Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Ngân hàng với vai trò trung gian tài chính trong quá trình thiết lập và phát triển thị trường tài chính ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (508.45 KB, 89 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

DƯƠNG NGUYỄN UYÊN MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2000


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
Chon 1

CÁC TRUNG GIAN TÀI CHÍNH

1.1 Tổng quan về thò trường tài chính

3

1.1.1 Khái niệm, các thành phần của TTTC

3

1.1.2 Công cụ tài chính

5

1.1.2.1 Công cụ tài chính trên thò trường tiền tệ


5

1.1.2.2 Công cụ tài chính trên thò trường vốn

6

1.2 Sự cần thiết của việc phát triển thò trường tài chính ở Việt Nam

7

1.2.1 Thò trường tài chính là cơ chế phân bố vốn hiệu quả nhất phục vụ phát
8

triển kinh tế
1.2.2 Thò trường tài chính ảnh hưởng đến tiết kiệm và giảm rủi ro

8

1.2.3 Thò trường tài chính là yêu cầu khách quan đối với đổi mới kinh tế

9

1.2.4 Thò trường tài chính là yêu cầu cơ bản cho quá trình cổ phần hóa

11

1.3 Vai trò của hệ thống ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế và TTTC

12


1.3.1 Hệ thống thanh toán

12

1.3.2 Huy động vốn

13

1.3.3 Nâng cao hiệu quả việc phân bổ vốn

16

Chương 2

HỆ THỐNG NGÂN HÀNG

VỚI VAI TRÒ TRUNG GIAN TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM
2.1 Khái quát về quá trình thay đổi cơ cấu và phát triển hệ thống ngân
20

hàng Việt Nam
2.2 Ngân hàng với vai trò trung gian tài chính

23

2.2.1 Hoạt động của hệ thống ngân hàng trước cuộc đổi mới

23

2.2.1.1 Hệ thống thanh toán


25

2.2.1.2 Huy động tiết kiệm

25

2.2.1.3 Phân bổ đầu tư

26

3


2.2.2 Vai trò của hệ thống ngân hàng giai đoạn từ đổi mới đến nay

28

2.2.2.1 Huy động tiết kiệm

31

2.2.2.2 Phân bổ vốn

36

2.2.3 Những thách thức tồn đọng trong hệ thống ngân hàng Việt Nam

43


2.2.3.1 Sự thiếu hụt vốn đầu tư dài hạn

43

2.2.3.2 Vấn đề cho vay không hiệu quả

46

2.2.3.3 Sự dư thừa một lượng lớn tiền mặt và sợ rủi ro của các ngân hàng

48

2.2.3.4 Hệ thống thanh toán yếu kém

48

2.3 Kết luận
Chương 3

49

MỘT SỐ BIỆN PHÁP HOÀN THIỆN
CHỨC NĂNG TRUNG GIAN TÀI CHÍNH
CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM

3.1 Duy trì sự ổn đònh kinh tế vó mô

51

3.2 Vai trò của chính phủ trong đổi mới hệ thống ngân hàng


52

3.3 Ngân hàng Nhà nước

53

3.4 Ngân hàng thương mại

56

3.4.1 Huy động vốn

56

3.4.1.1 Nâng cao vò thế và uy tín ngân hàng

56

3.4.1.2 Xử lý lãi suất tiền gửi trong mối quan hệ với tỷ giá và thò trường
58

vốn ở đầu ra
3.4.1.3 Đa dạng hóa các công cụ tài chính để huy động tiền gửi vào ngân

60

hàng, đặc biệt là tiền gửi trung và dài hạn
3.4.1.4 Nâng cao trình độ cán bộ, nhân viên làm công tác huy động vốn


63

3.4.1.5 p dụng các hình thức khuyến mãi đối với người gửi tiền

63

3.4.2 Tín dụng tài trợ

63

3.4.2.1 Tăng cường tiếp thò, đầu tư vào các dự án lớn có hiệu quả

63

3.4.2.2 Nâng cao chất lượng tín dụng

64

4


3.4.2.3 Nâng cao hiệu quả công tác kiểm soát nội bộ

65

3.4.2.4 Đào tạo bồi dưỡng cán bộ làm công tác cho vay

65

3.4.3 Dòch vụ ngân hàng


66

3.4.3.1 Phát triển các nghiệp vụ ngân hàng hiện đại

66

3.4.3.2 Xây dựng kỹ nghệ hiện đại

68

KẾT LUẬN

69

PHỤ LỤC

i

TÀI LIỆU THAM KHẢO

x

5


PHẦN MỞ ĐẦU
1 Tính cấp thiết của đề tài
Cho đến nay các nhà kinh tế đều đồng ý rằng hệ thống tài chính có một
vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế của bất kỳ một quốc gia nào. Lý thuyết

và kinh nghiệm về sự phát triển tài chính và sự tăng trưởng kinh tế cho thấy, ở
các nước có hệ thống tài chính phát triển, thò trường tiền tệ và thò trường vốn
phát triển mạnh có thể sẽ thúc đẩy sự phát triển của các khu vực kinh tế khác.
Ngược lại, một nền kinh tế với hệ thống tài chính tụt hậu sẽ gây ra không ít khó
khăn cho sự phát triển các khu vực kinh tế khác do thò trường tài chính không ổn
đònh và chấp vá. Lý thuyết sự phát triển tài chính là nền tảng cho hàng loạt cuộc
cải cách tài chính trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng.
Từ năm 1986 Việt Nam đã theo đuổi một chính sách kinh tế toàn diện và
đã đạt được những thành tựu kinh tế vó mô, thể hiện ở tốc độ tăng trưởng kinh tế
cao trong những năm gần đây. Từ năm 1988 cải cách kinh tế ở Việt Nam đã
được tăng tốc bởi hàng loạt những thay đổi và đổi mới hệ thống tài chính bao
gồm sự chuyển đổi từ hệ thống ngân hàng một cấp sang ngân hàng hai cấp, thay
đổi trong cơ chế hoạt động ngân hàng và cải cách chính sách tiền tệ. Những cải
cách tài chính nói trên là điều kiện quan trọng và là tiền đề cho việc thiết lập và
phát triển thò trường tài chính ở Việt Nam.
Trong giai đoạn hiện nay, vốn là một trong những vấn đề quan tâm hàng
đầu phục vụ phát triển kinh tế đất nước. Thò trường tài chính phát triển với
những công cụ tài chính hấp dẫn sẽ huy động và phân bổ vốn một cách hiệu quả
nhất. Tuy nhiên việc thiết lập và phát triển thò trường tài chính cần đến những
điều kiện kinh tế xã hội nhất đònh. Trong thời gian tới khi thò trường tài chính
chưa phát triển thì việc cải tiến vai trò của hệ thống ngân hàng với chức năng
trung gian tài chính là mục tiêu hàng đầu.
2 Mục đích nghiên cứu của luận án
Sự thay đổi của hệ thống ngân hàng trong thời gian qua đóng vai trò quan
trọng trong việc thiết lập và phát triển thò trường tài chính ở Việt Nam. Trong
giai đoạn đầu của sự phát triển, ngân hàng với vai trò trung gian tài chính được
xem như là điều kiện cơ bản cho việc phát triển thò trường tài chính. Luận án
nghiên cứu các vấn đề sau :
- Những điều kiện cơ bản để thiết lập và phát triển thò trường tài chính.
- Đổi mới hệ thống ngân hàng Việt Nam có góp phần vào sự phát triển thò

trường tài chính hay không ?
6


- Hệ thống ngân hàng có một vai trò thiết yếu trong quá trình phát triển
thò trường tài chính. Vậy hệ thống ngân hàng Việt Nam nên được đổi mới như
thế nào để hoàn thành tốt hơn chức năng trung gian tài chính.
Luận án giả thiết rằng sự hoàn thiện hệ thống ngân hàng với chức năng
trung gian tài chính ngân hàng thật sự trong nền kinh tế thò trường là điều kiện
cơ bản để thiết lập và phát triển thò trường tài chính ở Việt Nam. Hệ thống ngân
hàng càng được hoàn thiện theo hướng cung cấp ngày càng nhiều dòch vụ trung
gian tài chính thì vốn huy động phục vụ phát triển nền kinh tế của đất nước
càng lớn.
3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Luận án nghiên cứu sự thay đổi trong cơ chế và thể chế hoạt động của
hệ thống ngân hàng Việt Nam đã ảnh hưởng đến sự phát triển hệ thống tài chính
như thế nào cũng như những tồn tại, yếu kém trong chức năng trung gian tài
chính ngân hàng.
- Luận án nghiên cứu hoạt động của ngân hàng từ 1986 đến nay.
4 Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lòch sử để
nghiên cứu. Ngoài ra, luận án còn sử dụng phương pháp thống kê, so sánh, phân
tích, qui nạp để luận chứng.
5 Nguồn số liệu
- Thống kê tài chính quốc tế (IMF).
- Ngân hàng thế giới (WB).
- Thống kê Việt Nam .
- Số liệu từ các tổ chức chính phủ.
- Số liệu từ các sách tham khảo, tạp chí.
6 Kết cấu của luận án:


Phần mở đầu

Chương 1

Các trung gian tài chính

Chương 2

Hệ thống ngân hàng với vai trò trung gian tài chính ở Việt Nam

Chương 3

Một số biện pháp hoàn thiện chức năng trung gian tài chính của hệ
thống ngân hàng Việt Nam
Kết luận

