Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Bài tập nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (89.11 KB, 15 trang )

I.LỜI NÓI ĐẦU
Trong điều kiện hiện nay, văn hoá và con người đang được các quốc gia trên
thế giới coi là nguồn nội lực quan trọng của chiến lược phát triển bền vững. Ở Việt
Nam, văn hoá và con người được xác định vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc
đẩy sự phát triển kinh tế xã hội. Trong điều kiện hiện nay, văn hoá và con người
đang được các quốc gia trên thế giới coi là nguồn nội lực quan trọng của chiến
lược phát triển bền vững. Ở Việt Nam, văn hoá và con người được xác định vừa là
mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội.
Trong nỗ lực tìm kiếm động lực của sự phát triển bền vững, văn hoá và con
người hiện đang là những vấn đề được cả thế giới quan tâm. Đối với nhiều quốc
gia, kể cả những nước phát triển lẫn các nước đang phát triển, văn hoá và con
người được coi là nội lực quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội,
nhất là trong điều kiện cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ và xu
thế toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế được mở rộng như hiện nay. Ở Việt
Nam, trong suốt tiến trình cách mạng, đặc biệt là từ khi đất nước bước vào công
cuộc đổi mới,Đảng ta luôn coi trọng vấn đề văn hoá và con người. Cùng với việc
đề cao yếu tố con người,văn hoá được coi là "nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là
mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã lội".
Văn hóa vốn bao giờ cũng là nền tảng quyết định của xã hội, một văn hóa cho
sự phát triển mạnh mẽ, sâu sắc toàn diện nhất toàn cầu hóa và hôi nhập, toàn cầu
hóa như một tất yếu. Có thể khẳng định: Văn hóa là cốt hồn của dân tộc, một dân
tộc, nếu không giữ được bản sắc văn hóa riêng thì dân tộc đó sẽ bị lu mờ thậm chí
không còn dân tộc đó nữa. Vì thế, xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc không chỉ là trách nhiệm của ngành văn hoá mà
còn là trách nhiệm của toàn đảng, toàn dân và toàn xã hội. Em quan tâm và chọn
đề tài: “phân tích đường lối xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến và đậm
đà bản sắc dân tộc”.
Ngày này, không ai còn có thể phủ nhận được vai trò của văn hoá đối với sự
phát triển mỗi dân tộc cũng như đối với sự phát triển nhân loại. Ở Việt Nam,
chúng ta xây dựng CNXH trong điều kiện mở rộng giao lưu kinh tế, giao lưu văn
15




hoá với nước ngoài và trong hoàn cảnh thế giới đã có những biến đổi to lớn về
mọi mặt. Những điều kiện trên đưa tới nhiều yếu tố tích cực, đồng thời cũng đưa
tới nhiều ảnh hưởng tiêu cực, đặc biệt là trong văn hoá. Khẳng định độc lập dân
tộc và CNXH là mục tiêu xuyên suốt của tiến trình cách mạng Việt Nam, Đảng ta
cũng trực tiếp khẳng định các đặc trưng cơ bản của CNXH mà “Nền văn hoá tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” là một bộ phận cấu thành. Bởi vậy, xây dựng và
phát triển “nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” đã và đang là một
nhiệm vụ chiến lược đòi hỏi Đảng, toàn dân và toàn quân vưa phải tiến hành các
hoạt động thực tiễn để văn hoá có thể góp phần tốt nhất bảo đảm cho dân tộc vững
bước trên con đường của sự lựa chọn XHCN.
Ngày nay sự lựa chọn XHCN chúng ta biết rằng khi đề ra bất kỳ một chủ
chính sách gì, Đảng ta đều lấy cơ sở chủ yếu là lý luận của chủ nghĩa Mác, mà
triết học đóng vai trò nền tảng. Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Những năm ngoài quy luật này, cơ sở triết học đầu
tiên ta nhận thấy đó chính là các nguyên lý nền tảng của chủ nghĩa duy vật biện
chứng, các nguyên lý này nêu rõ, mọi sự vật hiện tượng đều tồn tại trong mối
quan hệ khách quan phong phú, và trong mọi sự vật biến đổi thì phát triển là xu
hướng chủ yếu. Văn hoá Việt Nam tồn tại trong mối quan hệ không biết với vốn
văn hoá các nước láng giềng trên thế giới, với văn hoá thế giới vì vậy việc tiếp
theo, có sự đan xen và hội nhập là điều tất yếu. Tuy nhiên, trong các mối liên hệ
này, vấn đề chủ chốt là hội nhập, giao lưu và phát triển không cao bằng, mà trên
cơ sở là bản sắc riêng đậm đà tính dân tộc.
Văn hoá Việt Nam trong quá trình phát triển yếu tố tích cực, đó là truyền
thống văn hoá lâu đời với bản sắc riêng mang đậm truyền thống tốt đẹp được hun
đúc một chiều dài lịch sử người Việt Nam, nó luôn đấu tranh với các mặt tiêu cực,
đó chính là những hủ tục lạc hậu, cái sau phần văn hoá đồi truỵ cổ đại cho lối sống
buông thả… cuộc đấu tranh này là tất yếu, tuy nhiên quy luật sự phát triển cũng
nêu rõ chính sự đấu tranh này là nguồn gốc động lực cho sự phát triển. Quá trình

