ĐỀ CƯƠNG TRIẾT HỌC DÀNH CHO CAO HỌC
1: vấn đề cơ bản của Triết học... ý nghĩa pp luận
2: các nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật và PP luận
3: cặp phạm trù cái chung và riêng... ý nghĩa pp luận
4: cặp phạm trù bản chất+ hiện tượng ý nghĩa pp luận
5: qui luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và
ngược lại... ý nghĩa pp luận
6: con đường biện chứng của nhận thức, ý nghĩa pp luận
7: mối qhệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, ý nghĩa pp luận
8: qhệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng vs kiến trúc thượng tầng, ý nghĩa pp luận
9: giai cấp + đấu tranh giai cấp
10: bằng nhận thức của mình hãy chứng minh “Hạnh phúc là đấu tranh”
11: Phân tích cơ sở lý luận để rút ra luận điểm muốn chủ trương đường lối của
Đảng , chính sách của nhà nước đúng đắn thì phải xuất phát từ dân?
12: . Quan điểm của triết học Mác - Lênin về bản chất con người, về mối quan hệ
giữa quần chúng nhân dân và cá nhân lãnh tụ trong sự phát triển lịch sử. Ý nghĩa
phương pháp luận của quan điếm này
13: Anh chị hãylàm rõ cơ sở lý luận của con đường đi lên CNXH? Và việc đi lên
CNXH ở Việt Nam?
14: Anh chị hãy làm rõ nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là nguyên
tắc cao nhất của TH MLN?
15: Anh chị hãy trình bày quan điểm của CN MLN về con người và vấn đề xây
dựng con người VN hiện nay?
16: Hãy nêu nhận xét về triết lý phật giáo về thế giới quan và nhân sinh quan?
17: Anh chị hãy nêu nhận xét của mình về tư tưởng của Khổng tử?
18: Anh chị hãy đánh giá quan niệm về Đạo trong Lão tử?
19: Anh chị hãy trình bày nhận xét của mình về Pháp gia?
20: Anh chị hãy làm rõ nhận thức luận và phương pháp luận là một trong những
vấn đề trung tâm của triết học Tây âu thời kỳ cận đại?
Đáp án
Câu 1: Trình bày vấn đề cơ bản của triết học? Ý nghĩa phương pháp luận.
Vấn đề cơ bản nhất của Triết học là mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Sở dĩ mối quan
hệ giữa vật chất và ý thức là vấn đề cơ bản nhất của triết học là bởi vì nó là bản chất tiên
đề, là xuất phát điểm của mọi học thuyết triết học. Bất cứ nhà triết học nào, dù muốn hay
k muốn, dù bằng cách này hay cách khác đều phải giải quyết vấn đề này. Ăng-ghen cũng
đã khẳng định mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là vấn đề cơ bản của triết học hiện
nay.
Vấn đề cơ bản của Triết học có 2 mặt:
1.
Trả lời cho câu hỏi: Giữa vật chất và ý thức, cái nào có trước, cái nào có sau, cái
nào quyết định cái nào?
Để trả lời cho câu hỏi này, trong lịch sử triết học có 3 quan điểm:
Quan điểm 1: Vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau, ý thức quyết định vật chất.
Những người theo quan điểm này được gọi là những người theo chủ nghĩa duy vật.
CNDV có 3 dạng thái:
CNDV ngây thơ: những kết luận mà họ đưa ra về thế giới chủ yếu dựa trên những
kinh nghiệm và việc quan sát sự vật 1 cách trực tiếp. Do vậy, những kết luận mà họ đưa
ra về thế giới nhìn chung là đúng nhưng chưa đủ sâu sắc và không mang bản chất vấn đề.
Đại biểu: Talet, Heraclit, Democrit.
CNDV siêu hình: nó bị ảnh hưởng bởi bộ máy cơ học hữu cơ, tư duy siêu hình
máy móc khi xem xét, quan sát sự vật trong trạng thái tĩnh, không vận động và phát triển,
k có mối liên hệ với sự vật khác. Do vậy, những kết luận mà họ đưa ra về thế giới nói
chung là sai, thậm chí có trường hợp còn méo mó, sai sự thật. Đại biểu: Đêcactơ, Hopxo
CNDV biện chứng (đối lập vs CNDV siêu hình): xem xét, đánh gía các sự vật,
hiện tượng trong trạng thái vận động và phát triển, trong mối quan hệ với các sự vật
khác. Do vậy, những kết luận mà họ đưa ra về thế giới nhìn chung là đã đánh giá được
một cách đầy đủ và trung thực. Đại biểu: Các Mác và Ăng-ghen.
Quan điểm 2: Ý thức là cái có trước, vật chất là cái có sau, ý thức quyết định vật chất.
Những người theo quan điểm này được gọi là những người theo chủ nghĩa duy tâm. Chủ
nghĩa duy tâm có 2 dạng phái:
CNDT khách quan: quan niệm rằng có 1 thế giới tồn tại khách quan, đối lập với
ý thức và nhận thức của con người. Nó vĩnh hằng, luôn vận đông và biến đổi. Trong quá
trình “tha hóa” của nó hình thành nên thế giới hiện thực. Do vậy, theo quan điểm của họ
thì thế giới hiện thực là cái bóng của thế giới tinh thần và chịu sự quyết định của thế giới
tinh thần. Đại biểu: Hê-ghen, Phlaton.
CNDT chủ quan: quan niệm rằng thế giới của chúng ta tồn tại được là do những
cảm xúc phức hợp với nhau. Tất cả sự tồn tại của sự vật đều do ý thức của con người
quyết định, đều phụ thuộc vào ý thức của con người. Đại biểu: Canto, Hyum.
Quan điểm 3: Vật chất và thế giới song song tồn tại, không có cái nào có trước, không
có cái nào có sau, không có cái nào có sau, không có cái nào quyết định cái nào. Đây
được gọi là “Nhị nguyên luận”. Theo thuyết này thì vật chất và ý thức cùng sinh ra thế
giới.
Những người theo chủ nghĩa duy vât và chủ nghĩa duy tâm cùng được gọi chung là
“Nhất nguyên luận”, tức là chỉ có 1 cái sinh ra thế giới, hoặc là vât chất, hoặc là ý thức.
1.
Trả lời cho câu hỏi: Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?
Hay nói cách khác những hình ảnh của con người hay những tri thức mà con người có
được về thế giới có phải là sự phản ánh một cách đầy đủ và trung thực về bản chất của
thế giới hay không?
Để trả lời cho câu hỏi này, trong lịch sử triết học có 2 quan điểm:
Quan điểm 1: Khả tri luận: con người hoàn toàn có khả năng nhận thức được thế giới. Sự
nhận thức của mỗi cá nhân là hữu hạn nhưng sự nhận thức của loài người từ thế hệ này
qua thế hệ khác lại là vô hạn. Thông qua hoạt động thực tiễn, con người hoàn toàn có thể
nhận thức được thế giới. Tuy nhiên, theo thuyêt này thì sự nhận thức được biểu hiện
theo những cách khác nhau:
Những người theo CNDT khách quan cho rằng nhận thức là sự hồi tưởng lại của
linh hồn bất tử.
Những người theo CNDT chủ quan cho rằng nhận thức là cái có sẵn dưới dạng
bẩm sinh. Chủ thể của nhận thức phải biết tạo điều kiện cho tri thức của mình được bộc
lộ, phát huy.
Những người theo quan điểm duy vật biện chứng thì khẳng định nhận thức là một
quá trình lâu dài, gian khổ và phức tạp, đi từ cái chưa biết đến biết và biết nhiều thông
qua sự tác động của con người vào thế giới tự nhiên, từ đó con người hình thành nên tri
thức.
Quan điểm 2: Bất tri luận: Con người hoàn toàn không có khả năng nhận thức được thế
giới. Nếu có nhận thức được thế giới thì đó chỉ là bề ngoài, chứ không nhận thức được
bản chất bên trong.
Ý nghĩa
Chính nhờ việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học mà từ đó hình thành nên các
trường phái triết học khác nhau.
Cuộc chiến giữa trường phái duy tâm và trường phái duy vật từ lúc bắt đầu cho
đên nay vẫn luôn là cuộc chiến gay go, sôi động nhất.
Nghiên cứu thấu đáo các vấn đề cơ bản để từ đó giải thích được hiện tượng mê tín
dị đoan và tìm giải pháp khắc phục.
Câu 2: các nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật và phương pháp luận
1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ sự quy định, sự tác động và chuyển hoá lẫn nhau giữa
các sự vật, hiện tượng, hay giữa các mặt, các yếu tố của mỗi sự vật hiện tượng trong thế
giới; còn khái niệm mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ
của các sự vật, hiện tượng của thế giới, đồng thời dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại ở
nhiều sự vật, hiện tượng của thế giới, trong đó các mối liên hệ phổ biến nhất là những
mối liên hệ tồn tại ở mọi sự vật hiện tượng của thế giới, nó thuộc đối tượng nghiên cứu
của phép biện chứng
Tính khách quan, phổ biến và đa dạng, phong phú là các tính chất cơ bản của mối liên
hệ
Theo quan điểm biện chứng duy vật, các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng của thế
giới là có tính khách quan. Theo quan điểm đó, sự quy định lẫn nhau, tác động lẫn nhau,
làm chuyển hoá lẫn nhau của các sự vật, hiện tượng ( hoặc trong bản thân chúng) là cái
vốn có của nó, tồn tại độc lập không phụ thuộc vào ý chí con người; con người chỉ có thể
nhận thức và vận dụng các mối hiện hệ đó trong hoạt động thực tiễn của mình
Theo quan điểm biện chứng không có một sự vật, hiện tượng hay quá trình nào tồn tại
tuyệt đối biệt lập với các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác. Đồng thời, không có bất
cứ sự vật, hiện tượng nào không phải là một cấu trúc hệ htống, bao gồm những yếu tố
cấu thành với những mối liên hệ bên trong nó, tức là bất cứ một tồn tại nào cũng là một
hệ thống, hơn nữa là hệ thống mở, tồn tại trong mối liên hệ với các hệ thống khác, tương
tác và làm biến đối lẫn nhau.