7


Chương 1
CÁC TRUNG GIAN TÀI CHÍNH
1.1

Tổng quan về thò trường tài chính

Trong nền kinh tế thò trường, các trung gian tài chính đóng một vai trò hết
sức quan trọng. Các trung gian tài chính này được đònh hình cùng với TTTC. Tuy
nhiên, với một nền kinh tế có hệ thống tài chính tụt hậu như Việt Nam hiện nay
thì hệ thống ngân hàng chiếm giữ một vò trí thiết yếu, quan trọng trong TTTC. Vì

vậy, trong chương này sẽ chỉ nghiên cứu vai trò của ngân hàng đối với sự phát
triển TTTC.
1.1.1

Khái niệm, các thành phần của TTTC

Có nhiều khái niệm về TTTC. TTTC có thể được hiểu một cách đơn giản
là nơi diễn ra các hoạt động mua bán các loại giấy tờ có giá, là nơi gặp gở của
các nguồn cung và cầu về vốn. Thông qua TTTC giá cả các loại cổ phiếu, trái
phiếu, kỳ phiếu, tín phiếu được hình thành, và giá cả các loại vốn đầu tư (lãi
suất vay, lãi suất cho vay, lãi suất ngắn hạn, trung và dài hạn) được quyết đònh.
Sự luân chuyển vốn từ những đơn vò thặng dư (nguồn cung cấp vốn) đến
những đơn vò thiếu hụt (có nhu cầu về nguồn vốn) dưới hai hình thức. Hình thức
thứ nhất là quan hệ vay mượn trực tiếp giữa người cho vay và người vay dưới
hình thức mua và bán cổ phiếu, trái phiếu. Hình thức thứ hai , vốn được luân
chuyển từ người cho vay đến người cần vay vốn thông qua các trung gian tài
chính như các NHTM, và các đònh chế tín dụng không phải là ngân hàng. Vì
vậy, TTTC giữ một vai trò thiết yếu trong nền kinh tế và có mối quan hệ chặt
chẽ với các trung gian tài chính.
Có nhiều cách phân loại TTTC theo thời gian sử dụng nguồn vốn vay của
người vay và thời gian cho vay vốn của người sở hữu vốn, đối tượng cho vay,
hình thức vận động của các nguồn vốn.
Phổ biến nhất là cách phân loại TTTC theo thời gian vận động của vốn
và đối tượng giao dòch trên thò trường. Theo cách phân loại này TTTC chia thành
: thò trường tiền tệ (Money market) và thò trường vốn (Capital market). Thò
trường tiền tệ là thò trường mua bán các loại giấy tờ có giá có kỳ hạn thanh toán
dưới một năm, là nơi đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn cho nền kinh tế. Thò trường
vốn là nơi diễn ra các hoạt động mua bán các chứng khoán và giấy tờ có giá
trung hoặc dài hạn, là thò trường cung ứng vốn cho đầu tư dài hạn.


8


Phân loại theo phương pháp giao dòch chứng khoán, TTTC bao gồm : thò
trường chính thức tập trung (Organized stock exchange) và thò trường chính thức
phi tập trung ( Over the counter). Thò trường chính thức tập trung là thò trường có
tổ chức, hoạt động theo đúng các qui luật pháp đònh, là nơi các chứng khoán
được mua bán tuân theo các qui tắc đã được ấn đònh. TTCK chính thức tập trung
có đòa điểm và thời biểu mua bán rỏ rệt, giá cả được xác đònh theo thể thức đấu
giá công khai, có sự kiểm soát của Hội đồng chứng khoán quốc gia. TTCK chính
thức được thể hiện bằng sở giao dòch chứng khoán. Thò trường chính thức phi tập
trung là thò trường mua bán ngoài sở giao dòch chứng khoán, không có đòa điểm
tập trung những người môi giới, những người kinh doanh chứng khoán như ở sở
giao dòch chứng khoán. Ở đây không có ngày giờ hay thủ tục nhất đònh mà do sự
thõa thuận của người mua và người bán.
Phân loại theo phương thức phát hành chứng khoán, TTTC bao gồm : thò
trường sơ cấp (Primary Market) và thò trường thứ cấp (Secondary Market). Thò
trường sơ cấp là thò trường mua bán những chứng khoán mới phát hành cho lần
giao dòch đầu tiên. Thò trường thứ cấp là thò trường giao dòch những chứng khoán
đã phát hành, được mua bán tiếp theo sau lần bán đầu tiên.
Các thành phần tham gia trên TTTC về cơ bản gồm 4 nhóm : khách hàng,
các NHTM và các đònh chế tài chính không phải là ngân hàng và Chính phủ.
Khách hàng. Khách hàng trong TTTC bao gồm các hộ gia đình, là những
đơn vò thừa vốn hàng đầu dưới hình thức tiết kiệm, kế đó là các doanh nghiệp
thónh thoảng dư vốn tạm thời. Các đơn vò thừa vốn có xu hướng trước hết là gửi
tiền vào các trung gian tài chính để hưởng các dòch vụ tài chính hưởng lãi dưới
hình thức tiền gửi tiết kiệm, tiền gửiù kỳ hạn, tiền gửi thanh toán. Mặc khác các
đơn vò thừa vốn còn đầu tư ở TTTC dưới hình thức mua trái phiếu, cổ phiếu để
hưởng lợi tức.
Trong khi đó các đơn vò cần vốn, chủ yếu là doanh nghiệp, chính phủ vay

hay nhận đầu tư trực tiếp từ các trung gian tài chính hoặc phát hành chứng
khoán. Khi vay hay nhận đầu tư, các đơn vò cần vốn phải trả lãi hay chia lời cho
các trung gian tài chính, cũng như phải trả lãi, trả cổ tức cho người mua chứng
khoán.
NHTM và các đònh chế tín dụng không phải là ngân hàng. Trong hầu hết
các quốc gia, NHTM và các đònh chế tín dụng không phải là ngân hàng chiếm
một vò trí thống trò trong hệ thống tài chính. Nghiệp vụ của NHTM là cung cấp
các dòch vụ ngân hàng trong nước và quốc tế chủ yếu là nhận tiền gửi tiết kiệm,
cung cấp tín dụng cho khách hàng cũng như đầu tư chứng khoán, … trên TTTC.
Các đònh chế tín dụng không phải là ngân hàng cũng cung cấp các dòch vụ tài
9


chính nhưng không nhận tiền gửi và không có các nghiệp vụ thanh toán. Họ huy
động vốn bằng cách vay các tổ chức tín dụng khác hoặc phát hành trái phiếu.
Thuộc loại này là các công ty tài chính, công ty cho thuê, công ty bảo hiểm, quỹ
học bổng hay quỹ dự phòng, công ty đầu tư.
Chính phủ. Chính phủ tham gia trên TTTC với vai trò là nhà đầu tư vừa
thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với hệ thống tài chính. Để duy trì sự
ổn đònh trên TTTC, bù đắp các khoản thiếu hụt do bội chi ngân sách cũng như
tài trợ hệ thống giáo dục, an ninh, quốc phòng chính phủ mua và bán chứng
khoán nợ do chính phủ phát hành. Chính phủ cũng ban hành các luật lệ cũng như
đònh hướng cho TTTC hoạt động hiệu quả thông qua việc tạo ra môi trường
cạnh tranh lành mạnh thúc đẩy sự phát triển của các thể chế khác nhau, bảo vệ
quyền lợi của các nhà đầu tư và những người có tiết kiệm, giảm chi phí trung
gian tài chính.
1.1.2 Công cụ tài chính
Công cụ tài chính là những công cụ mua bán trên TTTC nhằm luân
chuyển vốn từ đơn vò thặng dư vốn sang đơn vò thiếu vốn. Thông thường các
công cụ tài chính được phân thành hai loại : ngắn hạn và dài hạn. Các công cụ

tài chính ngắn hạn được mua bán trên thò trường tiền tệ, các công cụ tài chính
dài hạn được mua bán trên thò trường vốn.
1.1.2.1

Công cụ tài chính trên thò trường tiền tệ

Những công cụ chính của thò trường tiền tệ gồm :
Trái phiếu kho bạc (Treasury bills) : là loại chứng khoán ngắn hạn do
chính phủ phát hành để tài trợ cho chi tiêu ngân sách. Trái phiếu kho bạc được
xem là loại chứng khoán không có rủi ro do được bảo đảm bằng uy tín của chính
phủ, có tính thanh khoản cao vì có thể mua bán trên thò trường tiền tệ rất dể
dàng. Trái phiếu kho bạc được các NHTM ưa thích vì nó được tính vào phần dự
trử bắt buộc, dể bán, giá tương đối ổn đònh và ít rủi ro. Ngân hàng trung ương sử
dụng trái phiếu kho bạc như là công cụ can thiệp trên thò trường mở để thi hành
chính sách tiền tệ. Các đơn vò kinh tế có dư tiền tạm thời cũng thích mua trái
phiếu kho bạc vì sự an toàn của nó.
Thương phiếu (Commercial paper) : là những lệnh phiếu thường không có
bảo đảm do các công ty phát hành, hay công ty phát hành nhờ một ngân hàng
bảo đảm bằng một khoản tín dụng, theo đó ngân hàng cam kết thanh toán
thương phiếu khi đáo hạn nếu công ty phát hành thương phiếu không trả được
vốn và lãi. Thương phiếu có thể được bán trực tiếp cho nhà đầu tư chứng khoán,
người này mua theo thể thức chiết khấu và bán lại theo mệnh giá phát hành.
10