đấu tranh này làm xoá bỏ dần các mặt tiêu cực, làm chuyển biến nó. Với cơ sở lý
luận này, quan điểm của Đảng là xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam
tiên tiến đận đà bản sắc dân tộc là một quan điểm hết sức đúng đắn.
Mặt khác theo chủ nghĩa duy vật biện chứng thì trong quá trình phát triển luôn
có quá trình phủ định biện chứng, đó chính là phủ định để kế thừa phát triển. Quá
trình hội nhập phát triển văn hoá luôn tồn tại sử dụng mối quan hệ giữa các mặt
tích cực và tiêu cực của văn hoá.
15


Tuy nhiên quá trình phát triển đó không phải diễn ra dễ dàng theo đường
tuyến mà đó là một quá trình lâu dài, phức tạp, có sự đấu tranh giữa cái cũ, và cái
mới, song quy luật chỉ rõ cái mới là cái quy luật nêu tất yếu giành thắng lợi. Nắm
chắc quy luật này, tức là đã có quan điểm đúng đắn là xây dựng và phát triển nền
văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Đây là một quá trình lâu dài, tuy vậy phải có định hướng đúng đắn, nó như
vậy mà tạo điều kiện cho quá trình này để thắng lợi xây dựng nền văn hoá mới là
mục đích của CNXH.
Chúng ta không thể xây dựng CNXH trên nền tảng cộng hoà, trong đó sự
thống nhất giữa văn hoá truyền thống, thích hơn văn hoá nhân loại và các giá trị
của CNXH là sự thống nhất biện chứng. Văn hoá XHCN là phương diện biểu hiện
cơ bản của CNXH.
Chúng ta không thể xây dựng CNXH nếu không có văn hoá XHCN và ngược
lại. Bằng văn hoá CNXH tiến hành cấu tạo những di sản xã hội cũ, loại trừ giá trị
không phù hợp đấu tranh chống lại các tư tưởng lạc hậu, đặc biệt là chống lại cuộc
tiến công tư tưởng văn hoá của các thế hội thù địch. Vấn đề quan trọng là ở chỗ
chồng văn hoá dân tộc lại phải kết hợp với xây dựng nền văn hoá mới. Cuộc đấu
tranh giữa hai con đường XHCN và TBCN diễn ra hàng ngày sau thắng lợi của
cách mạng vô sản, nếu không có một nền văn hoá mới và những con người mới sẽ
làm suy yếu tính ưu việt của CNXH, tạo địa bàn cho sự xâm nhập của văn hoá hệ

hệ thống phản động gây suy thoái từ bên trong.
Như vậy với những cơ sở du học, bằng việc hiểu biết thực tiễn cách mạng
phong phú, Đảng ta ngay từ đầu đã coi trọng xây dựng nền văn hoá mới, nó được
khẳng định trong suốt lịch sử hơn 70 năm của Đảng. Và điều đó được hiểu rõ hơn
khi ba nguồn nội dung của nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc được
trình bày dưới đây.

II .NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA NỀN VĂN HOÁ TIÊN TIẾN,
ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC
1. Nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Tính tiên tiến là nền văn hóa
+Là nền văn hóa yêu nước và tiến bộ dựa trên chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, gắn độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
15


+ Là nền văn hóa mang tinh thần nhân văn tức là nề văn hóa đó quan tâm đến
con người.
+ Là nền văn hóa mang tinh thần dân chủ.
+ Là nền văn hóa mang tính hiện đại
+ Là nền văn hóa sử dụng những hình thức truyền tải nội dung mới, nhằm
giúp văn hóa được thấm sâu vào trong mọi lĩnh vực, bảo tồn văn hóa tốt hơn.
- Tính đậm đà bản sắc dân tộc
+ Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị văn hóa truyền thống bền vững của
cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp qua lịch sử hàng nghìn năm đấu
tranh dựng nước và giữ nước.
+ Bản sắc dân tộc là sức sống bên trong của dân tộc, là quá trình dân tộc
thường xuyên tự ý thức, tự khám phá, tự vượt qua chính bản thân mình, biết cạnh
tranh và hợp tác để tồn tại và phát triển.
+ Bản sắc dân tộc phát triển theo sự phát triển của thể chế kinh tế, thể chế xã