Quan điểm biện chứng của chủ nghĩa Mác- Lênin còn nhấn mạnh tính phong phú, đa
dạng của các mối liên hệ, thể hiện ở chỗ: các sự vật hiện tượng hay các quá trình khác
nhau đều có những mối liên hệ cụ thể khác nhau, giữ những vị trí, vai trò khác nhau đối
với sự tồn tài và phát triển của nó; mặt khác, cùng một mối liên hệ nhất định của sự vật
nhưng tron những điều kiện cụ thể khác nhau, ở những giai đoạn khác nhau trong quá
trình vận động phát triển của sự vật thì cũng có những tính chất vai trò khác nhau. Đó là
các mối liên hệ bên trong và bên ngoài sự vật, mối liên hệ bản chất và hiện tượng, mối
liên hệ chủ yếu và thứ yếu, mối liên hệ trực tiếp và gián tiếp,v.v…
* Ý nghĩa phương pháp luận
Từ tính khách quan và phổ biến của cá mối liên hệ đã cho thấy trong hoạt động nhận
thức và thực tiễn cần phải có quan điểm toàn diện. Quan điểm toàn diện đòi hỏi trong
nhận thức và xử lý các tình huống thực tiễn cần xem xét sự vật trong mối quan hệ biện
chứng qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và trong
sự tác động qua lại giữa sự vật đó và các sự vật khác. Như vậy quan điểm toàn diện đối
lập với quan điểm phiến diện, siêu hình trong nhận thức và thực tiễn
Từ tính đa dạng và phong phú của các mối liên hệ cho thấy trong hoạt động nhận thức và
thực tiễn khi thực hiện quan điểm toàn diện thì đồng thời cũng cần hải kết hợp với quna
điểm lịch sử cụ thể. Quan điểm lịch sử cụ thể yêu cầu trong việc nhận thức và xử lý các
tình huống trong hoạt động thực tiễn cần phải xét đến những tính chất đặc thù của đối
tượng nhận thức và tình huống phải giải quyết khác nhau trong thực tiễn. Cần phải tránh
và khắc phục quan điểm phiến diện, siêu hình và khắc phục quan điểm chiết trung, nguỵ
biện.
2.Nguyên lý về sự phát triển
Trong phép biện chứng khái niệm về sự phát triển dùng để chỉ quá trình vận động theo
khuynh hướng đi lên: Từ trình độ thấp đến trình độ cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn
thiện hơn. Như vậy phát triển là sự biển đối về chất theo hướng ngày càng hoàn thiện của
sự vật ở những trình độ ngày càng cao hơn. Phát triển cũng là quá trình phát sinh và giải
quyết các mâu thuẫn khách quan vốn có của sự vật; là quá trình thống nhất giữa phủ định
các nhân tố tiêu cực và kế thừa, nâng cao các nhân tố tích cực từ sự vật cũ trong hình thái
mới của sự vật.
Các quá trình phát triển đều có tính khác quan tính phổ biến và tính đa dạng,
phong phú.
Tính khách quan của sự phát triển biểu hiện trong nguồn gốc của sự vận động và phát
triển đó là quá trình bắt nguồn từ bản thân sự vật hiện tượng; là quá trình giải quyết mâu
thuẫn của sự vật hiện tượng đó. Vì vậy phát triển là khách quan, không phụ thuộc ý thức
của con người.
Tính phổ biến của sự phát triển thể hiện ở các quá trình phát triển diễn ra trong mọi
lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy; trong tất cả mọi sự vật, hiên tượng và trong mọi quá
trình, mọi giai đoạn của sự vật, hiệ tượng đó. Trong mỗi qúa trình biến đổi đã có thể bao
hàm khả năng dẫn đến sự ra đời của cái mới, phù hợp với quy luật khách quan.
Tính đa dạng, phong phú của sự phát triển được thể hiện ở chỗ: phát triển là khuynh
hướng chung của mọi sự vật, hiện tượng, song mỗi sự vật, mỗi hiện tượng, mỗi lĩnh vực
hiện thực lại có quá trình phát triển không hoàn toàn giống nhau, Tồn tại ở không gian và
thời gian khác nhau, sự vật sẽ phát triển khác nhau. Trong quá trình phát triển, tác động
của sự vật hiện tượng quá trình khác có thể làm thay đổi chiều hướng phát triển thậm chí
làm sự vật thụt lùi tạm thời hoặc dẫn tới phát trỉen về mặt này và thoái hoá về mặt nọ…
* Ý nghĩa phương pháp luận
Nguyên lý về sự phát triẻn là cơ sở lý luận khoa học để định hướng việcnhận thức và cải
tạo thế giới. Theo nguyên lý ngày trong mọi nhận thức phải có quan điểm phát triển, đòi
hỏi khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, đối lập với sự phát triển. Để nhận thức và giải
quyết bất cứ vấn đề gì trong thực tiễn, một mặt cần đặt sự vật hiện tượng theo khuynh
hướng đi lên của nó; mặt khác, con đường của sự phát triển lại là một quá trình biện
chứng bao hàm tính thuận nghịch đầy mâu thuẫn đòi hỏi phải nhận thức được tính quanh
co, phức tạp của sự vật, hiện tượng trong quá trình phát triển của nó, tức là cần có quan
điểm lịch sử, cụ thể trong nhận thức và giải quyết các vấn đề trong thực tiễn phù hợp với
tính chất đa dạng, phongphú, phức tạp của nó.
Câu 3: Trình bày cặp phạm trù cái chung và cái riêng? Ý nghĩa phương pháp luận.
Cái riêng là phạm trù chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình nhất định.
Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính không những
có ở một kết cấu vật chất nhất định, mà còn được lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng
hay quá trình riêng lẻ khác.
Cái đơn nhất là phạm trù dùng để chỉ những nét, những mặt, những thuộc tính… chỉ có ở
một sự vật, một kết cấu vật chất, mà không lặp lại ở sự vật, hiện tượng, kết cấu vật chất
khác.
* Mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng, cái chung và cái đơn nhất
Phép biện chứng duy vật cho rằng cái riêng, cái chung và cái đơn nhất đều tồn tại khách
quan và có mối liên hệ hữu cơ với nhau. Điều đó thể hiện ở chỗ:
- Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại của
mình.
- Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung
- Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung (vì ngoài những đặc điểm gia nhập
vào cái chúng, cái riêng còn có những đặc điểm riêng biệt mà chỉ riêng nó có – tức cái
riêng còn có cái đơn nhất). Cái chung là cái bộ phận nhưng sâu sắc hơn cái riêng (vì nó
phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ ổn định, tất nhiên, lặp lại ở
nhiều cái riêng cùng loại. Do vậy, cái chung là cái gắn liền với cái bản chất, quy định
phương hướng tồn tại và phát triển của cái riêng)
- Cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình phát triển của sự
vật. Sự chuyển hóa cái đơn nhất thành cái chung là biểu hiện của tiến trình phát triển tiến
lên. Ngược lại, sự chuyển hóa cái chung thành cái đơn nhất là biểu hiện của quá trình cái
cũ, cái lỗi thời bị phủ định.
* Ý nghĩa phương pháp luận
- Vì cái chung là cái sâu sắc, bản chất hơn cái riêng, do đó trong nhận thức và hoạt động
thực tiễn phải biết phát hiện ra cái chung, vận dụng cái chung để cải tạo cái riêng. Nếu
không hiểu biết cái chung sẽ rơi vào tình trạng mò mẫm, mù quáng.
- Vì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, nên bất kỳ cái chung nào khi áp dụng vào
trường hợp riêng cũng cần được chú ý đến các đặc điểm cụ thể, nếu không sẽ rơi vào
bệnh rập khuôn, giáo điều. Ngược lại, nếu xem thường cái chung, tuyệt đối hóa cái riêng
sẽ rơi vào bệnh cục bộ, địa phương chủ nghĩa.
- Cần phải tạo điều kiện cho cái đơn nhất và cái chung chuyển hóa lẫn nhau theo chiều
hướng tiến bộ, có lợi.
Câu 4: Trình bày cặp phạm trù bản chất- hiện tượng? Ý nghĩa phương pháp luận.
Khái niệm
Bản chất là phạm trù chỉ sự tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên,
tương đối ổn định bên trong sự vật, quy định sự vận động và phát triển của sự vật. Hiện
tượng là phạm trù chỉ sự biểu hiện ra "bên ngoài" của bản chất.
Thí dụ: Bản chất một nguyên tố hóa học là mối liên hệ giữa điện tử và hạt nhân, còn
những tính chất hóa học của nguyên tố đó khi tương tác với các nguyên tố khác là hiện
tượng thể hiện ra bên ngoài của mối liên kết giữa điện tử và hạt nhân. Trong xã hội có
giai cấp, bản chất của nhà nước là công cụ thống trị giai cấp, bảo vệ lợi ích của giai cấp
thống trị. Nhưng tùy theo tương quan giai cấp và địa vị của giai cấp trong lịch sử mà sự
thống trị đó được thể hiện dưới hình thức khác nhau.
Bản chất quan hệ giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân trong chủ nghĩa tư bản là
quan hệ bóc lột. Giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư do người công nhân làm ra.
Nhưng biểu hiện của quan hệ này ra ngoài xã hội là quan hệ bình đẳng, hai bên được tự
do thỏa thuận với nhau. Người công nhân có quyền ký hoặc không ký vào bản hợp đồng
với nhà tư sản. Thậm chí nhà tư sản còn chăm lo đến sức khoẻ của người công nhân và
gia đình họ nếu điều đó có lợi cho việc tăng khối lượng giá trị thặng dư.