Cũng có khi thương phiếu được bán cho nhà kinh doanh phát hành và người này
chỉ hưởng hoa hồng mà thôi. Tiền lãi của nhà đầu tư là tiền chiết khấu (giá phát
hành thấp hơn mệnh giá) như trái phiếu kho bạc.
Chứng chỉ tiền gửi đònh kỳ hay còn gọi là kỳ phiếu (Certificate of deposits
hay CD) : là những phiếu xác nhận tiền gửi đònh kỳ ở một ngân hàng. Kỳ phiếu

là loại chứng khoán có mang lãi suất. Kỳ phiếu có thể được mua bán trên thò
trường với rủi ro thấp nhưng tỷ suất lợi nhuận cao hơn tỷ suất lợi nhuận của trái
phiếu kho bạc.
1.1.2.2

Công cụ tài chính trên thò trường vốn

Những công cụ phổ biến trên thò trường vốn gồm :
Trái phiếu kho bạc trung hạn (Treasury notes) và dài hạn (Treasury
bonds): là loại trái phiếu do kho bạc phát hành đứng ra vay tiền cho quốc gia để
thực hiện các công trình lớn như đường xá, phi trường, hải cảng. Nhà nước lấy
tiền sử dụng các công trình đó để trả lại cho trái chủ.
Trái phiếu kho bạc trung hạn có thời gian đáo hạn lớn hơn một năm và
nhỏ hơn 5 năm, trái phiếu kho bạc dài hạn có thời gian đáo hạn lớn hơn 5 năm.
Trái phiếu dài hạn công ty (Corporate bond) : do các công ty phát hành
nhằm mục đích tài trợ dài hạn cho các nhu cầu tăng vốn của công ty như mua
thêm thiết bò, thay đổi công nghệ.
Trái phiếu đô thò (Municipal bonds) : do chính quyền đòa phương phát
hành nhằm tài trợ bổ sung những khoản chi ngân sách thiếu hụt tại đòa phương
để xây dựng cơ sở hạ tầng. Tỉnh, Thành phố sẽ thu tiền các công trình đó để trả
cho các trái chủ. Trái phiếu dài hạn khi trả được trả theo mệnh giá. Người cho
vay được hưởng lãi suất cố đònh và tỷ suất chiết khấu không cao.
Cổ phiếu thường (Common stock) : là một loại chứng khoán ghi nhận
quyền sở hữu vốn đóng góp vào công ty cổ phần. Cổ đông nắm giữ những cổ
phiếu là một trong những người chủ doanh nghiệp nên là người trực tiếp thụ
hưởng kết quả kinh doanh cũng như lãnh chòu mọi rủi ro trong kinh doanh.
Cổ phiếu ưu đãi ( Preferred stock) : là một loại chứng khoán vừa có những
đặc điểm của cổ phiếu thường vừa giống trái phiếu. Cổ tức của cổ phiếu ưu đãi
được ấn đònh theo một tỷ lệ cố đònh trên mệnh giá, và được ưu tiên trả nợ trước
cổ đông thường khi thanh lý tài sản trong trường hợp công ty bò giải thể.


11


Kết luận :
Có nhiều khái niệm về TTTC. Hiểu theo nghóa rộng, TTTC là nơi cung và
cầu về vốn gặp nhau và được điều chỉnh. Hiểu theo nghóa hẹp, TTTC tồn tại với
những hình thức xác đònh như là thò trường tiền tệ và thò trường vốn, thò trường sơ
cấp và thò trường thứ cấp,… Các thành phần tham gia vào TTTC gồm các cá
nhân, doanh nghiệp, các NHTM, các đònh chế tín dụng không phải là ngân hàng
và chính phủ. Trong số đó, NHTM là các trung gian tài chính chi phối trong hầu
hết các quốc gia. Nhờ vào các công cụ tài chính, vốn được luân chuyển từ cung
sang cầu. TTTC với những chức năng trên và các công cụ tài chính đã đóng một
vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế.
1.2

Sự cần thiết của việc phát triển thò trường tài chính ở Việt Nam
* Huy động vốn phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Ngày nay phát triển kinh tế là một thách thức đối với mọi quốc gia, mọi
dân tộc. Phát triển kinh tế nhanh hay chậm không chỉ đem lại sự giàu có thònh
vượng hay nghèo nàn lạc hậu cho đất nước, mức sống cao hay thấp cho nhân dân
mà còn củng cố, nâng cao hay hạ thấp vò trí, vai trò của một đất nước trong cộng
đồng quốc tế. Phát triển chỉ có thể thành công khi có đủ các điều kiện về nguồn
nhân lực, tài nguyên, vốn đầu tư, hệ thống pháp lý hoàn chỉnh và chế độ chính
trò ổn đònh. Ngoài điều kiện về nhân lực dồi dào thì điều kiện về vốn đầu tư là
quan trọng.
Nếu có vốn đầu tư nhưng chính sách, chiến lược phát triển không đúng,
không phù hợp thì cũng không phát huy được hiệu quả của vốn đầu tư, nền kinh
tế sẽ phát triển chậm. Trong một nước có vốn đầu tư còn cần phải có các chính

sách, giải pháp huy động tập trung chuyển giao vốn có hiệu quả cho các nhà đầu
tư, phân bổ và sử dụng vốn vào các mục tiêu, dự án, công trình có tác dụng làm
thay đổi cơ cấu kinh tế, hiện đại hóa công nghệ, tăng tốc độ phát triển.
Tóm lại, quy luật của phát triển là các nguồn tiết kiệm, tích lũy trong xã
hội được huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn tiết kiệm đó (vốn đầu tư) thì
nền kinh tế của đất nước sẽ tăng trưởng với tốc độ cao.
Hệ thống tài chính có vai trò quan trọng trong các hoạt động của nền kinh
tế, thực hiện chức năng thanh toán trong các trao đổi hàng hóa và dòch vụ cũng
như huy động và phân phối các nguồn lực tài chính. Về cơ bản có hai hình thức
huy động vốn. Hình thức thứ nhất là tài chính gián tiếp thông qua sự phát triển
của các trung gian tài chính. Các trung gian tài chính huy động tiết kiệm để cung
cấp tín dụng bởi một loạt các dòch vụ và công cụ huy động vốn. Tuy nhiên, vốn
được huy động thông qua các trung gian tài chính có hạn chế vì phần lớn là vốn
12


ngắn hạn. Vai trò của các trung gian tài chính trong quá trình tiết kiệm – đầu tư
sẽ được phân tích chi tiết trong phần sau. Hình thức thứ hai là thò trường tài chính
trực tiếp. Những người vay vốn tài chính sẽ phát hành cổ phiếu hay trái phiếu để
huy động nguồn lực tài chính. TTTC là hình thức huy động vốn hiệu quả nhất vì
những lý do sau.
1.2.1 Thò trường tài chính là cơ chế phân bổ vốn hiệu quả nhất phục vụ phát
triển kinh tế
Trên TTTC, giá cả của các công cụ tài chính được quyết đònh bởi các áp
lực thò trường sẽ hướng trực tiếp nguồn vốn vào các khu vực và các doanh
nghiệp khác nhau của nền kinh tế. Giá cả phản ánh khả năng sinh lời của các
doanh nghiệp khác nhau. Như vậy, giá cả có vai trò gián tiếp thông qua đó
TTTC có thể phân bổ nguồn vốn. Ví dụ, nếu lợi nhuận của các doanh nghiệp
trong tương lai có thể tăng thì nhu cầu về công cụ nợ được phát hành bởi các
doanh nghiệp này sẽ cao, dẫn đến giá của các công cụ nợ này cao tương đối so

với lợi nhuận hiện tại của nó, làm cho chi phí về vốn của doanh nghiệp thấp.
Chi phí về vốn thấp sẽ khuyến khích đầu tư. Kết quả là TTTC đảm bảo nguồn
vốn khan hiếm được phân bổ đến doanh nghiệp sản xuất hàng hóa và dòch vụ
có lợi nhuận.
Tuy nhiên những lợi thế của TTTC nói trên chỉ có thể đạt được nếu và chỉ
nếu có hệ thống thông tin rỏ ràng và lãi suất (giá cả của vốn) được tự do hóa
thông qua sự quyết đònh của thò trường.
1.2.2

Thò trường tài chính ảnh hưởng đến tiết kiệm và giảm rủi ro

TTTC thiết lập những công cụ tài chính khác nhau tạo nhiều cơ hội đầu
tư cho những người có tiết kiệm và những nhà đầu tư. Người có tiết kiệm khi
mua các công cụ tài chính , ví dụ như cổ phiếu hay cổ phần, sẽ không chỉ được
lợi từ lãi suất mà còn từ sự tăng giá của cổ phiếu. Hơn thế nữa, những cổ đông
còn có quyền điều hành hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đây là một
trong những động cơ khuyến khích người dân tiết kiệm. Ngoài ra TTTC còn giúp
vốn luân chuyển dể dàng dưới hình thức mua bán các công cụ tài chính. TTTC
tạo thuận lợi cho những người đã mua chứng khoán được bán lại một cách dể
dàng, thuận tiện để có thể thu hồi vốn bất cứ lúc nào (ở thò trường cấp hai). Đầu
tư chứng khoán sẽ có lợi, do đó các nguồn tiết kiệm không kể qui mô lớn hay
nhỏ cũng sẽ được huy động thông qua TTTC.
Ngoài ra TTTC là công cụ thúc đẩy các doanh nghiệp phải kinh doanh có
hiệu quả. Theo nguyên tắc hoạt động của TTTC, các doanh nghiệp phải chứng
minh được hiệu quả hoạt động kinh doanh, tình trạng tài chính và triển vọng