hội và thể chế chính trị của các quốc gia.
- Chủ trương xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
+ Kế thừa những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
+ Tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại
Mục tiêu phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là “xây dựng
con người Việt Nam về tư tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống, xây dựng
môi trường văn hóa lành mạnh cho sự phát triển xã hội” . Để thực hiện được mục
tiêu này cần phải xem xét nội dung tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc theo hai yêu
cầu sau đây:
Định hướng XHCN vừa là yếu tố nền tảng vừa là yếu tố bao trùm và định
hướng các yếu tố khác như công nghiệp hóa, hiện đại hóa, kinh tế thị trường đa
dạng hóa, đa phươnghóa,kể cả yếu tố bản sắc dân tộc.
Chấn hưng và phát huy truyền thống dân tộc là cơ sở và là yếu tố nội sinh cần
quán triệt đầy đủ tính chất quan trọng của nó.
Nội dung tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc của nền văn hóa cần phải thể hiện được
các đặc điểm sau :
Tính hiện đại: Đó là tác phong công nghiệp, óc khoa học và thực nghiệm, đạt
các chuẩn công nghiệp hóa, hiện đại hóa của khu vực Đông Nam và một số đạt
chuẩn quốc tế sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật.
Tính văn minh: Đó là một đời sống tinh thần cao đẹp, phong phú và đa dạng có
nội dung nhân đạo, dân chủ, tiến bộ như “Cương lĩnh xây dựng chủ nghĩa xã hội
15


(CNXH) trong thời kỳ qua độ“ đòi hỏi. Đặc điểm văn minh được cụ thể hóa bằng
các tính chất : phong phú, đa dạng, dân chủ và tiến bộ tức là công bằng và bình
đẳng.
Nội dung đậm đà bản sắc dân tộc là kế thừa, phát huy các đặc điểm tích cực của
truyền thống dân tộc trên lập trường của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh. Cụ thể đó là: y thức tự hào, tôn vinh quốc gia, dân tộc, tức là chủ nghĩa yêu

nước chân chính trong cuộc đấu tranh dựng nước nhằm thoát khỏi tình trạng là
một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới.
Những đặc điểm như nếp sống cộng đồng tình nghĩa, phong tục tập quán theo
hướng thế tục và thuần hậu của nội dung tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc sẽ dần
hiện ra rõ nét nếu chúng ta xây dựng được một chiến lược văn hóa và điều quyết
định là ý tưởng coi văn hóa là nền tảng tinh thần, mục tiêu, đông lực điều tiết công
nghiệp hóa, hiện đại hóa phải được thẩm thấu vào tất cả các hoạt động của con
người, từ sản xuất kinh doanh đến sinh hoạt gia đình, hưởng thụ cá nhân.
Hội nghị Trung ương lần thứ năm (khoá VIII) của Đảng đã ra Nghị quyết về
xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Có thể khẳng định rằng, đây là một văn kiện quan trọng mang tính chất cương
lĩnh, đánh đấu sự đổi mới toàn diện trong tư duy của Đảng về vấn đề văn hoá
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong Nghị quyết
này, Đảng ta coi văn hoá là nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển và
yếu tố quyết định nội lực là chất lượng con người. Vì vậy, xây dựng nền văn hoá
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc theo định hướng xã hội chủ nghĩa với
những đặc trưng cơ bản: dân tộc, hiện đại, nhân văn là nhiệm vụ rất quan trọng
trong công cuộc đổi mới. Một trong những nội dung trọng tâm của nền văn hoá ấy
là xây dựng con người Việt Nam XHCN.
Nghị quyết Đại hội X của Đảng đã khẳng định: "tiếp tục phát triển sâu rộng và
nâng cao chất lượng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn
kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hoá thấm
sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội". Trên cơ sở thực tiễn xây dựng văn hoá
những năm qua, Đảng ta đã xác định ba lĩnh vực quan trọng, đó là đời sống văn
hoá cơ sở những sản phẩm văn hoá đỉnh cao và những công trình văn hoá lớn tiêu
biểu cho giai đoạn phát triển công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Về đời
sống văn hoá cơ sở trước hết cần tập trung, phát huy tinh thần tự nguyện, tính tự