Phạm trù bản chất gắn liền với phạm trù cái chung, nhưng không đồng nhất với cái
chung. Có cái chung là bản chất, nhưng có cái chung không phải là bản chất. Thí dụ: Mọi
người đều là sản phẩm tổng hợp của các quan hệ xã hội, đó là cái chung, đồng thời đó là
bản chất của con người. Còn những đặc điểm về cấu trúc sinh học của con người như đều
có đầu, mình, và các chi... đó là cái chung, nhưng không phải bản chất của con người.
Phạm trù bản chất và phạm trù quy luật là cùng loại, hay cùng một bậc (xét về mức độ
nhận thức của con người). Tuy nhiên bản chất và quy luật không đồng nhất với nhau.
Mỗi quy luật thường chỉ biểu hiện một mặt, một khía cạnh nhất định của bản chất. Bản
chất là tổng hợp của nhiều quy luật. Vì vậy phạm trù bản chất rộng hơn và phong phú
hơn quy luật.
Bản chất và hiện tượng đều tồn tại một cách khách quan. Quan điểm duy tâm không thừa
nhận hoặc không hiểu đúng sự tồn tại khách quan của bản chất và hiện tượng. Những
người duy tâm chủ quan cho rằng, bản chất không tồn tại thật sự, bản chất chỉ là tên gọi
trống rỗng do con người bịa đặt ra, còn hiện tượng dù có tồn tại nhưng đó chỉ là tổng hợp
những cảm giác của con người, chỉ tồn tại trong chủ quan con người. Những người theo
chủ nghĩa duy tâm khách quan tuy thừa nhận sự tồn tại thực sự của bản chất nhưng đó
không phải là của bản thân sự vật mà theo họ đó chỉ là những thực thể tinh thần. Thí dụ:
Platôn cho rằng, thế giới những thực thể tinh thần tồn tại vĩnh viễn và bất biến là bản
chất chân chính của mọi sự vật. Những sự vật mà chúng ta cảm nhận được chỉ là hình
bóng của những thực thể tinh thần mà thôi. Những quan điểm này không được khoa học
và thực tiễn thừa nhận.
Trái với các quan điểm trên đây, chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng, cả bản chất và
hiện tượng đều tồn tại khách quan là cái vốn có của sự vật không do ai sáng tạo ra, bởi vì
sự vật nào cũng được tạo nên từ những yếu tố nhất định. Những yếu tố này liên kết với
nhau bằng những mối liên hệ khách quan, đan xen, chằng chịt. Trong đó có những mối
liên hệ tất nhiên tương đối ổn định. Những mối liên hệ tất nhiên đó tạo thành bản chất
của sự vật. Vậy, bản chất là cái tồn tại khách quan gắn liền với sự vật; hiện tượng là biểu
hiện ra bên ngoài của bản chất, cũng là cái khách quan không phải do cảm giác của chủ
quan con người quyết định.
+ Mối quan hệ biện chứng
Chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ thừa nhận sự tồn tại khách quan của bản chất và
hiện tượng, mà còn cho rằng, giữa bản chất và hiện tượng có quan hệ biện chứng vừa
thống nhất gắn bó chặt chẽ với nhau, vừa mâu thuẫn đối lập nhau.
+ Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng.
Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng trước hết thể hiện ở chỗ bản chất luôn luôn
được bộc lộ ra qua hiện tượng; còn hiện tượng nào cũng là sự biểu hiện của bản chất ở
mức độ nhất định. Không có bản chất nào tồn tại thuần túy ngoài hiện tượng; đồng thời
cũng không có hiện tượng nào hoàn toàn không biểu hiện bản chất. Nhấn mạnh sự thống
nhất này, V.I.Lênin viết: "Bản chất hiện ra. Hiện tượng là có tính bản chất"1.
Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng còn thể hiện ở chỗ bản chất và hiện tượng về
căn bản là phù hợp với nhau. Bản chất được bộc lộ ra ở những hiện tượng tương ứng.
Bản chất nào thì có hiện tượng ấy, bản chất khác nhau sẽ bộc lộ ở những hiện tượng khác
nhau. Bản chất thay đổi thì hiện tượng biểu hiện nó cũng thay đổi theo. Khi bản chất biến
mất thì hiện tượng biểu hiện nó cũng mất theo.
Tóm lại, bản chất và hiện tượng thống nhất với nhau, chính nhờ sự thống nhất này mà
người ta có thể tìm ra cái bản chất, tìm ra quy luật trong vô vàn các hiện tượng bên
ngoài.
+ Tính chất mâu thuẫn của sự thong nhất giữa bản chất và hiện tượng
Bản chất và hiện tượng thống nhất với nhau, nhưng đây là sự thống nhất của hai mặt đối
lập. Do vậy không phải bản chất và hiện tượng phù hợp nhau hoàn toàn mà luôn bao hàm
cả sự mâu thuẫn nhau. Mâu thuẫn này thể hiện ở chỗ: bản chất phản ánh cái chung, cái
tất yếu, quyết định sự tồn tại và phát triển của sự vật, còn hiện tượng phản ánh cái riêng,
cái cá biệt. Cùng một bản chất có thể biểu hiện ra ở nhiều hiện tượng khác nhau tùy theo
sự thay đổi của điều kiện và hoàn cảnh. Vì vậy hiện tượng phong phú hơn bản chất, còn
bản chất sâu sắc hơn hiện tượng. Bản chất là cái tương đối ổn định, ít biến đổi, còn hiện
tượng là cái thường xuyên biến đổi. Nhấn mạnh điều này, V.I.Lênin viết: "Cái không bản
chất, cái bề ngoài, cái trên mặt, thường biến mất, không bám “chắc”, không “ngồi vững”
bằng “bản chất”2.
Mâu thuẫn giữa bản chất và hiện tượng còn thể hiện ở chỗ, bản chất là mặt bên trong ẩn
giấu sâu xa của hiện thực khách quan; còn hiện tượng là mặt bên ngoài của hiện thực
khách quan đó. Bản chất không được biểu lộ hoàn toàn ở một hiện tượng mà biểu hiện ở
rất nhiều hiện tượng khác nhau. Hiện tượng không biểu hiện hoàn toàn bản chất mà chỉ
biểu hiện một khía cạnh của bản chất, biểu hiện bản chất dưới hình thức đã biến đổi,
nhiều khi xuyên tạc bản chất.
Ý nghĩa phương pháp luận
Bản chất không tồn tại thuần túy mà tồn tại trong sự vật và biểu hiện qua hiện tượng, vì
vậy muốn nhận thức được bản chất của sự vật phải xuất phát từ những sự vật, hiện
tượng, quá trình thực tế. Hơn nữa bản chất của sự vật không được biểu hiện đầy đủ trong
một hiện tượng nhất định nào và cũng biến đổi trong quá trình phát triển của sự vật. Do
vậy phải phân tích, tổng hợp sự biến đổi của nhiều hiện tượng, nhất là những hiện tượng
điển hình mới hiểu rõ được bản chất của sự vật. Nhận thức bản chất của sự vật là một
quá trình phức tạp đi từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất ít sâu sắc đến bản chất sâu
sắc hơn. V.I.Lênin cũng viết rằng: "Tư tưởng của người ta đi sâu một cách vô hạn, từ
hiện tượng đến bản chất, từ bản chất cấp một, nếu có thể nói như vậy, đến bản chất cấp
hai, v.v., cứ như thế mãi"1.
Vì bản chất là cái tất nhiên, cái tương đối ổn định bên trong sự vật, quy định sự vận động
phát triển của sự vật, còn hiện tượng là cái không ổn định, không quyết định sự vận động
phát triển của sự vật. Do vậy nhận thức không chỉ dừng lại ở hiện tượng mà phải tiến đến
nhận thức được bản chất của sự vật. Còn trong hoạt động thực tiễn, phải dựa vào bản
chất của sự vật để xác định phương thức hoạt động cải tạo sự vật không được dựa vào
hiện tượng.
Câu 5: Quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành thay đổi về chất và
ngược lại?Ý nghĩa phương pháp luận.
Đây là một quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật, nó vạch ra cách thức của sự
vận động, phát triển. * Nội dung quy luật: - Mỗi sự vật, hiện tượng đều là một thể thống
nhất của 2 mặt chất và lượng và chúng có quan hệ hữu cơ với nhau. Phép biện chứng duy
vật đã đưa ra và sử dụng các khái niệm: chất, lượng, thuộc tính, độ, điểm nút, bước nhảy
để diễn đạt mối quan hệ giữa chất và lượng trong sự vận động và phát triển của sự vật,
hiện tượng – cách thức vận động, phát triển. - Mối quan hệ biện chứng giữa chất và
lượng. + Từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất. Sự thống nhất giữa
chất và lượng tồn tại trong một độ nhất định khi sự vật còn là nó chưa trở thành cái khác.
Trong mối quan hệ giữa chất và lượng thì chất là mặt tương đối ổn đinh, còn lượng là
mặt biến đổi hơn. Sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng bắt đầu từ sự thay
đổi về lượng. Song không phải bất kỳ sự thay đổi nào về lượng cũng dẫn đến sự thay đổi
về chất ngay tức khắc, mặc dù bất kỳ sự thay đổi nào về lượng cũng ảnh hưởng đến trạng
thái tồn tại của sự vật. Chỉ khi nào lượng biến đổi đến một giới hạn nhất định (điểm nút)
thì mới dẫn đến sự thay đổi về chất. Sự thay đổi căn bản về chất được gọi là bước nhảy.