13


phát triển. Ví dụ, muốn trở thành thành viên chính thức của TTCK, muốn cổ

phiếu của mình được có tên trong danh sách những cổ phiếu giao dòch trên
TTCK doanh nghiệp phải có đủ những điều kiện của doanh nghiệp lớn làm ăn
nghiêm chỉnh, không vi phạm luật pháp, mức lợi nhuận cao,… Thông thường nhu
cầu về chứng khoán của các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả là cao, vì vậy
giá sẽ cao và ngược lại. Người có tiết kiệm và các nhà đầu tư có thể nhận biết vò
trí của một doanh nghiệp trên thương trường thông qua sự biến động về giá cả
các chứng khoán của doanh nghiệp đó. Vì vậy sự phát triển của TTCK không chỉ
giúp cho các hộ gia đình giảm thiểu các rủi ro thông qua đa dạng hóa đầu tư của
mình mà còn hạn chế những bất lợi do việc thiếu thông tin gây ra.
Ngày nay, các thành phần tham gia trên TTTC như ‘Quỹ đầu tư’ đang
được mở rộng. ‘Quỹ đầu tư’ là loại hình đầu tư phổ biến, đặc biệt đã phát triển ở
Mỹ, Nhật, Anh, Đức, Pháp, Thái Lan, … Với loại hình đầu tư này, mọi người dân
có thể sử dụng một phần nhỏ thu nhập của mình đầu tư vào ‘Quỹ đầu tư’. Các
quỹ này, thông thường là một nguồn vốn đầu tư lớn do việc gom góp từ các
nguồn tiết kiệm nhỏ, sẽ được dùng để mua chứng khoán trên TTTC cho các đầu
tư dài hạn.
* Vai trò của TTTC đối với sự phát triển kinh tế ở Việt Nam.
Việc thiết lập và phát triển TTTC không chỉ có vai trò rất quan trọng đối
với sự phát triển mà còn là yêu cầu tất yếu của quá trình cải cách kinh tế ở Việt
Nam.
1.2.3

Thò trường tài chính là yêu cầu khách quan đối với đổi mới kinh tế

Quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam được bắt đầu thật sự từ 1986 với
Nghò quyết Đại hội Đảng lần thứ VI. Đây là quá trình tiền tệ hóa các hoạt động
kinh tế. Để chuyển sang nền kinh tế thò trường, việc thúc đẩy sự thiết lập và
phát triển ba thò trường cơ bản sau đây là cần thiết : thò trường hàng hóa và dòch
vụ, thò trường lao động, và thò trường tài chính. Trong các thò trường đó thì mức
độ phát triển của TTTC có vai trò quyết đònh bởi vì tiền tệ được xem như là

huyết mạch của nền kinh tế. Sự phát triển của hai thò trường còn lại có tác động
hổ trợ đối với TTTC.
Đổi mới kinh tế đã đưa đến những thay đổi đáng kể trong nền kinh tế Việt
Nam bao gồm khuynh hướng công nghiệp hóa, chính sách nền kinh tế mở, thừa
nhận nền kinh tế nhiều thành phần, tự do hóa giá cả.
Công nghiệp hoá sẽ dẫn đến việc thiết lập các trung tâm thương mại.
GDP tăng, vì thế tiết kiệm và tiêu dùng cũng tăng. Điều này sẽ tác động làm
cho thò trường hàng hóa và thò trường lao động phát triển. Nền kinh tế thò trường
14


buộc các hoạt động kinh tế phải thực hiện theo nguyên tắc hạch toán kinh
doanh. Như thế sẽ nâng cao chất lượng các dòch vụ về hệ thống thông tin liên lạc
và cơ sở hạ tầng. Tất cả những vấn đề này là nền tảng tốt cho TTTC phát triển.
Chính sách nền kinh tế mở đã khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) không chỉ trong lónh vực sản xuất mà còn trong hệ thống ngân hàng. Việc
tăng FDI đã cải thiện hoạt động thanh toán , tín dụng, tín dụng bảo lãnh, …, cũng
như đã tạo điều kiện cho sự gia nhập vào thò trường quốc tế.
Sự chuyển đổi từ nền kinh tế một thành phần sang nền kinh tế nhiều thành
phần đã huy động nguồn lực nhàn rỗi trong dân chúng phục vụ cho sự phát triển
kinh tế và tạo môi trường cạnh tranh cho nền kinh tế thò trường. Sự thừa nhận
nền kinh tế nhiều thành phần đã cho phép các cá nhân và các hộ gia đình tham
gia vào việc kinh doanh nhằm theo đuổi lợi nhuận cá nhân, khuyến khích sự mở
rộng các doanh nghiệp tư nhân. Hơn thế nữa, Hiến pháp 1992 thừa nhận quyền
sở hữu cá nhân. Điều này đảm bảo môi trường luật pháp an toàn cho hoạt động
kinh tế tư nhân phát triển. Khu vực tư nhân trong thời gian qua tồn tại dưới các
hình thức khác nhau như công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn hay các
doanh nghiệp tư nhân. Theo Nghò đònh về công ty trách nhiện hữu hạn và công
ty cổ phần 1990, công ty cổ phần được phép phát hành chứng khoán và cổ phần.
Đây là điều kiện cơ bản cho sự phát triển TTTC.

Tự do hóa giá cả là một thay đổi quan trọng dẫn đến việc thành lập một
thò trường thống nhất. Tự do hóa giá cả được phản ánh thông qua lãi suất và giá
cả hàng hóa. Trong nền kinh tế kế hoạch tập trung, Nhà nước thường sử dụng
công cụ giá cả và lãi suất thấp để hổ trợ cho các doanh nghiệp. Theo chính sách
trước đó của chính phủ là áp dụng lãi suất và giá cả hàng hóa khác nhau đối với
các khu vực kinh tế khác nhau. Khu vực quốc doanh được quyền ưu tiên vay
ngân hàng và được mua nguyên vật liệu với giá thấp. Lãi suất thấp và âm đã
không thu hút tiền gửi nhưng khuyến khích cầu tín dụng. Vì vậy, khoảng cách
giữa cầu và cung tín dụng bò mở rộng. Trong nền kinh tế thò trường, lãi suất phải
phản ánh chính xác sự khan hiếm của nguồn vốn. Tín dụng phải được phân phối
dựa trên khả năng và hiệu suất sản xuất của người vay. Từ năm 1989 lãi suất
được đưa ra dựa vào mối quan hệ với tỷ lệ lạm phát để đảm bảo lãi suất thực
dương. Cải cách giá cả cũng được thực hiện để xóa bỏ những méo mó về giá cả
bằng cách nâng giá trong nước lên gần bằng với giá thò trường quốc tế. Khoảng
giữa 1987 đã không còn hình thức hổ trợ các doanh nghiệp thông qua giá cả
hàng hóa thấp. Nó đã đặt tất cả các doanh nghiệp trước nguyên tắc hạch toán lãi
- lỗ. Cùng thời gian đó, các DNNN được có quyền chủ động hơn trong kinh
doanh. Lúc bấy giờ, Nhà nước chỉ can thiệp gián tiếp thông qua kế hoạch và
chính sách kinh tế vó mô.

15


Tự do hóa giá cả đã giúp thiết lập một thò trường tín dụng lành mạnh và
môi trường kinh tế vó mô ổn đònh cho sự phát triển kinh tế. Và tất cả sự thay đổi
trên là nền tảng cho TTTC phát triển.
1.2.4

Thò trường tài chính là điều kiện cơ bản cho quá trình cổ phần hóa


Song song với những thay đổi trong khu vực kinh tế tư nhân, cải cách kinh
tế được thực hiện cùng với sự đổi mới các DNNN. Trong nền kinh tế kế hoạch
tập trung, DNNN độc quyền đã phá hủy môi trường cạnh tranh và dẫn đến việc
sử dụng nguồn lực không hiệu quả. Vì thế trong những năm qua, tư nhân hóa các
DNNN được thực hiện từng bước dưới hình thức cổ phần hóa. Vào 6/1992, vài
doanh nghiệp đã được chọn cổ phần hóa thí điểm. Quá trình cổ phần hóa được
tiến hành chậm và gặp không ít khó khăn. Kết quả cuối cùng của cổ phần hóa là
chuyển các doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước sang doanh nghiệp thuộc sở
hữu tư nhân toàn phần hay một phần. Cổ phần hóa sẽ không có ý nghóa gì về sự
thay đổi quyền sở hữu nếu tất cả chứng khoán hay cổ phần được bán cho các
DNNN khác. Hiện nay, việc mua cổ phần của các doanh nghiệp đã được cổ
phần hóa chưa là quen thuộc đối với công chúng. Thu nhập của người Việt Nam
vẫn còn thấp, trong khi đó hệ thống tài chính và ngân hàng kém phát triển đã
không cho phép người dân vay mượn hay mua cổ phần. Đây là một trong những
điểm yếu của hệ thống ngân hàng Việt Nam sẽ được phân tích trong chương 2.
Hơn thế nữa, người dân sẽ mua chứng khoán nếu và chỉ nếu họ chắc chắn là
chứng khoán dể dàng được chuyển đổi thành tiền. Điều này chỉ có thể thực hiện
được nếu TTTC phát triển. Như vậy, cổ phần hóa không chỉ là điều kiện mà còn
là nguyên nhân cho sự phát triển của TTTC.
Vì vậy, TTTC có vai trò rất quan trọng đối với việc đầu tư hay đối với các
dự án phát triển kinh tế xã hội. Nhu cầu vốn đầu tư phục vụ phát triển kinh tế
đòi hỏi phải có một TTTC phát triển ở Việt Nam.
Kết luận :
Phát triển TTTC là điều kiện cần thiết phục vụ sự phát triển kinh tế ở
Việt Nam. Trong thời gian qua, những điều kiện cơ bản cho việc thiết lập và
phát triển TTTC ở Việt Nam đã được cải thiện dần dần, thực hiện từ thấp đến
cao, từ giản đơn đến phức tạp, từ thò trường vốn ngắn hạn đến thò trường vốn dài
hạn. Tuy nhiên, ở Việt Nam hệ thống ngân hàng chiếm một vò trí chủ yếu trong
hệ thống tài chính. Sự phát triển của hệ thống ngân hàng là vấn đề hạt nhân của
sự phát triển hệ thống tài chính. Vì vậy chức năng, vai trò của hệ thống ngân

hàng sẽ được trình bày.