15



quản và năng lực làm chủ, sáng tạo của nhân dân trong đời sống văn hoá. Đây là
động lực lớn nhất đồng thời là nguyên nhân có tính quy định tạo nên tính bền
vững, chất lượng và hiệu quả của phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hoá" hướng đến mục tiêu tạo nên môi trường văn hoá tốt đẹp, lành
mạnh, phong phú cho mỗi người và cả cộng đồng. Thứ hai, đa dạng hoá các
phương thức tổ chức phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá".
Thứ
ba,
khuyến
khích
việc sáng tạo những sản phẩm văn hoá có giá trị cao về tư tưởng, nghệ thuật có
ảnh
hưởng và tác động tích cực, sâu sắc đến đời sống tinh thần của xã hội.
Văn hoá là của con người, chỉ có ở con người. Văn hoá, đối với một con
người, đó là tài và đức, đối với một quốc gia, đó là nền tảng dân trí, là trí tuệ, cất
cách và bản lĩnh của dân tộc. Vai trò động lực của văn hoá được thực hiện thông
qua con người. Nhận thức sâu sắc vai trò của văn hoá cũng như mối quan hệ hữu
cơ giữa văn hoá và con người, các văn kiện của Đảng như Nghị quyết Trung ương
lần thứ năm (khoá VIII), kết luận của Hội nghị Trung ương lần thứ IX (khoá IX)
và văn kiện Đại hội X, đều khẳng định sứ mệnh cao quý nhất của văn hoá là góp
phần trực tiếp xây dưng con người và nguồn nhân lực có chất lượng cao đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đối với nước ta những năm
vừa qua, trong quá trình mở cửa giao lưu với thế giới, chúng ta không chỉ tiếp thu
những giá trị hiện đại, tiên tiến mà còn bổ sung, điều chỉnh một số nét của các giá
trị truyền thống cho phù hợp với thời đại, thẩm thấu và làm đa dạng thêm bản sắc
của dân tộc. Chúng ta ngày càng ý thức rõ hơn về quá trình hội nhập. Trong quá
trình thực tiễn phát triển đất nước, chúng đã được những thành quả trong việc xây
dựng và phát huy bản sắc văn hóa đó là:
Quá trình hội nhập văn hóa đã làm cho các quốc gia đang ngày càng xích lại

gần nhau hơn bởi những giá trị truyền thống chung, đồng thời tạo điều kiện cho
mỗi dân tộc phát huy nét độc đáo, đặc trưng của mình. Quá trình này cũng sẽ tạo
điều kiện cho thế giới luôn tồn tại trong sự thống nhất chung của tất cả những cái
riêng, cái đặc thù; cái chung không bài trừ cái riêng mà cùng với cái riêng làm tiền
đề cho nhau để cùng thúc đẩy nhau phát triển và tiếnbộ.
Vận dụng quy luật phủ định của phủ định, ta không thể bảo vệ thụ động bản
sắc mà chỉ hòa nhập cọ sát và biến đổi bản sắc mới xuất hiện và chói sáng. Từ
Truyện Kiều, thơ Nôm hay tranh khắc gỗ dân gian, tuồng chèo, nhạc Cung Đình
15


Huế, Quan Họ hay Ca trù... chứa đựng bản sắc dân tộc vì từng là sự giao thoa, cọ
sát, khai thác lẫn nhau của các dòng văn nghệ, văn hóa khác nhau. Gần đây thì cái
áo dài, cái nón tới tranh sơn mài, lụa, sơn dầu từ thời Đông Dương tới Đổi Mới,
Thơ Mới, tiểu thuyết, kiến trúc "Đông Dương", cải lương... đều là những suối
nguồn, và "kho chứa" của bản sắc dân tộc. Nó trừu tượng song không chung
chung mà nằm ở các tác phẩm cụ thể của các tác giả cụ thể. Nếu có những nghiên
cứu nhận dạng được những nét chung nào đó của các tác phẩm, tác giả đó thì ta có
thể gọi tên "bản sắc dân tộc" ta.
Giữ gìn bản sắc không co vào cố thủ trong tính riêng biệt , khước từ giao lưu
văn hoá. Trên thế giới này không có một nền văn hoá nào có tính thuần nhất bản
địa. Sự thay đổi giữa các nền văn hoá là do trao đổi. Khi trao đổi ngừng thì cả hai
địa bàn đều chững lại trong phát triển. Đây là phép biện chứng của nhân tố ngoại
sinh trong sự phát triển nội sinh. Tuy nhiên sự hội nhập các giá trị văn hóa khác
với sự tha hóa về văn hóa cũng như sự lai giống tốt khác với lai ghép vào cơ thể
những gien lạ hoắc, gây nên sự biến dị , thậm chí những quái thai.
Chẳng nói gì xa. Nửa đầu thế kỷ XX, văn hoá và lối sống Pháp, theo đó là Âu
châu, xâm nhập vào ta nhanh và mạnh, tưởng như ngự trị, trong khi văn hoá dân
tộc có dấu hiệu suy yếu. Thế mà những năm 20 - 30 và đầu 40, dưới sự tác động
của làn sóng ấy và cùng với vốn liếng văn hoá giàu bản sắc có sẵn, đã nảy nở cả

