quy định của Bộ luật
hình sự, song cần được nhà làm luật nước ta chính thức ghi nhận trong Bộ luật
Hình sự năm 2015.


C. Kết Luận
Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là một chế định thể hiện tính nhân
đạo của luật hình sự nước ta, có ý nghĩa rất lớn đối với với hệ thống pháp luật,
với người có hành vi phạm tội, với các cơ quan thi hành pháp luật,… Qua đó
càng thể hiện tầm quan trọng của việc xây dựng, phát triển và hoàn thiện các
quy định của chế định này. Cần không ngừng khỏa lấp các thiếu sót, những mặt
còn hạn chế trong pháp lý đề bắt kịp với luật pháp quốc tế, phục vụ ngày càng

tốt hơn cho đời sống xã hội.

D. Danh mục tài liệu tham khảo
1. Bộ luật hình sự 2015
2. Giáo trình Luật hình sự Việt Nam phần chung, đại học Kiểm sát Hà Nội
3. Phạm Mạnh Hùng, Về chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, tạp
chí Toà án nhân dân, số 8 năm 1995.
4. Nguyễn Toán Cường, Vấn đề tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội trong vụ
án có đồng phạm, Viện Kiểm Sát Nhân Dân thành phố Bắc Ninh



×