16


1.3
Vai trò của hệ thống ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế và thò
trường tài chính
Như đã trình bày ở phần trên, hệ thống ngân hàng là thành phần tích cực,
năng động và chủ đạo nhất trong quá trình hình thành và phát triển TTTC. Thiếu
vai trò của hệ thống ngân hàng (chủ yếu là các NHTM) thì TTTC khó hình
thành và phát triển được.
Sự phát triển kinh tế của một nước phụ thuộc vào khả năng sản xuất của
đất nước đó dựa vào ba yếu tố chủ yếu là lao động, vốn và trình độ kỷ thuật.
Nếu một trong ba yếu tố này được cải thiện thì sẽ góp phần tăng tốc độ tăng
trưởng kinh tế. Sự hình thành và phát triển TTTC nhằm huy động nguồn vốn cần
thiết phục vụ cho quá trình sản xuất. Báo cáo của Ngân hàng thế giới (1989) cho
thấy các nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao thường có TTTC phát triển và
ngược lại. Điều này có nghóa là sự phát triển tài chính có mối quan hệ tỷ lệ
thuận với sự tăng trưởng kinh tế.
Vậy bằng cách nào hệ thống ngân hàng có thể đóng góp cho sự phát triển
kinh tế của một đất nước ? Hệ thống ngân hàng đảm nhận hai chức năng chủ
yếu : (i) đảm bảo một hệ thống thanh toán hiệu quả, (ii) huy động vốn và nâng
cao hiệu quả việc phân bổ vốn đầu tư.
1.3.1

Hệ thống thanh toán

Lòch sử kinh tế cho thấy, hệ thống ngân hàng góp phần to lớn vào sự tăng
trưởng kinh tế thông qua việc thiết lập một hệ thống thanh toán đầy đủ và hiệu

quả. Nếu không có hệ thống ngân hàng, nền kinh tế sẽ là một nền kinh tế tự
cung tự cấp và hoạt động dưới hình thức hàng đổi hàng với hai ý muốn trùng hợp
nhau. Điều này làm cho việc mua bán có chi phí vừa cao vừa mất thời gian hay
chi phí giao dòch cao làm cho sự chuyên môn hóa và khả năng sản xuất bò hạn
chế, ảnh hưởng đến sự tăng trưởng kinh tế. Sự phát triển của nền kinh tế đòi hỏi
phải có vật trung gian trao đổi, vì thế hình thái tiền tệ xuất hiện. Tiền tệ không
chỉ thực hiện chức năng là phương tiện lưu thông mà còn thực hiện chức năng
thước đo giá trò, phương tiện tích lũy và phương tiện thanh toán hoãn hiệu đã phá
vỡ những hạn chế của việc mở rộng thò trường cũng như sự phân công lao động.
Tuy nhiên để đạt được sự tăng trưởng kinh tế không chỉ khả năng sản xuất cần
phải được duy trì mà còn cần phải mở ra các thò trường mới và tiếp tục đa dạng
hóa sản phẩm. Các hoạt động kinh tế ngày càng mở rộng cùng với sự trao đổi
hàng hóa ngày càng phức tạp dẫn đến tiền tệ hóa nền kinh tế. Theo Bertherlemy
và Varoudakis (1996), hệ thống tài chính lạc hậu sẽ làm cho vòng quay tiền tệ
chậm lại, mà đây lại là một yếu tố cần thiết cho sự tăng trưởng. Đây chính là
kinh nghiệm của phần lớn các nền kinh tế phát triển.
17


Hệ thống ngân hàng có vai trò quan trọng trong quản lý hệ thống thanh
toán theo các mối quan hệ tín dụng, mà nó sẽ làm giảm chi phí cơ hội của việc
giữ tiền. Với những lợi thế kỷ thuật trung gian tài chính ngân hàng, hệ thống
thanh toán không chỉ làm giảm chi phí thuộc về thông tin trong sử dụng tín dụng
mà còn dể dàng tạo ra những tài sản tài chính thay thế cho tài sản tiền tệ truyền
thống. nh hưởng của hoạt động tài chính trong GDP cùng số nhân viên trong
khu vực tài chính tăng được kết hợp với tăng trưởng kinh tế. Trong thực tiễn, thế
kỷ XX được xem là có những tiến bộ của các công cụ thanh toán bao gồm thẻ
thanh toán và chuyển tiền điện tử. Các công cụ thanh toán này đã cơ bản nâng
cao hiệu quả hoạt động thanh toán.
Hệ thống tài chính phát triển sẽ cung cấp nhiều dòch vụ tài chính cho các

doanh nghiệp như bảo hiểm (nhằm khắc phục các rủi ro kinh doanh), hay sự bảo
đảm các thõa thuận (bằng cách sử dụng các quyền lựa chọn hay các hợp đồng
tương lai), tín dụng bảo lãnh, thấu chi, chiết khấu thương phiếu, tài trợ cho thuê,
… tư vấn tài chính, các vấn đề về thuế và kế toán, …Các dòch vụ này làm cho
việc kinh doanh trở hấp dẫn và hiệu quả hơn, và vì thế tăng đầu tư trong nền
kinh tế. Tiền tệ hóa nền kinh tế hay sự phát triển tài chính sẽ cung cấp hệ thống
tài chính tiện lợi, rẻ hơn và ít rủi ro hơn. Nó giúp cho nền kinh tế hoạt động
thuận lợi, tăng khả năng sản xuất và thu nhập của nền kinh tế và vì thế tăng
trưởng kinh tế.
1.3.2

Huy động vốn

Trong một nền kinh tế với hệ thống tài chính kém phát triển, có rất ít
hay không có sự chuyển giao tiết kiệm từ các cá nhân đến các cá nhân khác, và
khả năng đầu tư sẽ là toàn bộ tiết kiệm của các cá nhân. Đây chính là mặt hạn
chế cả về vốn đầu tư sẳn có cũng như tính hiệu quả của việc đầu tư, bởi vì nguồn
vốn có thể sử dụng cho đầu tư đã không được sử dụng một cách tối ưu và việc tự
tài trợ làm hạn chế tính hiệu quả của việc phân bổ vốn đầu tư. Sự tồn tại của
TTTC và/hay hệ thống ngân hàng có thể dẫn đến việc huy động tiết kiệm sẳn có
trong nền kinh tế tốt hơn. Sự phát triển tài chính có ảnh hưởng tích cực đến việc
huy động vốn. Các trung gian tài chính tạo ra động lực to lớn đối với người dân
thông qua việc cung cấp những tài sản tài chính với lãi suất tương đối cao và ít
rủi ro. Điều này góp phần trực tiếp nâng cao hiệu suất sử dụng vốn và thúc đẩy
nhanh sự tăng trưởng.
Quả thật, lãi suất kỳ vọng tăng và đa dạng hóa rủi ro đã khuyến khích tiết
kiệm tài chính hơn là đầu tư vào các dự án với lãi suất thấp. Chính điều này trở
lại thúc đẩy hệ thống tài chính phát triển hơn nữa, kết quả là một mạng lưới các
đònh chế tài chính phát triển với một lượng lớn các tài sản tài chính sẽ khuyến
khích các hộ gia đình tiết kiệm hơn trong phần thu nhập của họ mà không tiếp