một nền văn học - nghệ thuật Việt Nam mới hầu như chỉ tầng lớp tiểu tư sản mới
hình thành tạo ra, với văn xuôi và thi ca, âm nhạc, hội hoạ, sân khấu, phê bình văn
học… còn âm vang đến tận ngày nay. Cuộc hội họa đầu của thời mới bị đứt quãng
ấy đã làm cho văn hoá Việt, con người Việt phong phú hơn, bổ túc những nét mới
cho bản sắc. Ta chối bỏ những cái gì đó, ta tiếp thu và sản sinh ra những cái gì đó
mới hơn, phù hợp hơn, có sức nâng cao ta lên.
Cuộc hội nhập thời nay mạnh mẽ hơn, toàn diện và toàn cục, sức chi phối,
sức tác động của nó không thể so sánh với trước được. Song ta sở hữu cả một vốn
liếng gien, vốn liếng bản sắc của ta vô cùng sâu lắng, vô cùng dai bền, không việc
gì phải e ngại! Thử xem, mình bắt chước ăn cá sống với mù tạt theo kiểu Nhật,
nhưng thêm vào đấy là rau diếp cá, lá cải xanh, củ cải sống. Mình hát nhạc pop,
nhạc rock, song giai điệu và cách thể hiện thì chẳng giống ai. Thậm chí, ở những
sân bay quốc tế này nọ, cứ gặp dăm ba đồng bào mình túm tụm, là nhận ra ngay.
Ấy là trong cuộc sống thường nhật, chứ ở những phạm trù lớn lao như cách nghĩ,
cách sống, cách phấn đấu… mình chẳng giống ai hết.
Một thành quả vững chắc nữa trong giữ gìn bản sắc là chúng ta không sợ toàn
15


cầu hóa tấn công mà còn tấn công ngược lại nó. Xin nêu hai ví dụ: thức ăn và y
phục.
Thức ăn là yếu tố mạnh nhất trong bản sắc, cho nên nó phát triển với toàn cầu
hóa. Su-si của Nhật ngày nay toàn cầu hóa thực đơn khắp năm châu bốn biển. Mà
đơn giản quá: chỉ chút cơm bọc rau câu. Thế giới nhà giàu càng chán mỡ càng
chuộng su-si. Nắm yếu điểm đó, su-si tiến công trên thị trường chuộng thức ăn
nhẹ: nó đùa với cái bao tử, hư hư thực thực, ăn vào như có như không.
Phở của ta bây giờ cũng thế, cũng toàn cầu hóa trong nhu cầu “fastfood”. Trái với
su si, nó thực chất, làm một tô bự là giải quyết xong bữa trưa, mà mùi vị lại đậm
đà, kích thích. Chưa nói đến chả giò (nem rán) chẳng những đi vào các nhà hàng
sang trọng mà còn đi vào tận căn-tin của các trường học, các xe đẩy trên đường

phố. Học trò thấy nem rán, chưa ăn đã thèm chảy nước miếng.
Nhưng dù là nem rán hay phở, dù phở do bếp Tàu nấu hay dù nem rán đang
lai giống với bánh tráng Thái Lan, cái đặc biệt, cái khác với Tàu, với Thái của Việt
Nam, cái làm cho món ăn Việt Nam được ưa chuộng trên thế giới, cái làm cho con
người Việt Nam muôn đời vẫn tự định nghĩa mình là Việt Nam bất chấp không
gian, bất chấp luật quốc tịch, vẫn là cái đó, cái mùi thum thủm, cái vị mặn mặn,
mà nếu thiếu nó cuộc đời nhạt nhẽo như thiếu tố quốc: “cái chai nước mắm”, nước
mắm là đại nguyên soái bách chiến bách thắng. Thực dân, đế quốc, bá quyền, Bắc
thuộc, Tây thuộc... chẳng coi nó ra gì. Nhưng đối với Việt Nam đó là “bản sắc”.
“Áo dài” là y phục của dân tộc, là yếu tố then chốt thứ hai của bản sắc. Aó dài tuy
không phải là truyền thống lâu đời, chỉ là y phục cải cách từ những năm 1930 thôi,
cũng là thời trang chế biến để thích nghi với thời đại mới. Nhưng nó thành công
bao nhiêu, thân thương bao nhiêu, yêu kiều ban nhiêu, thích hợp bao nhiêu! Nó đi
vào lòng dân tộc như thể nó đã được khai sinh từ thuở dân tộc còn nằm nôi. Và nó
hãnh diện phất phới trên thế giới, thế giới thán phục nó. Ngày nay, thời trang tha
hồ vẽ vời, thêm bớt, nhân lên nhiều kiểu mới, nhưng nó vẫn là nó, vẫn là nhan sắc
vô địch. Cái gì hợp với dân tộc qua bao nhiêu thử thách, cái ấy là bản sắc, cái ấy
không sợ ma nào ám, kẻ cướp nào lấy! Như vậy thì chẳng sợ ai. Như chén nước
mắm. Như chiếc áo dài. Muôn đời của dân tộc.
2. Phương hướng và nhiệm vụ trước mắt của sự nghiệp xây dựng nền văn
hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Hội nghị Trung ương lần thứ năm (khoá VIII) đã nhấn mạnh đến những phẩm
chất cơ bản của con người mới mà chúng ta cần xây dựng để tạo nên nguồn nhân
15