Như vậy, khi lựợng biến đổi đến điểm nút thì diễn ra bước nhảy, chất mới ra đời thay thế
cho chất cũ, sự vật mới ra đời thay thế cho sự vật cũ, nhưng rồi những lượng mới này lại
tiếp tục biến đổi đến điểm nút mới lại xảy ra bước nhảy mới. Cứ như vậy, quá trình vận
động, phát triển của sự vật diễn ra theo cách thức từ những thay đổi về lựợng dẫn đến
những thay đổi về chất một cách vô tận. Đó là quá trình thống nhất giữa tính tuần tự,
tiệm tiến, liên tục với tính gián đoạn, nhảy vọt trong sự vận động, phát triển. + Sự tác
động trở lại của chất đối với lượng. Khi chất mới ra đời, nó không tồn tại một cách thụ
động, mà có sự tác động trở lại đối với lượng, được biểu hiện ở chỗ, chất mới sẽ tạo ra
một lượng mới cho phù hợp với nó để có sự thống nhất mới giữa chất là lượng. Sự quy
định này có thể được biểu hiện ở quy mô, nhịp độ và mức độ phát triển mới của lượng.
* Ý nghĩa phương pháp luận - Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải chú ý
tích lũy dẫn những thay đổi về lượng, đồng thời phải biết thực hiện kịp thời những bước
nhảy khi có điều kiện chín muồi. - Chống lại quan điểm tả khuynh: chủ quan, nóng vội,
duy ý chí, khi lượng chưa biến đổi đến điểm nút đã thực hiện bước nhảy. - Chống lại
quan điểm hữu khuynh: bảo thủ, trì trệ, khi lượng đã biến đổi đến điểm nút nhưng không
thực hiện bước nhảy. - Phải thấy được tính đa dạng của các bước nhảy, nhận thức được
từng hình thức bước nhảy, có thái độ ủng hộ bước nhảy, tạo mọi điều kiện cho bước nhảy
được thực hiện một cách kịp thời. - Phải có thái độ khách quan và quyết tâm thực hiện
bước nhảy khi hội đủ các điều kiện chin muồi.
Câu 6: Con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý
a. Quan điểm của V.I.Lênin về con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý
Trong tác phẩm Bút ký triết học, V.I.Lênin khái quát con đường biện chứng của sự nhận
thức chân lý như sau: Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu
tượng đến thực tiễn - đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, nhận thức
hiện thực khách quan.
Giai đoạn từ nhận thức cảm tính đến nhận thức lý tính.
Nhận thức cảm tính là giai đoạn mở đầu của quá trình nhận thức. Đó là giai đoạn nhận
thức mà con người trong hoạt động thực tiễn sử dụng các giácquan để tiến hành phản ánh
các sự vật khách quan, mạng tính chất cụ thể, cảm tính với những biểu hiện phong phú
của nó trong mối quan hệ với sự quan sát của con người. Do vậy, trong giai đoạn này con
người mới chỉ phản ánh được cái hiện tượng, biểu hiện bên ngoài của sự vật mà chưa
phản ánh được cái bản chất, quy luật, nguyên nhân của hiện tượng.
Nhận thức cảm tính được thực hiện qua ba hình thức cơ bản là: cảm giác, tri giác và biểu
tượng:
Cảm giác của con người về sự vật khách quan là hình ảnh sơ khai nhất, đơn giản nhất của
quá trình nhận thức nhưng nếu không có nó thì sẽ không có bất cứ nhận thức nào về sự
vật khách quan. Cảm giác là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là cơ sở hình
thành tri giác.
Tri giác là sự phản ánh tương đối toàn vẹn của con người về những biểu hiện của sự vật
khách quan, cụ thể, cảm tính; nó được hình thành trên cơ sở liên kết, tổng hợp những
cảm giác về sự vật đó. Tri giác là hình thức nhận thức cao hơn cảm giác, đầy đủ hơn,
phong phú hơn về sự vật nhưng vẫn chỉ là sự phản ánh đối với những biểu hiện bề ngoài
của sự vật.
Biểu tượng là sự tái hiện hình ảnh về sự vật khách quan vốn đã được phản ánh bởi cảm
giác và tri giác, là hình thức phản ánh cao nhất và phức tạp nhất của giai đoạn nhận thức
cảm tính, là bước quá độ từ nhận thức cảm tính sang nhận thức lý tính, là tiền đề của sự
trừu tượng hóa của giai đoạn nhận thức lý tính.
Nhận thức lý tính lý tính là giai đoạn cao hơn của quá trình nhận thức, đó là sự phản ánh
gián tiếp, trừu tượng và khái quát những thuộc tính, những đặc điểm bản chất của sự vật
khách quan. Đây là giai đoạn nhận thức thực hiện chức năng quan trọng nhất là tách ra
và nắm lấy cái bản chất, có tính quy luật của các sự vật, hiện tượng.
Nhận thức lý tính được thực hiện thông qua ba hình thức cơ bản là khái niệm, phán đoán
và suy lý.
Khái niệm là hình thức cơ bản của nhận thức lý tính, phản ánh những đặc tính bản chất
của sự vật. Sự hình thành khái niệm là kết quả cuae sự khái quát, tổng hợp các đặc điểm,
thuộc tính của sự vật hay một lớp các sự vật. Nó là cơ sở hình thành nên những phán
đoán trong quá trình con người tư duy vềsự vật khách quan. Phán đoán là hình thức cơ
bản của nhận thức lý tính được hình thành thông qua việc liên kết các khái niệm lại với
nhau theo phương thức khẳng định hay phủđịnh một đặc điểm, một thuộc tính nào đó của
đối tượng nhận thức.
Theo trình độ của nhận thức có thể chia thành: phán đoán đơn nhất, phán đoán đặc thù,
phán đoán phổ biến. Phán đoán phổ biến là hình thức phản ánh thể hiện sự bao quát rộng
lớn nhất về thực tại khách quan.
Suy lý là hình thức cơ bản của nhận thức lý tính được hình thành trên cơ sở liên kết các
phán đoán nhằm rút ra tri thức mới về sự vật. Điều kiện để có bất cứ một suy lý nào là
phải trên cơ sở những tri thức đã có dưới dạng những phán đoán, đồng thời tuân theo các
quy tắc lôgic của các loại hình suy luận: suy luận quy nạp (đi từ cái riêng đến cái chung),
suy luận diễn dịch (đi từ cái chung đến cái riêng, cái cụ thể).
Mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính , nhận thức lý tính với thực tiễn.
Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính đều là những nấc thang hợp thành chu trình
nhận thức, chúng thường diễn ra đen xen vào nhau nhưng có chức năng, nhiệm vụ khác
nhau:
Nhận thức cảm tính gắn liền với thực tiễn, với sự tác động của khách thể cảm tính, là cơ
sở cho nhận thức lý tính.
Nhận thức lý tính có tính khái quát cao nhờ đó hiểu được bản chất, quy luật vận động của
sự vật, giúp cho nhận thức cảm tính có được sự định hướng đúng và trở nên sâu sắc hơn.
Nhận thức lý tính mới chỉ đạt được những tri thức về đối tượng nhưng những tri thức đó
có chính xác hay không cần phải có sự kiểm nghiệm của thực tiễn, tức là nhận thức nhất
thiết phải quay trở về với thực tiễn, dùng thực tiễn để đo lường tính chân thực của nhận
thức. Mặt khác, mọi nhận thức, suy đến cùng đều là xuất phát từ nhu cầu thực tiễn và trở
lại phục vụ thực tiễn.
Tóm lại, quy luật chung của quá trình nhận thức là: từ thực tiễn đến nhận thức - tái thực
tiễn - tái nhận thức...quá trình này không có điểm dừng cuối cùng, nhờ đó mà quá trình
nhận thức đạt dần tới tri thức ngày càng đầy đủ hơn, đúng đắn hơn, sâu sắc hơn về thực
tại khách quan. Đây cũng chính là quan điểm về tính tương đối của nhận thức của con
người trong quá trình phản ánh thực tại khách quan.
Quy luật chung của nhận thức có ý nghĩa quan trọng về mặt phương pháp luận, giúp
chúng ta nắm được quy luật khách quan của quá trình nhận thức đồng thời đây cũng
chính là phương pháp học tập, nghiên cứu khoa học và hoạt động thực tiễn; học đi đôi
với hành; học liên tục, suốt đời tránh bệnh tự mãn hoặc hời hợt trong hoạt động nhận
thức.
b. Chân lý và vai trò của chân lý với thực tiễn
Mọi quá trình nhận thức đều sáng tạo ra những tri thức, tức những hiểu biết của con
người về thực tế khách quan, nhưng không phải mọi tri thức đều có nội dung phù hợp với
thực tế khách quan. Thực tế lịch sử chứng minh rằng những tri thức mà con người đạt
được có nhiều trường hợp không phù hợp thậm chí hoàn toàn đối lập với thực tế khách
quan.
Khái niệm chân lý
Khái niệm chân lý được dùng để chỉ những tri thức có nội dung phù hợp với thực tế
khách quan mà sự phù hợp đó đã được kiểm tra và chứng minh bởi thực tiễn.
Theo nghĩa như vậy, khái niệm chân lý không đồng nhất với khái niệm tri thức và cũng
không đồng nhất với khái niệm giả thuyết (dù là những giả thuyết khoa học), đồng thời
chân lý là một quá trình. Theo V.I.Lênin “sự phù hợp giữa tư tưởng và khách thể là một
quá trình: tư tưởng (= con người) không nên hình dung chân lý dưới dạng đứng im, một
bức tranh (hình ảnh) đơn giản, nhợt nhạt (lờ mờ), không khuynh hướng, không vận
động”.
Các tính chất của chân lý:
Mọi chân lý đều có tính khách quan, tính tương đối, tính tuyệt đối và tính cụ thể
Tính khách quan của chân lý là chỉ tính độc lập về nội dung phản ánh của nó đối với ý
chí chủ quan của con người; nội dung của tri thức phải phù hợp với thực tế khách quan,
thuộc về thế giới khách quan, do thế giới khách quan quy định.