18


tục tiêu dùng hay đầu tư trực tiếp, bởi vì tiết kiệm có khả năng sinh lời và cũng
tiện lợi hơn trước đó khi mà các công cụ tài chính còn hạn chế. Sự khác nhau
của các tài sản tài chính đã làm thõa mãn sở thích đa dạng danh mục đầu tư của
những người có tiết kiệm khác nhau. Chính điều đó đã khuyến khích tiết kiệm .
Rỏ ràng là sự phát triển các công cụ và thò trường tài chính có ảnh hưởng ‘tiết
kiệm’.
Hơn nữa, sự phát triển vai trò trung gian tài chính khuyến khích gửi tiết
kiệm nhờ giảm những giới hạn về tính thanh khoản của việc cho vay trực tiếp.
Các nhà đầu tư thường có nhu cầu về vốn đầu tư dài hạn bởi vì họ phải đầu tư
vào các tài sản vật chất mà các tài sản này lại cần có thời gian lâu dài để hoàn
thành, đưa vào hoạt động và thu lợi nhuận. Vì vậy họ cần nguồn vốn đầu tư ổn
đònh để tài trợ cho các chiến lược kinh doanh của họ. Do vậy, việc cho vay trực
tiếp không thông qua các trung gian tài chính buộc người có tiết kiệm phải đầu
tư trong thời gian dài hạn, trong khi họ thường thích gửi tiết kiệm ngắn hạn bởi
vì ít rủi ro và tính thanh khoản cao hơn. Việc người có tiết kiệm giữ một phần tài
sản của họ dưới hình thức có tính thanh khoản cao là cần thiết, do bởi họ luôn
phải đối phó với thu nhập bất thường hay khuynh hướng sử dụng tiền tiết kiệm
trong tương lai gần. Các trung gian tài chính như NHTM sẽ thõa mãn yêu cầu
của người có tiết kiệm cũng như đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư bằng việc
vay vốn ngắn hạn và cho vay dài hạn. Các ngân hàng sẽ đáp ứng yêu cầu về
tính thanh khoản cho người có tiết kiệm như cho phép họ rút tiền gửi tiết kiệm
bất cứ lúc nào họ cần, đồng thời đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư nhu không
cần phải trả vốn ngay tức thời.
Mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa giới hạn về tính thanh khoản với tỷ lệ tiết
kiệm và/hay sự tăng trưởng kinh tế đã được chứng minh qua việc nghiên cứu
mẫu gồm các nước thành viên và không thành viên của OECD với giả đònh rằng
xác suất đạt được chỉ có liên hệ về mặt lượng với sự tích lũy vốn hữu hình

(Berthelemy và Varoudakis).
Tính thanh khoản và việc rút tiền tiết kiệm dể dàng làm cho các công cụ
tài chính trở nên hấp dẫn hơn. Ở giai đoạn phát triển kinh tế cao hơn, lãi suất
cao sẽ làm cho người có tiết kiệm ưa chuộng hình thức tiết kiệm tài chính hơn
những hình thức tiết kiệm phi tài chính. Kết quả là tỷ lệ tiết kiệm tài chính trên
tổng tiết kiệm sẽ tăng lên. Trong một nghiên cứu gần đây, số liệu của 81 nước
đang phát triển cho thấy tỷ lệ tài sản nợ có tính thanh khoản trên GDP tăng
0,75% tương ứng với tăng 1% trong tỷ lệ lãi suất danh nghóa trả cho tài khoản
tiền gửi. Xét về tổng thể, lãi suất thực cao hơn gần như dẫn đến tăng trưởng tài
chính bởi vì người có tiết kiệm sẽ chuyển tiết kiệm của họ từ tài sản vật chất
sang tài sản tài chính và chuyển từ tài sản nước ngoài sang tài sản nội đòa.

19


Ngược lại, ở nhiều nước có lãi suất thực âm sẽ không khuyến khích việc giữ tài
sản tài chính (WB 89).
Theo McKinnon (1973), ở các nước đang phát triển, có sự bổ trợ nhau
giữa tiền rộng (broad money), bao gồm tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi có kỳ hạn và
vốn. Bởi vì người có tiết kiệm , chính họ cũng là nhà đầu tư , phải tích lũy tiết
kiệm của họ cho đến khi đủ vốn để đầu tư vào các dự án. Vì vậy lãi suất tiền gửi
cao hơn sẽ khuyến khích quá trình tích lũy vốn đối người có tiết kiệm hơn.
Ngoài ra có nhiều yếu tố tác động đến tỷ lệ tiết kiệm như tốc độ gia tăng
thu nhập, phản ứng của người có tiết kiệm đối với lãi suất cao hơn, những giới
hạn về tính thanh khoản và tính thận trọng của người có tiết kiệm, cơ cấu tuổi
tác của dân số.
Sự phát triển tài chính mang lại lãi suất cao hơn sẽ làm cho tiết kiệm tăng
lên nếu và chỉ nếu người có tiết kiệm quyết đònh hoãn tiêu dùng hiện tại. Nói
cách khác, phản ứng của người có tiết kiệm đối với lãi suất cao hơn là đáng kể.
Phản ứng của người có tiết kiệm đối với lãi suất sẽ tăng cùng với tốc độ tăng

thu nhập của một nước. Ở giai đoạn đầu của sự phát triển, tỷ lệ tiết kiệm sẽ tăng
cùng với mức tăng thu nhập thực tế. Tỷ lệ tiết kiệm tăng mạnh khi một nước
chuyển từ mức thu nhập thấp sang nước mức thu nhập trung bình. Và tiết kiệm
sẽ càng nhạy hơn với sự thay đổi của lãi suất thực khi một nước trở nên giàu có
hơn. Thực tế cho thấy ở các nước đang phát triển nghèo nàn có mức tiêu dùng
thấp hay chỉ một số ít là trên mức đủ sống thì sự phát triển tài chính không thể
làm cho tiết kiệm cao hơn, bởi vì phản ứng của người có tiết kiệm đối với lãi
suất thấp. Ngân hàng thế giới (1989) đã nghiên cứu những vấn đề này và cho
kết quả là : xét về trung bình, các nước đang phát triển với tốc độ tăng trưởng
nhanh có tỷ lệ tiết kiệm cao hơn các nước đang phát triển có tốc độ tăng trưởng
thấp hơn (Bảng 1.1). Những nước có tỷ lệ tăng trưởng cao (trên 7%/năm), tỷ số
GNS/GDP là 28%, trong khi đó các nước có tỷ lệ tăng trưởng thấp (thấp hơn
3%/năm) tỷ số này là 19%. Tỷ số quan trọng dùng để đánh giá sự phát triển tài
chính là M2/GDP được sử dụng cùng với GNS/GDP. Tỷ số M2/GDP là 43% và
23,8% tương ứng đối với các nước có tốc độ tăng trưởng cao và các nước có tốc
độ tăng trưởng thấp.
Những giới hạn về tính thanh khoản và thái độ thận trọng của người có
tiết kiệm có thể ảnh hưởng đến tỷ lệ tiết kiệm theo khuynh hướng ngược lại với
tốc độ gia tăng thu nhập và phản ứng của người có tiết kiệm đối với lãi suất cao.
Với những người tiêu dùng nghèo khó, họ luôn phải đối phó với vấn đề thu nhập
không ổn đònh và khó mà vay tiền của các đònh chế tài chính. Vì vậy nhu cầu
của họ về tiết kiệm có tính thanh khoản và tính thận trọng sẽ tăng. Tỷ lệ tiết
kiệm có thể tăng bởi những ảnh hưởng của giới hạn về tính thanh khoản và thái
20


độ thận trọng của người có tiết kiệm ở các nước đang phát triển, vì ở đó vẫn tồn
tại tình trạng thu nhập không ổn đònh và tự tài trợ.
1.3.3


Nâng cao hiệu quả việc phân bổ vốn

Huy động đủ vốn cho đầu tư là điều kiện cần để một nền kinh tế cất cánh.
Tuy nhiên, chất lượng của việc phân bổ vốn vào các dự án đầu tư là một yếu tố
quan trọng không kém. Như đã phân tích ở phần trên, sự phát triển tài chính làm
cho lãi suất thực tăng lên có thể không làm cho tỷ lệ tiết kiệm cao hơn, nhưng nó
có thể nâng cao hiệu quả của việc phân bổ vốn thông qua các trung gian tài
chính . Các trung gian tài chính phân bổ vốn hiệu quả hơn trong việc chọn lựa
các dự án đầu tư khả thi và có khả năng sinh lời cao, và vì vậy tăng hiệu suất
đầu tư bình quân và sự tăng trưởng sản lượng.
Việc thiết lập cơ cấu tài chính trung gian nhằm giải quyết những khó khăn
trong việc phân bổ vốn đầu tư. Như thế sẽ nâng cao hiệu suất đầu tư.
Thế thì thông qua cơ chế gì mà các trung gian tài chính tác động tích cực
đến sự gia tăng vốn và hiệu suất sử dụng vốn?
Thứ nhất, các trung gian tài chính có thuận lợi trong việc giải quyết khó
khăn về phân bổ vốn chẳng hạn những rủi ro về hiệu suất, sự thiếu thông tin về
tỷ suất thu hồi vốn của dự án đầu tư và khả năng quản lý của doanh nghiệp.
Rủi ro về hiệu suất (Productivity risks), do sáng chế kỷ thuật không hoàn
hảo, và những rủi ro liên quan đến việc mở rộng nhu cầu sản xuất trong tương lai
có ảnh hưởng ngược lai đối với việc phân bổ vốn. Các nhà đầu tư sợ rủi ro sẽ
không dám đầu tư . vì vậy các nhà đầu tư có khả năng đầu tư (các nhà đầu tư
tiềm tàng)có khuynh hướng giữ một phần đáng kể tài sản của họ dưới hình thức
những tài sản có tính thanh khoản, như vậy sẽ ít rủi ro nhưng hiệu suất thấp. Và
các nhà đầu tư có khuynh hướng lựa chọn công nghệ không hiệu quả, vì thế
những rủi ro về tỷ suất thu hồi vốn có thể đïc khắc phục bằng cách đa dạng
hóa công nghệ, sự chuyên môn hóa và cải tiến khả năng sản xuất. Một các gián
tiếp, các trung gian tài chính ngân hàng sẽ ngăn chặn những rủi ro bởi vì họ giúp
các nhà đầu tư đầu tư vào nhiều tổ chức kinh doanh khác nhau. Nhờ sự đa dạng
hóa danh mục đầu tư của trung gian tài chính ngân hàng, ngân hàng cung cấp
cho các chủ tài khoản một sự bảo đảm về tỷ suất thu hồi vốn đầu tư của họ.