lực cung cấp chất lượng cao, phù hợp với những đòi hỏi khách quan của sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đó là những con người được phát triển
toàn diện cả đức lẫn tài, cả thể lực lẫn trí tuệ, cả đạo đức, thẩm mỹ lẫn kỹ năng lao
động, ý chí và bản lĩnh trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tại Đại hội X, Đảng ta

coi nhiệm vụ của văn hoá là "xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người
Việt Nam, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong thời kỳ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, hội nhập kinh tế quốc tế. Bồi dưỡng các giá trị văn hoá trong
thanh niên, học sinh, sinh viên, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống, năng lực trí tuệ,
đạo đức và bản lĩnh văn hóa con người Việt Nam". Điều cần nhấn mạnh là, chúng
ta cần kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tích cực và tiến bộ của con
người Việt Nam, phê phán những yếu tố lạc hậu và tiêu cực, xây dựng những giá
trị mới. Đặc biệt, chúng ta phải quan tâm hơn nữa đến công tác giáo dục lý tưởng
chính trị, đạo đức, phẩm chất và nâng cao tính công dân cho đội ngũ lao động
mới, tạo điều kiện cho họ có thể thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trách nhiệm công dân
đối với chế độ XHCN đối với nhân dân, dân tộc, đồng thời, được hưởng thụ một
cách xứng đáng so với những đóng góp, cống hiến của họ cho xã hội.
Trước mắt, trong nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam, văn hoá cần nỗ lực
thực hiện ba mục tiêu lớn:
Một là, xây dựng và hoàn thiện hệ thống các giá trị mới cua con người việt
Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Có
thể nói, đây là một đòi hỏi rất cao và mới đối với văn hoá. Bởi vì, trong những
năm qua, cuộc vận động xây dựng con người mới tuy có bề rộng, nhưng chưa sâu,
chưa bền vững ít hiệu quả và chưa hình thành được dư luận xã hội định hướng các
chuẩn mực giá trị mới. Đây là một yêu cầu có tính bao quát, tổng thể, đồng thời là
cơ sở và định hướng giải quyết các nhiệm vụ trước mắt. Theo chúng tôi, từ những
điểm mạnh của con người Việt Nam đã được Đảng xác định, cần cụ thể hoá thành
những tiêu chí, chuẩn mực phù hợp với từng giới, từng ngành, từng địa phương
đơn vị. Đó là các phẩm chất: có tinh thần yêu nước, phấn đấu vì độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội có tinh thần đoàn kết, có lối sống lành mạnh, nếp sống văn
minh, tôn trọng kỷ cương phép nước, cần cù lao động và có ý thức học hỏi vươn
lên...
Hai là, kiên quyết phê phán, đấu tranh chống lại những biểu hiện tiêu cực
trong tư tưởng,đạo đức lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân,
chống lại bệnh quan liêu tham nhũng, lãng phí và các tệ nạn xã hội... nhằm làm

15


lành mạnh hoá xã hội. Đây là đòi hỏi bức xúc của toàn xã hội trong sự nghiệp xây
đựng con người theo hệ giá trị chân - thiện - mỹ.
Ba là, bồi dưỡng các giá trị văn hoá trong thanh niên, học sinh sinh viên là
một yêu cầu,nội dung được đặc biệt nhấn mạnh. Yêu cầu văn hoá trong việc xây
dựng thế hệ trẻ Việt Nam về nhân cách là một việc cực kỳ cần thiết, vừa có tính cơ
bản, chiến lược, vừa rất cấp bách. Chúng ta đều biết rõ rằng sinh thời, Chủ tịch Hồ
Chí Minh là người đặc biệt quan tâm đến vấn đề bồi dưỡng thế hệ trẻ. Bởi. với
Người, thế hệ trẻ chính là tương lai của đất nước. Tại Đại hội X, Đảng ta đã nhấn
mạnh các giá trị lớn mà văn hoá phải chăm lo nuôi dưỡng cho thanh niên, sinh
viên, học sinh là lý tưởng sống, lối sống năng lực trí tuệ vẻ đẹp đạo đức và bản
lĩnh văn hoá. Các giá trị đó mang ý nghĩa rất quan trọng đối với thế hệ trẻ Việt
Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện dại hoá và hội nhập giao lưu quốc tế.
Bên cạnh đó chúng ta cũng cần:
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy sức mạnh
tổng hợp của đất nước, tạo sự chuyển biến cơ bản và bước phát triển mạnh mẽ
trong xây dựng, nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đồng bộ
với sự phát triển kinh tế - xã hội.
Phải đẩy mạnh hơn nữa phong trào ''Toàn dân đoàn kết, xây dựng đời sống văn
hoá'' gắn chặt với cuộc vận động chính trị sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân học tập và thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, lối sống, làm
chuyển biến mạnh mẽ công tác giáo dục, rèn luyện đạo đức, lối sống trong cán bộ,
đảng viên và nhân dân, nhất là đối với cán bộ chủ chốt các cấp và thanh niên.
Chúng ta phải gắn chặt nhiệm vụ xây dựng văn hoá với nhiệm vụ trung tâm xây
dựng kinh tế và nhiệm vụ then chốt xây dựng Đảng, bảo đảm hoạt động văn hoá
tiến hành đồng bộ với hoạt động kinh tế, hình thành nền tảng tinh thần vững chắc
cho xã hội. Cũng cần nói thêm rằng, để thực hiện tốt các nhiệm vụ cụ thể về xây
dựng và phát triển văn hoá, trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng con

