Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

BT lớn đường lối

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (98.01 KB, 14 trang )

MỤC LỤC

A. MỞ ĐẦU
Quốc hội nước Việt Nam dân chủ công hoà ra đời là thành quả đấu
tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng
và chủ tịch Hồ Chí Minh. Tại kỳ họp thứ hai của Quốc hội khoá I,
bản Hiến pháp đầu tiên trong lịch sử lập hiến của nước nhà đã được
thông qua ngày 9-11-1946. Sự ra đời của Hiến pháp 1946 là một sự
kiện trọng đại trong lịch sử đấu tranh cách mạng nước ta, mở ra một
kỷ nguyên mới, đưa nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành những
chủ nhân thực sự của đất nước. Ngoài ra, bản Hiến pháp 1946 còn là
1

1


văn bản chính trị - pháp lý đầu tiên khẳng định về thể chế chính trị,
các nguyên tắc cơ bản về tổ chức, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân; là nền móng cho các bản Hiến pháp sau này của nước ta.
Để tìm hiểu rõ hơn vai trò và tầm quan trọng của Hiến pháp 1946
em xin trình đề số 4: “Quá trình xây dựng, ra đời và giá trị của
Hiến pháp đầu tiên” cho bài tập học kỳ của mình.
B. NỘI DUNG
I. Quá trình xây dựng và ra đời của Hiến pháp 1946
1.1. Quá trình xây dựng của Hiến pháp 1946
Trong những năm tháng bôn ba hải ngoại tìm đường cứu nước,
Nguyễn Ái Quốc nhận thức một cách sâu sắc nỗi nhục của cảnh mất
nước và giá trị cao quý của một nhà nước độc lập và có chủ quyền.
Vì vậy, Nguyễn Ái Quốc sớm hình thành tư tưởng lập hiến và khẩu
hiệu lập hiến của Người trước khi có nhà nước kiểu mới sau Cách
mạng tháng Tám năm 1945 là khẩu hiệu lập hiến mang tính chất đấu


tranh. Trong “Việt Nam yêu cầu ca” Nguyễn Ái Quốc đã khái quát
các điều yêu sách lên mức luật hiến cho nhân dân Việt Nam:
“Bảy xin hiến pháp ban hành,
Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”1
Hay trong bản yêu sách gửi cho Hội Vạn quốc ký tên cùng với Phan
Bội Châu và Phan Chu Trinh, Người đề nghị: “Nếu được độc lập
ngay thì nước chúng tôi sắp đặt một nền Hiến pháp…”2.
1 Hồ Chí Minh: sđd. t.1, tr.438
2 Hồ Chí Minh toàn tập, T.4, NXB Chính trị Quốc gia, H.1995, trang 8.

2

2


Tuy nhiên, để thực hiện tư tưởng của mình thành sự thực
Nguyễn Ái Quốc đã mất hơn 27 năm. Khi đã trở thành Chủ tịch
nước, tư tưởng của Người được thể hiện trong Hiến pháp 1946 –
Hiến pháp đầu tiên của nước nhà.
1.2. Hoàn cảnh ra đời của Hiến pháp 1946
Ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã đọc bản “Tuyên ngôn độc lập” khai sinh ra nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Ngay sau đó, trong phiên họp đầu tiên
của Chính phủ ngày 3-9-1945, Hồ Chủ tịch đã đề ra sáu nhiệm vụ
cấp bách của Chính phủ. Một trong những nhiệm vụ cấp bách đó là
xây dựng Hiến pháp. Người viết: “Trước chúng ta đã bị chế độ quân
chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần
chuyên chế nên nước ta không có Hiến pháp, nhân dân ta không
được hưởng quyền tự do, dân chủ. Chúng ta phải có một Hiến pháp
dân chủ”3.