Khẳng định chân lý có tính khách quan là một trong những điểm cơ bản phân biệt quan
niệm về chân lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng với chủ nghĩa duy tâm và thuyết bất
khả tri – là những học thuyết phủ nhận sự tồn tại khách quan của thế giới vật chất và phủ
nhận khả năng của con người nhận thức được thế giới đó.
Tính tuyệt đối và tính tương đối của chân lý
Tính tuyệt đối của chân lý là chỉ tính phù hợp hoàn toàn và đầy đủ giữa nội dung phản
ánh của tri thức với hiện thực khách quan. Về nguyên tắc chúng ta có thể đạt đến chân lý
tuyệt đối vì không có sự vật, hiện tượng nào mà con người hoàn toàn không thể nhận
thức đựợc song khả năng đó lại bịhạn chế bởi những điều kiện cụ thể của từng thế hệ
khác nhau, của từng thực tiễn cụ thể và bởi điều kiện xác định về không gian và thời gian
của đối tượng được phản ánh...do đó chân lý có tính tương đối.
Tính tương đối của chân lý là tính phù hợp nhưng chưa hoàn toàn đầy đủ giữa nội dung
phản ánh của những tri thức đã đạt được với hiện thực khách quan mà nó phản ánh mà
mới chỉ đạt được sự phù hợp từng phần, từng bộ phận, ở một số mặt, khía cạnh nào đó và
trong những điều kiện nhất định.
Chân lý tuyệt đối và chân lý tương đối không tồn tại tách rời nhau mà có sự thống nhất
biện chứng với nhau. Một mặt, chân lý tuyệt đối là tổng sốcủa các chân lý tương đối; mặt
khác trong mỗi chân lý mang tính tương đối bao giờ cũng chứa đựng những yếu tố của
tính tuyệt đối. Chân lý tuyệt đối và chân lý tương đối là hai mặt của một chân lý cụ thể.
Một chân lý cụ thể vừa có tính tuyệt đối (vì nếu áp dụng trong điều kiện cụ thể của nó thì
nó luôn luôn đúng và không bao giờ trở thành sai lầm), vừa có tính tương đối (vì nó chưa
đầy đủ, chưa toàn diện, nếu áp dụng trong điều kiện khác thì sẽ trở thành sai lầm).
Như vậy, không thể có chân lý vĩnh cữu, tức chân lý bất di bất dịch. Tư duy con người
trong quá trình tiến lên vô cùng tận ngày càng tiệm cận đến chân lý tuyệt đối, chứ không
bao giờ có thể đạt được một cách đầy đủ, hoàn toàn.
Tính cụ thể của chân lý là đặc tính gắn liền và phù hợp giữa nội dung phản ánh với một
đối tượng nhất định cùng các điều kiện, hoàn cảnh lịch sửcụ thể. Bất kỳ chân lý nào cũng
có gắn liền với những điều kiện lịch sử cụ thể, do đó “ không có chân lý trừu tượng, chân
lý luôn luôn là cụ thể.
Vai trò của chân lý đối với thực tiễn
Để sinh tồn và phát triển, con người phải tiến hành các hoạt động thực tiễn nhưng hoạt
động thực tiễn chỉ có thể thành công và có hiệu quả khi con người có tri thức đúng đắn
về thực tế khách quan và vận dụng đúng đắn tri thức đó trong hoạt động thực tiễn do vậy,
chân lý là một trong những điều kiện tiên quyết đảm bảo sự thành công và tính hiệu quả
của hoạt động thực tiễn.
Mối quan hệ giữa chân lý và hoạt động trong thực tiễn là mối quan hệ song trùng trong
quá trình vận động, phát triển của cả chân lý và thực tiễn.
Chân lý phát triển nhờ thực tiễn nhưng thực tiễn lại phát triển nhờ vận dụng đúng đắn
những chân lý mà con người đã đạt được trong hoạt động thực tiễn.
Ý nghĩa phương pháp luận
Quan điểm biện chứng về mối quan hệ giữa chân lý và thực tiễn đòi hỏi trong hoạt động
nhận thức con người phải xuất phát từ thực tiễn để đạt được chân lý, coi chân lý là một
quá trình, đồng thời phải thường xuyên tự giác vận dụng chân lý vào hoạt động thực tiễn
để phát triển thực tiễn.
Coi trọng tri thức khoa học và tích cực vận dụng sáng tạo những tri thức đó vào các hoạt
động kinh tế xã hội, nâng cao hiệu quả của hoạt động thực tiễn của con người. Về thực
chất đó chính là việc phát huy vai trò của chân lý khoa học trong hoạt động thực tiễn.
Câu 7: Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Ý
nghĩa phương pháp luận.
Lực lượng sản xuất là khái niệm dùng để chỉ việc con người chinh phục giới tự nhiên
bằng tất cả sức mạnh hiện thực của mình trong quá trình thực hiện sự sản xuất xã hội, là
cái nói lên năng lực của con người trong quá trình sản xuất tạo ra của cải xã hội .
Lực lượng sản xuất được tạo thành do sư kết hợp giữa lao động với tư liệu sản xuất mà
trước hết là với công cụ lao động, cũng như khoa học .
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong sản xuất và tái sản xuất, bao
gồm : các quan hệ sở hửu đối với tư liệu sản xuất, các quan hệ trong tổ chứcquản lý và
sản xuất, các quan hệ trong phân phối sản phẩm sản xuất .
Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất phụ thuộc và tác động lẫn nhau một cách biện
chứng và biểu hiện thành một trong những quy luật cơ bản nhất của sự vận động của đời
sống xã hội .
Sự biến đổi cửa sản xuất luôn luôn theo chiều tiến bộ, và xét cho cũng bắt đầu từ sự biến
đổivà phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết là công cụ lao động . Cùng với sự phát
triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất cũng hình thành và biến đổi cho phù hợp
với trình độ của lực lượng sản
xuất . Đương nhiên, khi trình độ của lực lượng sản xuất phát triển thì tính chất của cũng
phát triển theo .
Trình độ của lượng sản xuất là khái niệm nói lên khả năng của con người thực hiện quá
trình biến đổi và thích nghi với giới tự nhiên nhằm bảo đảm cho sự sinh tồn và phát triển
của mình thông qua công cụ lao động . Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là sản
phẩmcủa sự kết hợp giữa các nhân tố:
•Trình độ của công cụ lao động
•Trình độ tổ chức lao động xã hội
•Trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất
•Trình độ kinh nghiệm và kỹ năng lao động của con người
•Trình độ phân công lao động
Tính chất của lực lượng sản xuất là khái niệm nêu lên tính chất xã hội hoá của tư liệu sản
xuất và của lao động . Ứng dụng với sự phát triển của nền sản xuất xã hội được thể hiện
thông qua sự phát triển của công cụ lao động, tính chất xã hội của lực lượng sản xuất
cũng biến đổi . Tuy vậy, trong nền sản xuất xã hội đôi khi trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất không đi đôi với tính chất xã hội hoá của nó .
Tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất phản ánh khả năng chinh phục giới tự nhiên
của con người : khả năng này chỉ đạt tới đỉnh cao khi quan hệ sản xuất phù hợp với trình
độ phát triển của lượng sản xuất .
Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lượng sản xuất là một trạng
thái trong đó các yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất tạo địa bàn đầy đủ cho lực lượng sản
xuất phát triển . Chỉ khi nào cả ba mặt của quan hệ sản xuất thích ứng với trình độ của
lực lượng sản xuất, tạo điều kiện tốt nhất cho việc sử dụng và kết hợp giữa lao động và
tư liệu sản xuất thì sẽ tạo ra cơ sở phát triển hết khả năng của ực lượng sản xuất .
Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một trình độ mới với tính chất xã hội hoá ở mức
cao hơn sẽ xuất hiện mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất sẽ chuyển
thành không phù hợp . Mâu thuẫn càng trở nên gay gắt tất yếu sẽ dẫn tới việc xã hội phải
xoá bỏ bằng cách này hay cách khác quan hệ sản xuất cũ và thay bằng quan hệ sản xuất
mới, phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất đã thay đổi, mở đường cho lực lượng
sản xuất phát triển . Điều này sẽ dẫn tới sự diệt vong của phương thức sản xuất cũ và sự
ra đời của phương thức sản xuất mới .
Như vậy, lượng sản xuất quyết định sự hình thành và phát triển của quan hệ sản xuất,
một khi lượng sản xuất đã biến đổi thì sớm hay muộn thì quan hệ sản xuất cũng phải biến
đổi cho phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất mới .
Tuy vậy, quan hệ sản xuất cũng thể hiện tính độc lập tương đối với lượng sản xuất . Quan
hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất, quy định mục đích xã hội của sản xuất,
tác động đến khuynh hướng phát triển của công nghệ . Tren cơ sở đó hình thành một hệ
thống những yếu tố thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của một lực lượng sản xuất .
Khi quan hệ sản xuất phù hợp, phát triển hợp lý và đồng bộ với lực lượng sản xuất thì sẽ
thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, trong trường hợp ngược lại, quan hệ sản
xuất sẽ kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển . Nếu quan hệ sản xuất lạc hậu hơn hoặc
“tiên tiến” hơn một cách giả tạo cũng sẽ làm cho lực lượng sản xuất không phát triển .
Khi mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đã trở nên gay gắt, đòi hỏi
phải giải quyết, song con người không phát hiện được, hay khi đã phát hiện được mà
không giải quyết, hoặc giải quyết một cách sai lầm …thì không thể phát triển được lực
lượng sản xuất, thậm chí còn phá hoại lực lượng sản xuất .
Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất là quy
luật phổ biến tác động tới toàn bộ quá trình phát triển của lịch sử loài người từ xã hội
công xã nguyên thuỷ đến xã hội cộng sản tương lai và là quy luật cơ bản nhất trong hệ
thống các quy luật xã hội .
Câu 8: Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến thức thượng tầng? Ý nghĩa
phương pháp luận.
Biện chứng của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng có những nội dung cơ bản sau:
Lần đầu tiên trong Lời tựa, Mác đưa ra khái niệm về cơ sở hạ tầng (cơ cấu kinh tế) và
kiến trúc thượng tầng một cách tương đối hoàn chỉnh. Ông cho rằng, mỗi xã hội có một
kết cấu kinh tế đặc trưng riêng, tức là cơ sở hiện thực của xã hội, trên đó nảy sinh một
kiến trúc thượng tầng tương ứng: “Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy họp thành cơ cấu
kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng
pháp lý và chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện
thực đó”. Mác đã vạch rõ sự thống nhất của những hiện tượng kinh tế, xã hội, chính trị,
tư tưởng của đời sống xã hội và chỉ ra rằng, xét đến cùng, những hiện tượng ấy đều do sự
phát triển của sản xuất vật chất quyết định. Bởi vậy, với khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến
trúc thượng tầng, Mác đã cung cấp chìa khoá để nhận thức một cách duy vật mọi hiện
tượng xã hội.
Xuất phát từ việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học, áp dụng vào nghiên cứu và nhận
thức đời sống xã hội, Mác đã chỉ ra được mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và
kiến trúc thượng tầng của xã hội. Cơ cấu kinh tế của xã hội của mỗi thời đại nhất định
tạo nên cái cơ sở hiện thực mà xét đến cùng, phải bằng cái cơ sở hiện thực ấy mà giải
thích toàn bộ kiến trúc thượng tầng bao gồm các thể chế pháp luật và chính trị, cũng như
quan niệm tôn giáo, triết học và các quan niệm khác của mỗi thời kỳ lịch sử xã hội nhất
định. Mác khẳng định tính chất quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng
tầng: “Cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ cái kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn
ít nhiều nhanh chóng”. Luận điểm đó của Mác không mảy may gạt bỏ tính độc lập tương
đối của kiến trúc thượng tầng, vai trò tích cực của chính quyền nhà nước, của các hình
thái ý thức xã hội như pháp luật, đạo đức, tôn giáo, triết học,…
Mác cũng lưu ý rằng, không phải cơ sở hạ tầng (cơ cấu kinh tế) thay đổi thì ngay lập tức
làm cho toàn bộ kiến trúc thượng tầng “đồ sộ” phải “đảo lộn”. Chính do tính độc lập
tương đối nên kiến trúc thượng tầng chỉ “bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng” mà thôi. Ông
đã chỉ ra phương pháp luận: khi xem xét “những cuộc đảo lộn ấy, bao giờ cũng cần phân
biệt cuộc đảo lộn vật chất - mà người ta có thể xác nhận với một sự chính xác của khoa
học tự nhiên - trong những điều kiện kinh tế của sản xuất, với những hình thái pháp lý,
chính trị, tôn giáo, nghệ thuật hay triết học, với những hình thái tư tưởng trong đó con
người ý thức được cuộc xung đột ấy và đấu tranh để giải quyết cuộc xung đột ấy”. Bởi
vì, “nếu ta không thể nhận định về một người căn cứ vào ý kiến của chính người đó đối
với bản thân, thì ta cũng không thể nhận định về một thời đại đảo lộn như thế căn cứ vào
ý thức của thời đại ấy. Trái lại, phải giải thích ý thức ấy bằng những mâu thuẫn của đời
sống vật chất, bằng sự xung đột hiện có giữa các lực lượng sản xuất xã hội và những
quan hệ sản xuất xã hội”.
Phương pháp luận nghiên cứu lịch sử xã hội ấy bắt nguồn từ một những nguyên lý cơ
bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử, đó là tính chất quyết định của tồn tại xã hội đối với ý
thức xã hội: “Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định các quá trình sinh hoạt
xã hội, chính trị và tinh thần nói chung. Không phải ý thức của con người quyết định tồn
tại của họ; trái lại, tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ”. Như thế, chỉ khi nào
hiểu được những điều kiện sinh hoạt vật chất của mỗi thời đại tương ứng, khi nào tất cả
những cái khác được rút ra từ những điều kiện vật chất ấy thì mới có thể hiểu được tất cả
các quan hệ xã hội, các hệ thống tôn giáo, pháp luật và tất cả các quan điểm lý luận và tư
tưởng đã xuất hiện trong lịch sử. Luận điểm đó, theo Ăng-ghen, là một phát minh có tác
dụng cách mạng hoá không chỉ đối với môn kinh tế chính trị mà còn đối với tất cả các
môn khoa học lịch sử nữa. Còn luận điểm nói rằng ý thức của con người phụ thuộc vào
tồn tại xã hội của họ, chứ không phải ngược lại, xem ra rất đơn giản, đã giáng một đòn
chí mạng vào mọi thứ chủ nghĩa duy tâm, ngay cả đối với chủ nghĩa duy tâm ẩn dấu nhất
và phủ định tất cả mọi quan điểm quen thuộc về lịch sử trước Mác, làm cho toàn bộ
phương thức tư duy chính trị cổ truyền bị sụp đổ. Quan điểm cơ bản đó "vẫn xuyên qua
như một sợi chỉ đỏ" tất cả mọi hành động của con người và khẳng định tất cả mọi hoạt
động chính trị đều phát sinh từ những sự thúc đẩy vật chất trực tiếp chứ không phải từ
những câu nói đi kèm theo những hành động ấy. Như vây, phải xuất phát từ tồn tại xã hội
để giải thích ý thức xã hội.
Câu 9 Giai cấp và vai trò của đấu tranh giai cấp đối với sự phát triển của xã hội có
đối kháng giai cấp
a) Khái niệm giai cấp
khái niệm giai cấp dùng để chỉ "những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về
địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về
quan hệ của họ (thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận)
đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội, và như
vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ
được hưởng".
Theo khái niệm sự phân hóa những con người trong một cộng đồng xã hội thành các giai
cấp khác nhau, đối lập nhau chính là do có sự khác nhau và đối lập nhau về địa vị của họ
trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định và do vậy,: theo V.I.Lênin: "Giai cấp là những
tập đoàn người mà tập đoàn này có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do chỗ
các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định". Thực
chất của sự phân hóa giai cấp trong xã hội chính là sự phân hóa những con người trong
một cộng đồng xã hội thành những kẻ bóc lột và những người bị bóc lột.
Thực tiễn lịch sử cũng đã chứng minh: giai cấp nào nắm được tư liệu sản xuất chủ yếu
của xã hội thì cũng đồng thời có khả năng chiếm được địa vị làm chủ quyền lực chính trị
và quyền lực nhà nước, do đó có khả năng khách quan trở thành giai cấp thống trị xã hội,
thực hiện được việc chiếm đoạt lao động của giai cấp khác và duy trì được tình trạng
tương đối ổn định của xã hội trong điều kiện có đối kháng giai cấp
Khái niệm giai cấp không đơn thuần là một khái niệm của khoa học chính trị mà đó còn
là một khái niệm phản ánh mối quan hệ khách quan giữa lĩnh vực kinh tế và lĩnh vực
chính trị của xã hội; phản ánh mối quan hệ kinh tế chính trị giữa các tập đoàn người
trong một điều kiện lịch sử nhất định. Đó là mối quan hệ không chỉ có sự khác biệt mà
còn có tính chất đối lập của họ trên phương diện kinh tế và chính trị. Từ đó cho thấy:
việc phân tích những vấn đề về kết cấu chính trị cần phải gắn liền với việc phân tích kết
cấu kinh tế của xã hội theo quan điểm lịch sử, cụ thể.
Để phân tích và xử lý chính xác những vấn đề về kết cấu chính trị xã hội không những
cần nắm vững khái niệm giai cấp theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-lênin mà còn cần
phải nắm vững khái niệm tầng lớp xã hội. Khái niệm tầng lớp xã hội thường được sử
dụng để chỉ sự phân tầng, phân lớp, phân nhóm giữa những con người trong cùng một
giai cấp theo địa vị và sự khác biệt cụ thể của họ trong giai cấp đó như: tầng lớp công
nhân làm thuê lao động giản đơn, lao động phức tạp, lao động chuyên gia, v.v...; mặt
khác, khái niệm này cũng còn được dùng để chỉ những nhóm người ngoài kết cấu các
giai cấp trong một xã hội nhất định như: tầng lớp công chức, trí thức, tiểu nông, v.v...
b) Nguồn gốc giai cấp
C.Mác khẳng định: "Sự tồn tại của các giai cấp chỉ gắn liền với những giai đoạn phát
triển lịch sử nhất định của sản xuất".
Nguồn gốc trực tiếp của sự phân hóa giai cấp trong xã hội chính là do sự ra đời và tồn tại
của chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, đặc biệt là đến một mức độ làm cho
năng suất lao động tăng lên, do vậy mà thời gian lao động đã có thể chia thành hai phần
là lao động tất yếu và lao động thặng dư với biểu hiện trực tiếp của nó là sự dư thừa của
cải tương đối trong cộng đồng xã hội. Hơn nữa, sự tồn tại của chế độ chiếm hữu tư nhân
hay cộng đồng xã hội về tư liệu sản xuất lại không phải là theo ý muốn chủ quan mà là
tuân theo quy luật khách quan - quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất. Vì vậy, nguồn gốc sâu xa của sự phân hóa giai cấp trong xã hội
chính là do tình trạng phát triển chưa đầy đủ của lực lượng sản xuất. Khi lực lượng sản
xuất đã đạt tới mức đầy đủ của nó thì chính nó lại là nguyên nhân khách quan của việc
xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và do đó dẫn tới sự xóa bỏ giai cấp,
đối kháng và đấu tranh giai cấp trong xã hội. Đó là vấn đề thực tiễn của chủ nghĩa xã hội
và đặc biệt là của xã hội xã hội cộng sản chủ nghĩa trong tương lai.