người với những đức tính cơ bản, tốt đẹp, chúng ta phải xây dựng và phát triển hài
hoà các nhiệm vụ khác, từ xây dựng môi trường văn hoá, phát triển văn học - nghệ
thuật, thông tin đại chúng, bảo tồn và phát huy các di sản văn hoá đến việc bảo tồn
và phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số, chính sách văn hoá đối với tôn giáo và
hợp tác quốc tế về văn hoá...
Chúng ta tiếp tục tăng cường các nguồn lực và phương tiện cho hoạt động văn

15


hoá, trước hết và tăng mức đầu tư từ ngân sách cho phát triển sự nghiệp văn hoá đi
đôi với việc huy động sự đóng góp của các tầng lớp nhân dân và sử dụng một cách
có hiệu quả nhất các nguồn lực đó; sớm xây dựng và thực hiện chiến lược tuyển
chọn, đào tạo, phát triển các tài năng văn hoá, nghệ thuật; tăng cường và đổi mới
mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với văn
hoá.
Để làm được điều đó, trước hết là cán bộ, đảng viên, cần nâng cao nhận thức và
trình độ lãnh đạo trên lĩnh vực văn hoá, song song với các lĩnh vực chính trị, kinh
tế, xã hội ...; nêu cao tinh thần gương mẫu về tư tưởng, đạo đức, lối sống; nâng
cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng theo phương châm ''nói đi đôi với
làm”, đã nói là làm để cho các quyết định lần này được quán triệt trong từng cán
bộ, đảng viên, nhất và cán bộ chủ chốt, và mọi tầng lớp nhân dân. Các cấp, các
ngành cần có ngay các chương trình, kế hoạch và biện pháp cụ thể để đưa những
nội dung đó thấm sâu vào từng địa phương, từng ngành, từng đơn vị, từng cộng
đồng, từng gia đình, từng con người, tạo thành phong trào thi đua sôi nổi, xây
dựng con người mới và môi trường văn hoá mới phong phú, lành mạnh, phát huy
những truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc ta. Nếu như mỗi ngày, mỗi người
chúng ta đều làm được một việc tốt hay vài ba việc tốt, và toàn xã hội đều làm như
vậy thì chắc chắn chúng ta sẽ đẩy lùi được các hiện tượng tiêu cực, làm cho xã hội
ta ngày càng tốt đẹp hơn, nền văn hoá của chúng ta ngày càng được nâng cao hơn.

Cùng với việc xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện nghị quyết mới của
Đảng về văn hóa, cần mở các đợt vận động rộng lớn với các chương trình và
phong trào quần chúng của nhiều giới, nhiều ngành về xây dựng và phát triển văn
hóa trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Các chính sách văn hóa phải hướng đến khuyến khích sự sáng tạo của con
người, nâng cao ý thức giáo dục của con người, góp phần phát triển nhân cách cá
nhân, sự giàu mạnh của đất nước.
Đặc biệt coi trọng công tác đào tạo nguồn nhân lực và các tài năng văn hóa
nghệ thuật. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ tri thức văn hóa cho dân tộc
thiểu số, có chế độ ưu đãi khuyến khích họ trở về địa phương công tác. Nâng mức
đầu tư và kinh phí cho sự nghiệp văn hóa thông tin phù hợp với yêu cầu phát triển
của ngành và đòi hỏi của nhân dân. Triển khai mạnh mẽ chủ trương văn hóa, bao
gồm thu qua tham quan di tích, bảo tàng, đào tạo, biểu diễn nghệ thuật,… khuyến