Những rủi ro vì vậy được phân nhỏ. Khả năng đa dạng hóa những rủi ro khuyến
khích những người có tiết kiệm giữ một phần lớn hơn trong tài sản của họ (trực
tiếp hoặc gián tiếp thông qua ngân hàng) dưới hình thức vốn sản xuất. Điều này
trở lại đóng góp trực tiếp đến sự tích lũy phục vụ tăng trưởng. Thêm vào đó, với
một hệ thống tài chính phát triển sẽ tạo sự thuận tiện cho việc tiếp cận với thò

21


trường tài chính quốc tế. Giả đònh là các công nghệ có rủi ro cao hơn sẽ có khả
năng sinh lời kỳ vọng cao hơn. Điều đó sẽ thúc đẩy sự hợp nhất các thò trường
vốn, làm cho các nhà đầu tư ở mỗi nước có thể đầu tư vào các dự án đầu tư có
rủi ro cao ở mức độ quốc tế. Kết quả là nguồn vốn đầu tư sẽ được phân bổ vào
những loại dự án đầu tư kích thích sự phát triển toàn cầu.
Ngoài ra sự phát triển của hệ thống tài chính còn giúp giảm thiểu ảnh
hưởng của những rủi ro về thu hồi vốn với sự lựa chọn kỷ thuật thông qua việc
đa dạng hóa những đầu tư, cùng lúc họ chọn lựa công nghệ chuyên môn hóa với
năng suất cao hơn. Berthelemy và Varoudakis (1996) tường thuật lại tác phẩm
của Sait-Paul (1993) rằng trong các nước đang phát triển, nơi mà mức độ phát
triển của khu vực tài chính kém thì không thể nào đa dạng hóa rủi ro về mặt
hiệu suất cũng như về mặt công nghệ.
Thứ hai, việc thiết lập trung gian tài chính có thể giảm rủi ro về tính thanh
khoản. Trong thực tế các dự án đầu tư sản xuất thì không có tính thanh khoản,
cũng có nghóa là bất kỳ một sự mua bán tài sản của những dự án này trước hạn
cho phép đều làm giảm lợi nhuận mà những dự án này lẽ ra sẽ mang lại. Bởi vì
những đầu tư không thể hủy bỏ mà cần một khoảng thời gian nhất đònh để
những qui trình công nghệ thực sự hoạt động và phát huy hiệu quả, và có thể
mang lại lợi nhuận. Với một đầu tư được chuyển đổi thành tiền trước hạn, lợi
nhuận mang lại ít hơn so với lợi nhuận do những tài sản có tính thanh khoản
mang lại, mà thông thường những tài sản có tính thanh khoản thường có lợi

nhuận thấp. Khách hàng có một sự chọn lựa giữa đầu tư có tính thanh khoản và
đầu tư không có tính thanh khoản. Thực tế là có vài khách hàng bò sốc về tính
thanh khoản sau khi thực hiện một đầu tư khởi đầu có tính thanh khoản , nhưng
thực tế chỉ do họ không nhận biết được đầy đủ mà thôi. Điều gì sẽ xảy ra nếu
thay vào đó họ quyết đònh đầu tư vào những dự án đầu tư có tính thanh khoản.
Các trung gian tài chính có thể làm giảm những rủi ro về tính thanh khoản thông
qua việc cho phép các nhà đầu tư đã trãi qua những cú sốc như thế có thể thực
hiện những trao đổi trực tiếp hoặc gián tiếp với các nhà đầu tư khác không bò
buộc phải bán tài sản sản xuất của họ. Một cách trực tiếp, ngân hàng cũng chòu
những rủi ro về tính thanh khoản trong phạm vi là các chủ tài khoản đang bò
thiếu hụt tiền mặt buộc phải rút tiền gửi hàng loạt. Các trung gian tài chính có
thể quản lý những rủi ro về tính thanh khoản này hiệu quả hơn trong toàn bộ nền
kinh tế nhờ đònh luật số đông. Theo đònh luật này, tại một thời điểm không phải
tất cả các chủ tài khoản đều gặp phải tình trạng thiếu hụt tiền mặt, vì thế tình
trạng ngân hàng phải đối phó với những rủi ro về tính thanh khoản thấp hơn so
với so với các cá nhân khách hàng. Vì vậy, ngân hàng có thể giữ một phần trong
danh sách các khoản đầu tư của họ dưới hình thức những tài sản có tính thanh
khoản ít hơn so với các cá nhân khách hàng phải giữ. Điều này dẫn đến sự tăng

22


phần trăm vốn đầu tư vào khu vực sản xuất, góp phần tăng trưởng kinh tế. Kết
quả là các trung gian tài chính có ảnh hưởng tích cực đối với sự tăng trưởng
thông qua việc cung cấp phương cách điều khiển những rủi ro về tính thanh
khoản tốt hơn.
Thứ ba, các trung gian tài chính có một vai trò trong việc theo dõi sự cạnh
tranh của các doanh nghiệp và/hoặc tỷ suất thu hồi vốn đầu tư. Tỷ suất thu hồi
vốn đầu tư của các dự án không chỉ bò ảnh hưởng bởi những rủi ro về hiệu suất
mà còn bởi các nhân tố khác do chất lượng thật sự của các dự án hay kỷ năng

của các doanh nhân chòu trách nhiệm điều hành dự án này. Việc đánh giá các
loại dự án phải liên hệ với số lượng những thông tin về chất lượng của các dự
án. Việc đánh giá này rất quan trong vì nó ảnh hưởng đến quyết đònh chọn lựa
đầu tư. Vẫn rất có khả năng là đầu tư vào các dự án không lợi nhuận mặc dù
những rủi ro về hiệu suất đã được đa dạng hóa. Và toàn bộ chi phí của việc đánh
giá dự án bao gồm chủ yếu là chi phí cố đònh. Mà chi phí này rất cao, làm cho
các nhà đầu tư tư nhân không muốn thực hiện những nghiên cứu, thăm dò dự án
như thế. Điều này làm tăng xác suất đầu tư vào các dự án có nhiều rủi ro, làm
giảm hiệu quả sản xuất của đầu tư và có ảnh hưởng tiêu cực đến kinh tế. Nói
cách khác, các nhà đầu tư tư nhân không thể có sự chọn lựa giữa đầu tư sản xuất
lợi nhuận thấp nhưng không có rủi ro và đầu tư lợi nhuận cao nhưng nhiều rủi ro
về công nghệ do sự thiếu thông tin về tỷ suất thu hồi vốn của những dự án đầu tư
cá nhân, các nhà đầu tư không nhận thấy được những ảnh hưởng của sốc trên
những đầu tư của họ. Vì vậy việc thiết lập các đònh chế chuyên môn hóa trong
việc thu thập và xử lý thông tin về những dự án đầu tư là cần thiết. Hệ thống các
trung gian tài chính có thể được xem là một mạng lưới liên kết số đông các nhà
đầu tư. Như vậy chi phí cố đònh được chia đều cho các nhà đầu tư liên quan. Việc
chia nhỏ chi phí này cũng có nghóa là chi phí thăm dò dự án cao hơn vẫn có thể
được thực hiện, do vậy làm giảm việc đầu tư vào các dự án có rủi ro xấu. Các dự
án đầu tư có hiệu suất sản xuất cao hơn, và điều này đương nhiên có ảnh hưởng
tích cực với sự tăng trưởng. Thêm vào đó, việc thiết lập một mạng lưới như thế
là một lựa chọn hấp dẫn bởi vì thông tin trở nên sẳn có. Nó sẽ giúp các trung
gian tài chính bảo đảm mang lại lợi nhuận cao hơn nhờ nâng cao hiệu quả việc
phân bổ vốn đầu tư : (i) các trung gian tài chính có thể đầu tư trực tiếp vào các
dự án có lợi nhuận tương đối cao hơn nhờ có nhiều thông tin hơn và sự phân tích
chi tiết những cú sốc, (ii) giám sát những sốc hệ thống giúp việc đa dạng hóa rủi
ro tốt hơn trong các dự án đầu tư tư nhân . Điều này có thể đưa đến sự gia tăng
phần vốn đầu tư vào sản xuất dù rủi ro nhưng hiệu suất cao, nhờ vậy góp phần
đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng.