Con đường hình thành, phát triển giai cấp có thể diễn ra với những hình thức khác nhau,
mức độ khác nhau ở các cộng đồng xã hội khác nhau trong lịch sử. Điều đó tùy thuộc sự
tác động cụ thể của các nhân tố khách quan và chủ quan đến tiến trình vận động, phát
triển của mỗi cộng đồng người. Tuy nhiên có thể khái quát quá trình hình thành, phát
triển giai cấp ở các cộng đồng người trong lịch sử ở hai hình thức cơ bản, đó là: hình
thức hình thành, phát triển giai cấp diễn ra chủ yếu với sự tác động của nhân tố bạo lực
và hình thức hình thành phát triển giai cấp diễn ra chủ yếu với sự tác động của quy luật
kinh tế phân hóa những người sản xuất hàng hóa trong nội bộ cộng đồng xã hội. Ngoài
ra, trong thực tế lịch sử còn diễn ra quá trình tác động đồng thời của cả hai nhân tố đó.
c) Vai trò của đấu tranh giai cấp đối với sự vận động, phát triển của xã hội có đối
kháng giai cấp
Theo V.I. Lênin, khái niệm đấu tranh giai cấp dùng để chỉ "cuộc đấu tranh của quần
chúng bị tước hết quyền, bị áp bức và lao động, chống bọn có đặc quyền, đặc lợi, bọn áp
bức và bọn ăn bám, cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay những
người vô sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản’’. Theo khái niệm này, thực
chất của đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh của những người lao động làm thuê, những
người nô lệ bị áp bức về chính trị-xã hội và bị bóc lột về kinh tế chống lại sự áp bức và
bóc lột nó; nhằm giải quyết vấn đề mâu thuẫn lợi ích kinh tế và chính trị xã hội giữa giai
cấp thống trị và bị thống trị ở những phạm vi và mức độ khác nhau. Trong thực tế lịch
sử, cuộc đấu tranh giai cấp thể còn mang những hình thức đấu tranh dân tộc, tôn giáo,
văn hóa và có thể có nhiều hình thức đa dạng khác.
Để khống chế và đàn áp những cuộc đấu tranh giai cấp của những người lao động làm
thuê, những người nô lệ, nhằm duy trì và thực hiện được sự bóc lột của nó, các giai cấp
thống trị trong lịch sử phải sử dụng đến sức mạnh bạo lực có tổ chức - đó là nhà nước
với những đội vũ trang đặc biệt và hệ thống pháp luật nhằm duy trì trật tự của sự thống
trị giai cấp. Vì vậy, vấn đề chính quyền nhà nước, quyền lực nhà nước là vấn đề trung
tâm và cơ bản của cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội. Bất cứ cuộc đấu tranh giai cấp
nào nếu chưa giải quyết được vấn đề chiếm giữ quyền lực nhà nước thì chưa thể giải
quyết được những vấn đề căn bản nhất của cuộc đấu tranh giai cấp. Tuy nhiên, không
phải mọi cuộc đấu tranh giai cấp đều xác định vấn đề chính quyền nhà nước, quyền lực
nhà nước là vấn đề trung tâm của nó mà chỉ có sự phát triển của đấu tranh giai cấp đạt tới
trình độ đấu tranh chính trị thì vấn đề đó mới trở thành vấn đề trung tâm và cơ bản của
nó - đó cũng là vấn đề cơ bản của mọi cách mạng xã hội với tư cách là đỉnh cao của sự
phát triển đấu tranh giai cấp.
Như vậy sự ra đời và tồn tại của nhà nước là kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp trong xã
hội có đối kháng giai cấp. Sự ra đời và tồn tại của nhà nước không phải để giải quyết
mâu thuẫn mà là để duy trì trật tự xã hội trong điều kiện mâu thuẫn không thể giải quyết
được.
Đấu tranh giai cấp giữ vai trò là phương thức, động lực cơ bản của sự tiến bộ, phát
triển xã hội trong điều kiện xã hội có sự phân hóa thành đối kháng giai cấp.
Lịch sử nhân loại từ khi có sự phân hóa giai cấp đến nay, về thực chất chỉ là lịch sử của
những cuộc đấu tranh giai cấp được biểu hiện dưới nhiều hình thức đa dạng với những
mức độ khác nhau và mang sắc thái khác nhau. Kết quả cuối cùng của những cuộc đấu
tranh đó đều dẫn tới sự ra đời của một phương thức sản xuất mới thông qua đỉnh cao của
nó là những cuộc cách mạng xã hội
Như vậy trong điều kiện xã hội có đối kháng giai cấp thì sự phát triển của xã hội chỉ có
thể thực hiện được thông qua những cuộc đấu tranh giai cấp nhằm giải quyết những mâu
thuẫn đối kháng trong đời sống kinh tế và chính trị - xã hội. Trong trường hợp này, đấu
tranh giai cấp không chỉ là động lực cơ bản của sự phát triển lịch sử mà còn là phương
thức cơ bản của sự tiến bộ và phát triển xã hội trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Theo lý luận hình thái kinh tế-xã hội, phương thức và động lực cơ bản nhất của sự tiến
bộ, phát triển xã hội là sự vận động của mâu thuẫn trong phương thức sản xuất, trong bản
thân nền sản xuất vật chất của xã hội, nhưng trong điều kiện xã hội có sự phân hóa giai
cấp thì mâu thuẫn đó lại được bộc lộ và biến thành mâu thuẫn đối kháng giữa các giai
cấp trong đời sống chính trị - xã hội. Trong trường hợp này, mâu thuẫn đối kháng trong
đời sống kinh tế chỉ có thể giải quyết được thông qua việc giải quyết mâu thuẫn đối
kháng giai cấp trên lĩnh vực chính trị xã hội. Như vậy, mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh
giai cấp đã trở thành cơ chế chính trị xã hội để giải quyết mâu thuẫn trong phương thức
sản xuất, thực hiện nhu cầu khách quan của sự phát triển của lực lượng sản xuất, thúc
đẩy sự phát triển của xã hội.
Câu 10: bằng nhận thức của mình hãy chứng minh “Hạnh phúc là đấu tranh”
Trả lời: Mác cho rằng, hạnh phúc là phải đấu tranh vì lịch sử phát triển của xã hội loài
người cho thấy xã hội luôn luôn vận động và phát triển theo hướng ngày càng hoàn thiện
hơn.
Lịch sử xã hội loài người là lịch sử đấu tranh giai cấp, các giai cấp đối lập trong xã hội
luôn luôn đấu tranh với nhau, nguyên nhân xuất phát từ mâu thuẫn về mặt lợi ích mà cơ
bản là lợi ích kinh tế. Các cuộc đấu tranh này suy cho cùng đều nhằm mục đích cải tạo
hoặc thay thế xã hội đã lỗi thời nhằm xây dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn và mang lại
những lợi ích thiết thực hơn cho đa số người dân trong xã hội. Và một khi cuộc sống của
đại đa số quần chúng nhân dân được cải thiện thì với họ là một niềm hạnh phúc vô cùng
lớn lao.
Còn trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, con người luôn đấu tranh chống
động đất, lũ lụt, hạn hán… để khắc phục những trở ngại do tự nhiên gây ra, phục vụ đắc
lực cho cuộc sống con người, giúp cho đời sống của con người được cải thiện thì khi đó
con người cảm thấy hạnh phúc.
“Hạnh phúc là đấu tranh”, chỉ cần nhìn thực tế trên đất nước Việt Nam đã thấy rõ chân lý
ấy. Để có cơ đồ như hôm nay, suốt mấy nghìn năm lịch sử, người Việt Nam sống trên dải
đất hình chữ S đã phải đấu tranh với thiên nhiên, với giặc ngoại xâm không mệt mỏi để
sinh tồn. Từ khi có Đảng lãnh đạo (3/2/1930), dân tộc Việt Nam đã kiên cường đấu tranh
để giành độc lập, tự do; biết bao đồng chí, đồng bào đã hy sinh vì hạnh phúc của nhân
dân để làm nên đại thắng mùa xuân năm 1975 lịch sử.
Sau ngày đất nước thống nhất, cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, toàn Đảng, toàn dân ta
lại bước vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mỗi người Việt Nam lại bước vào
cuộc đấu tranh chống nghèo nàn, lạc hậu. Kể từ Đại hội VI, Đảng thừa nhận có sản xuất
hàng hóa trong chủ nghĩa xã hội. Tiếp đó, những kỳ đại hội sau, Đảng đã xác định phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là đường lối chiến lược nhất quán
nhằm huy động mọi nguồn lực phát triển, đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất
nước.
Kiên trì phát triển theo mô hình này, sau 30 năm đổi mới, cơ cấu kinh tế nước ta có sự
chuyển biến tích cực, kết cấu hạ tầng KT-XH đã được cải thiện đồng bộ và hiện đại hơn;
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt. QPAN được giữ vững.
Công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế được chủ động triển khai sâu rộng và có hiệu quả,
đưa đất nước hội nhập khu vực và thế giới ngày càng toàn diện, sâu rộng hơn, tạo môi
trường hòa bình, ổn định, qua đó, làm tăng thế và lực cho công cuộc phát triển kinh tế đất
nước.