15


khích sự đóng góp của các doanh nghiệp, tổ chức xã hội và nhân dân cho các hoạt
động văn hóa.
Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 9 (khoá IX) đã khẳng
định quyết tâm triển khai trong thực tiễn giải pháp phát triển giáo dục - đào tạo,
khoa học và công nghệ, coi đó là quốc sách hàng đầu, đòi hỏi các cấp, các ngành
và toàn xã hội phải quán triệt sâu sắc hơn nữa ý nghĩa, vai trò động lực của các
yếu tố văn hoá, xã hội và con người đối với sự phát triển nhanh, bền vững của đất
nước. Một trong những vấn đề cấp thiết hiện nay là nâng cao chất lượng giáo dục
toàn điện và chú trọng hiệu quả kinh tế - xã hội của giáo dục - đào tạo. Nhiệm vụ
của giáo dục và đào tạo trong những năm tới là
nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới cơ cấu tổ chức, nội dung phương
pháp dạy và học, thực hiện "chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá", chấn hưng nền
giáo dục Việt Nam. Muốn vậy, phải chuyển đổi mô hình giáo dục, đổi mới mạnh

mẽ giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông, phải phát triển hệ thống giáo dục
hướng nghiệp và dạy nghề, đổi mới hệ thống giáo dục Đại học và sau Đại học,
phải đảm bảo đủ số lượng, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ở tất cả các cấp
học, bậc học. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục, phát huy tính tích
cực, sáng tạo của người học, thực hiện xã hội hóa giáo dục, đổi mới cơ chế quản
lý giáo đục, tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo.
Bên cạnh đó, cần chú trọng nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của khoa
học và công nghệ, "phấn đấu đến năm 2010, năng lực và khoa học công nghệ
nước ta đạt trình độ của các nước tiên tiến trong khu vực trên một số lĩnh vực
quan trọng. Nhiệm vụ của khoa học xã hội là tiếp tục góp phần làm sáng tỏ các
vấn đề nhận thức về CHXH và con đường đi lên CHXH về nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, bước đi của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
vấn đề phát huy dân chủ XHCN, đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam, phát triển con người...
Nhiệm vụ của khoa học tự nhiên là tập trung nghiên cứu cơ bản, định hướng ứng
dụng, đặc biệt là các lĩnh vực mà Việt Nam có nhu cầu và thế mạnh. Đẩy mạnh có
chọn lọc việc nhập công nghệ, mua sáng chế kết hợp với công nghệ nội sinh để
nhanh chóng đổi mới và người cao trình độ công nghệ của các ngành có lợi thế
cạnh tranh, có tỷ trọng lớn trong GDP, phát triển công nghệ cao, nhất là công nghệ
thông tin, công nghệ sinh học và công nghệ vật liệu mới.

15


III.KẾT LUẬN
Trong thời đại ngày nay, hội nhập đang trở thành một xu thế khách quan. Dân
tộc Việt Nam, hay bất cứ một dân tộc nào khác không thể nằm ngoài quĩ đạo đó.
Hội nhập là con đường tất yếu, là lẽ sống còn của cả dân tộc. Vấn đề đặt ra là
chúng ta hội nhập như thế nào. Rõ ràng, chúng ta với tư thế chủ động, hội nhập
trên cơ sở tự khẳng định mình, nổ lực để vượt lên chính mình, nghĩa là, thông qua

quá trình hội nhập, chúng ta có thể nhận thức đầy đủ hơn, có ý thức hơn trong việc
bảo tồn, phát huy bản sắc của dân tộc mình. Đồng thời trong quá trình đó, chúng
ta sẽ thấy được những hạn chế của những truyền thống có khả năng cản trở sự tiến
bộ để tìm cách khắc phục. Một khi đã nhận thức được như vậy, chắc chắn chúng ta
sẽ kết hợp hài hoà các giá trị truyền thống với các giá trị hiện đại, trên cơ sở bảo
tồn bản sắc dân tộc, giữ lấy những gì là tinh hoa, loại bỏ dần các yếu tố lỗi thời,
tăng cường giao lưu, học hỏi với bên ngoài thì sẽ vượt qua được những thử thách,
sẽ khơi dậy được vai trò động lực của các giá trị truyền thống. Với tinh thần và
bản lĩnh của người Việt Nam, chúng ta sẽ “phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu
quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa”, kết
hợp sức mạnh dân tộc với những ưu thế của thời đại để phát triển đất nước và từng
bước khẳng định vị thế bản lĩnh của dân tộc mình trước cộng đồng.

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bản sắc và toàn cầu hóa - GS. Cao Huy Thuần
2. Bản sắc văn hoá của dân tộc Việt Nam - GS. Minh Chi
3. Công nghiệp hóa - hiện đại hóa và vấn đề giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc
Nguyễn Văn Huyên.
4. Website trường chính trị Nghệ An:
/>
5. Website tạp chí “Tuyên Giáo số 1”:
/>
6. Website “Báo điện tử Đảng Cộng Sản Việt Nam” :
/>
15



MỤC LỤC

15



×