23


Nói chung, thông qua việc trình bày những ảnh hưởng trên, hệ thống tài
chính đóng vai trò trọng tâm trong việc gia tăng vốn huy động và tăng mức độ
đầu tư , và nó có ảnh hưởng không nhỏ đến tăng trưởng kinh tế.
Bên cạnh những ảnh hưởng trên, phát triển tài chính sẽ tạo cơ hội cho
chính phủ quản lý tốt hơn nền kinh tế. Chính phủ thường sử dụng hệ thống tài
chính để phục vụ không những mục đích phát triển mà còn những mục tiêu khác
của đất nước. Chính phủ có thể vay một cách dể dàng để tài trợ cho việc chi
dùng xây dựng cơ sở hạ tầng, giáo dục, và các công trình công cộng khác … cần
thiết cho sự phát triển kinh tế. Ví dụ: ở các nước công nghiệp, sự thâm thụt ngân
sách đïc tài trợ chủ yếu thông qua việc phát hành và bán chứng khoán cho
công chúng ; ở các nước đang phát triển sự thâm thụt ngân sách thường được tài
trợ thông qua vay mượn ngân hàng. Thông qua chính sách tín dụng cho các khu
vực ưu tiên (thường là hổ trợ lãi suất), chính phủ có vai trò trực tiếp trong việc
phân bổ vốn đầu tư, hay thông qua chính sách tiền tệ( kiểm soát việc phát hành
tiền, áp đặt lãi suất trần cho vay đối với NHTM, dự trử bắt buộc, lãi suất chiết
khấu, chính sách tỷ giá hối đoái, công cụ thò trường mở,…) Nhà nước có thể kiểm
soát cung tiền tệ và tín dụng. Vì thế, có thể sử dụng chính sách tiền tệ để điều
khiển lạm phát và ổn đònh kinh tế vó mô và khuyến khích tăng trưởng kinh tế
bằng cách kích cầu.
Kết luận :
Phát triển TTTC đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế. Lập
luận chính là phát triển TTTC cải thiện được mối quan hệ giữa người có tiết
kiệm và nhà đầu tư. Một hệ thống tài chính hiệu quả có thể chuyển vốn từ người
có tiền tiết kiệm sang người vay, và vốn được chuyển trực tiếp đến các dự án
đầu tư hiệu quả hơn và có lợi nhuận cao hơn, nhờ đó đưa đến sự tăng trưởng kinh
tế nhanh hơn. TTTC phát triển cũng cung cấp những phương tiện thanh toán và
những dòch vụ thanh toán khác. Chính điều này tạo ra một môi trường cho thò

trường tài chính hoạt động ổn đònh và nhanh chóng nhằm giảm chi phí và rủi ro,
tăng tính hiệu quả và thu nhập. Ngoài ra khu vực tài chính còn cung cấp những
dòch vụ và công cụ tài chính giúp doanh nghiệp đạt được mục tiêu thương mại và
nhà nước đạt được các mục tiêu chính sách, mục tiêu phát triển.

24


Chương 2: HỆ THỐNG NGÂN HÀNG
VỚI VAI TRÒ TRUNG GIAN TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM
2.1

Khái quát về quá trình thay đổi cơ cấu và phát triển hệ thống ngân hàng

Ngân hàng Quốc gia Việt Nam, nay là NHNN Việt Nam, được thành lập
theo sắc lệnh số 15/SL ngày 6/5/1951. Trước 1988, hệ thống tài chính là hệ
thống ngân hàng một cấp, trong đó NHNN vừa đóng vai trò ngân hàng trung
ương vừa có chức năng NHTM cung cấp tín dụng cho chính phủ và các doanh
nghiệp nhà nước. Bên cạnh đó còn có hai ngân hàng chuyên doanh bao gồm :
Ngân hàng ngoại thương (Vietcombank), Ngân hàng đầu tư và phát triển
(BIDV). Tuy nhiên, các ngân hàng này hoạt động hoàn toàn khác với chức năng
trung gian tài chính của NHTM trong nền kinh tế thò trường. Điều đó có nghóa là
chức năng của Ngân hàng ngoại thương là chuyên kinh doanh về tín dụng và các
dòch vụ ngân hàng về đối ngoại, hối đoái và quản lý việc dự trữ ngoại tệ. Trong
khi đó Ngân hàng đầu tư và phát triển chỉ có chức năng cung cấp vốn dài hạn
cho các dự án cơ sở hạ tầng và các công trình công cộng. Hệ thống ngân hàng
Việt Nam trong thời kỳ này được tổ chức trên khắp đòa bàn hành chính tới cấp
huyện, hoạt động theo nguyên tắc tập trung thống nhất từ Trung ương đến đòa
phương. Trong giai đoạn này các khu vực kinh tế ngoài quốc doanh không được
phép thành lập ngân hàng. Hệ thống ngân hàng bao gồm NHNN và các chi

nhánh ở các tỉnh, thành phố, quận, huyện, và các hợp tác xã tín dụng (còn được
gọi là Quỹ tiết kiệm) nối liền hệ thống NHNN và các khách hàng ở vùng nông
thôn, các tổ chức sản xuất công nghiệp ở thành thò.
Đổi mới hoạt động của hệ thống ngân hàng là một trong những vấn đề
của đổi mới quản lý kinh tế mà Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 quan tâm.
Tuy nhiên cho đến 1988, hệ thống ngân hàng mới có những thay đổi nhỏ và một
hệ thống tài chính hạn chế vẫn được duy trì. Việt Nam vẫn tồn tại một hệ thống
tài chính yếu kém và môi trường kinh tế vó mô vẫn còn chưa ổn đònh. Để đáp
ứng yêu cầu đổi mới toàn diện nền kinh tế, hệ thống ngân hàng đã có những cải
cách nhất đònh. Sự can thiệp của chính phủ trong việc phân bổ vốn giảm dần và
có khuynh hướng chuyển sang phân bổ vốn theo cơ chế thò trường có sự quản lý
của Nhà nước. Theo đó hệ thống ngân hàng Việt Nam bắt đầu đổi mới vào 1988
thay thế hệ thống ngân hàng một cấp bằng hệ thống ngân hàng hai cấp, đổi mới
cơ bản hoạt động của toàn bộ hệ thống theo khuynh hướng phát triển các kênh
sẳn có để thu hút nguồn vốn trong nước và phát huy tính cạnh tranh. NHNN dần
cắt giảm các chức năng của NHTM và vai trò của ngân hàng trung ương là thi
hành chính sách tiền tệ (thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, tín
dụng và ngân hàng đối với nền kinh tế quốc dân; thực hiện độc quyền phát hành

25


tiền, tổ chức thanh toán trong nền kinh tế, thực hiện một số hoạt động kinh
doanh tổng hợp trong hệ thống ngân hàng) nhằm góp phần vào sự phát triển
kinh tế thông qua việc kiểm soát lạm phát. Hơn nữa, sự tách rời NHNN ra khỏi
sự chi phối của Kho bạc nhà nước và Bộ tài chính đã tạo được sự độc lập cho
NHNN trong việc quản lý cung tiền tệ. Kết quả là Ngân hàng công thương
(Incombank) và Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam (Agribank) được thành lập
tách ra từ các chi nhánh NHNN ở các tỉnh, thành phố. Một hệ thống ngân hàng
chuyên doanh gồm 4 ngân hàng do Nhà nước quản lý được thành lập để cung

cấp tín dụng theo kế hoạch của Chính phủ (Nghò đònh 53/HĐBT, ngày
26/3/1988). Hai ngân hàng, Ngân hàng ngoại thương và Ngân hàng đầu tư và
phát triển Việt Nam, vẫn thực hiện các dòch vụ truyền thống của nó. Ngân hàng
công thương Việt Nam cung cấp vốn phục vụ cho hoạt động sản xuất công
nghiệp và thương mại, Ngân hàng nông nghiệp cho vay trực tiếp phục vụ hoạt
động sản xuất nông nghiệp.
Tuy nhiên, trong thực tế NHNN vẫn không thực sự chuyển giao chức năng
kinh doanh thương mại. Nó vẫn còn tiếp tục cung cấp tín dụng cho ngân sách
Nhà nước và các doanh nghiệp nhà nước trong thời kỳ 1988-1990. Để thấy hệ
thống ngân hàng một cấp hoàn toàn chúng ta nghiên cứu hệ số tạo tín dụng (Tỷ
số giữa tổng tín dụng trong nước và tín dụng ngân hàng trung ương cấp cho các
NHTM). Hệ số này bằng một trong trường hợp hệ thống ngân hàng một cấp
hoàn toàn, bởi vì NHTM thất bại trong chức năng huy động vốn hay nói đơn giản
là chức năng này không tồn tại. Hệ số này càng lớn chứng tỏ rằng hệ thống
NHTM hoạt động độc lập với ngân hàng trung ương. Với Việt Nam, hệ số này
trong những năm cuối thập niên 80 ở vào khoảng 1,5 và hầu như gần bằng 1,
một con số rất nhỏ so với các nước khác. Năm 1989 hệ số này gần bằng 1,7 mặc
dù đã có bốn NHTM quốc doanh, nhưng các ngân hàng này đã thất bại trong
chức năng huy động vốn, chuyển giao vốn từ các khu vực phi tài chính (Bảng
2.1)
Sau hơn hai năm hoạt động theo yêu cầu đổi mới nền kinh tế nước ta,
được xem là bước thử nghiệm, đã rút ra nhiều kinh nghiệm cho quá trình tiếp tục
đổi mới hệ thống ngân hàng. Đổi mới căn bản và toàn diện hoạt động của hệ
thống ngân hàng là mũi nhọn đột phá, góp phần tích cực đưa nền kinh tế xã hội
ra khỏi khủng hoảng, từng bước ổn đònh và hội nhập với cộng đồng quốc tế.
Tháng 5/1990 Hội đồng Nhà nước ban hành hai pháp lệnh ‘Pháp lệnh về ngân
hàng Nhà nước và Pháp lệnh về ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài
chính’ có hiệu lực thi hành từ 1/10/1990. Theo hai pháp lệnh này, NHNN là ngân
hàng trung ương có chức năng quản lý nhà nước, sử dụng các công cụ vó mô để
kiểm soát hệ thống tiền tệ và kinh doanh tiền tệ với các biện pháp kiềm chế lạm

phát và thanh tra hoạt động của hệ thống NHTM, chẳng hạn, công cụ dự trữ bắt

26


×