Những năm gần đây, trước những diễn biến chính trị phức tạp trên thế giới và tác động
tiêu cực của nền kinh tế thị trường, cán bộ, đảng viên và nhân dân đã kiên trì đấu tranh
góp phần duy trì đoàn kết, thống nhất, phát huy cao độ khả năng lãnh đạo của Đảng trong
thực hiện sứ mệnh lịch sử giao phó, giữ gìn mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân
dân. Trong đấu tranh đã thể hiện tính Đảng nghiêm túc, tức là đấu tranh không khoan
nhượng đối với những tư tưởng và hành động sai trái, từ đó, góp phần tích cực vào công
cuộc xây dựng Đảng vững mạnh.
Hơn 130 năm kể từ lúc Các Mác về cõi vĩnh hằng, chúng ta vẫn luôn nhớ tới ông với
quan niệm hạnh phúc của con người là đấu tranh. Và cũng chính Mác đã dành cả cuộc
đời mình đấu tranh cho sự tiến bộ của xã hội loài người. Cả cuộc đời ông đã đấu tranh
không ngừng nghỉ để bảo vệ và hoàn thiện chủ nghĩa duy vật biện chứng, nội dung cốt
lõi của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, kim chỉ nam cho cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân,
cho phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.
“Hạnh phúc là đấu tranh”, mỗi người Việt Nam sẽ noi gương Các Mác đấu tranh để xây
dựng đất nước giàu mạnh, văn minh, góp phần xây dựng một thế giới ổn định và phát
triển phồn vinh.
Câu 11: Phân tích cơ sở lý luận để rút ra luận điểm muốn chủ trương đường lối của
Đảng , chính sách của nhà nước đúng đắn thì phải xuất phát từ dân?
Theo quan điểm triết học Mác Lê-nin vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại
khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta
chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.
Ý thức là một thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao của bộ não người, là sự
phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc con người.
Vật chất quyết định sự hình thành và phát triển của ý thức. Vật chất là cái có trước nó
sinh ra và quyết định ý thức:
Nguồn gốc của ý thức chính là vật chất: Bộ não người, cơ quan phản ánh thế giới xung
quanh, sự tác động của thế giới vật chất vào bộ não người, tạo thành nguồn gốc tự nhiên.
Lao động và ngôn ngữ (tiếng nói, chữ viết) trong hoạt động thực tiễn cùng với nguồn gốc
tự nhiên quyết định sự hình thành tồn tại và phát triển của ý thức.
Mặt khác, ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Vật chất là đối tượng
khách thể của ý thức, nó quy định nội dung, hình thức, khả năng và quá trình vận động
của ý thức.
Tác động trở lại của ý thức:
Dù ý thức do vật chất sinh ra và quy định nhưng ý thức lại có tính độc lập tương đối của
nó. Hơn nữa sự phản ánh của ý thức đối với vật chất là sự phản ánh tinh thần, phản ánh
sáng tạo và chủ động chứ không thụ động, máy móc, nguyên xi thế giới vật chất vì vậy
nó có tác động trở lại đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Dựa trên các tri thức về quy luật khách quan, con người đề ra mục tiêu, phương hướng,
xác định phương pháp, dùng ý chí để thực hiện mục tiêu ấy. Vì vậy ý thức tác động trực
tiếp đến vật chất theo hai hướng chủ yếu: Nếu ý thức phản ánh đúng đắn điều kiện vật
chất, hoàn cảnh khách quang thì sẽ thúc đẩy hoặc tạo sự thuận lợi cho sự phát triển của
đặc trưng vật chất. Ngược lại nếu ý thức phản ánh sai lệch hiện thực sẽ làm cho hoạt
động của con người không phù hợp với quy luật khách quan do đó sẽ kìm hãm sự phát
triển của vật chất.
Tuy vậy sự tác động của ý thức đối với vật chất cũng chỉ với một mức độ nhất định chứ
nó không thể sinh ra hay tiêu diệt các quy luật vận động của vật chất được. Và suy cho
cùng dù ở mức độ nào nó vẫn phải dựa trên cơ sở sự phản ánh thế giới vật chất.
Biểu hiện của mối quan hệ giữa ý thức và vật chất trong đời sống xã hội là quan hệ tồn
tại xã hội và ý thức xã hội trong đó tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội đồng thời ý
thức xã hội có tính độc lập tương đối và tác động trở lại tồn tại xã hội . Ngoài ra, mối
quan hệ giữa vật chất và ý thức còn là cơ sở để nghiên cứu, xem xét các mối quan hệ
khác như: lý luận và thực tiễn, khách thể và chủ thể, vấn đề chân lý...
Quan điểm khách quan:
Nguyên tắc khách quan trong xem xét là hệ quả tất yếu của quan điểmDVBC về mối
quan hệ giữa vật chất và ý thức. Vật chất quyết định ý thức là sự phản ánh vật chất cho
nên trong nhận thức và hành động phải đảm bảo tính khách quan , trong hoạt động thực
tiễn phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo các quy luật khách
quan.
Nguyên tắc này đòi hỏi chúng ta trong nhận thức và hành động phải xuất phát từ bản
thân SVHT, từ thực tế khách quan, không được xuất phát từ ý thức chủ quan, không lấy ý
muốn chủ quan của mình làm chính sách, không lấy ý chí áp đặt thực tế. Nắm vững
nguyên tắc khách quan đòi hỏi phải tôn trọng sự thật, tránh thái độ chủ quan, nóng vội,
định kiến, không trung thực.
Nói như vậy không có nghĩa là quan điểm khách quan coi nhẹ tính năng động của ý thức.
Quan điểm khách quan không những không loại trừ mà còn đòi hỏi phát huy tính năng
động và sáng tạo của ý thức trong quá trình phản ánh sự vật. Bởi vì quá trình đạt tới tính
khách quan đòi hỏi chủ thể phải phát huy tính năng động chủ quan trong việc tìm ra
những con đường, những biện pháp để từng bước thâm nhập sâu vào bản chất của sự vật.
Điều đó phân biệt quan điểm khách quan với chủ nghĩa khách quan. Nguyên tắc khách
quan có ý nghĩa ngăn ngừa tư duy khỏi những sai lầm do việc chủ thể nhận thức đưa vào
sự vật (khách thể nhận thức) một số yếu tố chủ quan vốn không có trong bản thân sự vật.
Tuân theo quan điểm khách quan góp phần ngăn ngừa bệnh chủ quan, duy ý chí.
Yêu cầu của nguyên tắc khách quan đòi hỏi phải tôn trọng quy luật khách quan và hành
động theo quy luật khách quan.
Bệnh chủ quan duy ý chí trong quá trình xây dựng CNXH thời kỳ trước đổi mới:
Bệnh chủ quan duy ý chí là một sai lầm khá phổ biến ở nước ta và ở nhiều nước XHCN
trước đây, gây tác hại nghiêm trọng đối với sự nghiệp xây dựng CNXH.
Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan một cách sáng tạo trên cơ sở của sự phản
ánh. Vì vậy nêu cường điệu tính sáng tạo củ ý thức sẽ rơi vào bệnh chủ quan, duy ý chí.
Bệnh chủ quan duy ý chí là khuynh hướng tuyệt đối hóa vai trò của nhân tố chủ quan,
của ý chí xa thời hiện thực khách quan, bất chấp quy luật khách quan lấy nhiệt tình Cách
mạng thay cho sự yếu kém về tri thức khoa học.
Sai lầm của bệnh chủ quan, duy ý chí là lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội
chạy theo nguyện vọng chủ quan biểu hiện trong một số chủ trương và chính sách của
Đảng và Nhà nước xa rời hiện thực khách quan.
Bệnh chủ quan duy ý chí có nguồn gốc từ nhận thức, sự yếu kém về tri thức khoa học, tri
thức lý luận không đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn. Bệnh chủ quan duy ý chí còn do
nguồn gốc lịch sử, xã hội , giai cấp, tâm lý của người sản xuất nhỏ chi phối. Cơ chế quan
liêu bao cấp cũng tạo điều kiện cho sự ra đời của bệnh chủ quan, duy ý chí...
Trước thời kỳ đổi mới (ĐH6) , Đảng ta đã mắc bệnh chủ quan, duy ý chí trong việc xây
dựng mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất kỷ thuật, cải tạo XHCN và quản lý
kinh tế, Đảng ta đã nóng vội muốn xóa bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành phần, muốn sau
khi cải tạo XHCN chỉ còn lại hai thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể hay có lúc
đẩy mạnh quá mức việc xây dựng công nghiệp nặng mà không chú ý phát triển công
nghiệp nhẹ, chúng ta đã duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu bao cấp
cơ chế xin cho, có nhiều chủ trương sai trong việc cải cách giá cả, tiền lương, tiền tệ.
Để khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí, phải tiến hành đồng bộ nhiều biện pháp. Trước
hết phải đổi mới tư duy lý luận, nâng cao năng lực trí tuệ, trình độ lý luận của Đảng,
trong hoạt động thực tiễn phải tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Phải đổi
mới cơ chế quản lý kinh tế , đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chí
trị, chống bảo thủ, trì trệ, quan liêu.
Bài học kinh nghiệm của Đảng:
Trong quá trình xác định đường lối Cách mạng và chỉ đạo thực tiễn. Đảng Cộng Sản Việt
Nam luôn luôn quán triệt mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Đảng cộng sản
Việt Nam "luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách
quan. Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật là điều kiện đảm bảo sự dẫn đầu
đúng đắn của Đảng" là một bài học kinh nghiệm lớn rút ra từ thực tiễn Cách mạng nước
ta. Đó chính là biểu hiện coi quan điểm vật chất, các quy luật khách quan có vai trò quyết
định được ý thức đối với nhận thức.
Đảng ta thừa nhận đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan,
muốn nhanh chống thực hiện nhiều mục tiêu của CNXH trong điều kiện mới ở chặng
đường đầu tiên. Chúng ta đã có những thành kiến không đúng trên thực tế chưa thật sự
thừa nhận những quy luật.