Ngày 20-9-1945, Chính phủ Lâm thời ra Sắc lệnh thành lập Ban
dự thảo Hiến pháp gồm 7 người do chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu.
Tháng 11-1945, Ban dự thảo đã hoàn thành công việc và bản dự
thảo được công bố cho toàn dân được thảo luận. Hàng triệu người
Việt Nam từ người nông dân, công nhân đến trí thức,…đều hăng hái
tham gia đóng góp ý kiến cho bản dự thảo chứa đựng ước mơ bao
đời của nhân dân ta về độc lập và tự do.
Ngày 2-3-1946, Quốc hội đã nghe Chính phủ trình bày bản dự
thảo Hiến pháp. Trên cơ sở đó, Quốc hội (khoá I, Kỳ họp thứ nhất)
3 Hồ Chí Minh: Toàn tập, xuất bản lần thứ hai, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996,
t.4,tr.8

3

3


đã thành lập Ban dự thảo Hiến pháp gồm 11 người, đại biểu của
nhiều tổ chức, đảng phái khác nhau do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng
đầu. Ban dự thảo có nhiệm vụ tổng kết các ý kiến đóng góp của
nhân dân và xây dựng bản dự thảo cuối cùng để đưa ra Quốc hội
xem xét và thông qua.
Ngày 28-10-1946, tại Nhà hát lớn Hà Nội, kỳ họp thứ hai của
Quốc hội khoá I đã khai mạc. Ngày 9-11-1946, sau hơn mười ngày
làm việc khẩn trương, Quốc hội đã thông qua bản Hiến pháp đầu
tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà với 240 phiếu thuận, 2
phiếu không tán thành là đại biểu Nguyễn Sơn Hà và Phạm Gia
Đường.
Vào thời điểm Quốc hội thông qua Hiến pháp, thực dân Pháp
phản bội các hiệp định đã ký kết với Chính phủ ta. Trong tình thế

không còn gì để mất, chúng điên cuồng khiêu khích và tấn công
chúng ta bằng vũ lực, hòng lập lại ách thống trị của chúng ở Việt
Nam. Trước tình hình đó, trong phiên họp ngày 9-11-1946, sau khi
tuyên bố Hiến pháp đã trở thành chính thức, Quốc hội ra Nghị quyết
giao nhiệm vụ cho Ban thường trực Quốc hội cùng với Chính phủ
ban bố và thi hành Hiến pháp khi có điều kiện thuận lợi. Theo Nghị
quyết của Quốc hội trong điều kiện chưa thi hành được Hiến pháp
thì Chính phủ phải dựa vào những nguyên tắc đã quy định trong
Hiến pháp để ban hành các sắc luật. Ngày 19-12-1946, mười ngày
sau khi Quốc hội thông qua Hiến pháp, cuộc kháng chiến toàn quốc
bùng nổ. Do hoàn cảnh chiến tranh mà Hiến pháp 1946 không được

4

4


chính thức công bố, việc tổ chức tổng tuyển cử bầu Nghị viện nhân
dân không có điều kiện thực hiện. Tuy nhiên Chính phủ
1.3. Nội dung cơ bản của Hiến pháp 1946
Hiến pháp gồm lời nói đầu, 7 chương và 70 điều. Lời nói đầu
ghi nhận thành quả của Cách mạng tháng Tám đã giành lại chủ
quyền cho đất nước, tự do cho nhân dân và lập nền dân chủ cộng
hoà. Lời nói đầu đã xác định ba nguyên tắc cơ bản của Hiến pháp,
đó là:
- Đoàn kết toàn dân không phân biệt giống nòi, gái, trai, giai
cấp, tôn giáo
- Đảm bảo các quyền tự do dân chủ
- Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân
Chương I quy định về chính thể, theo đó Việt Nam là nhà nước

dân chủ cộng hoà. Chương II quy định về nghĩa vụ và quyền lợi của
công dân. Chương III và chương IV Hiến pháp quy định cơ cấu tổ
chức bộ máy nhà nước, gồm các cơ quan: Nghị viện nhân dân,
Chính phủ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban hành chính và Toà án.
Về cơ cấu tổ chức nhà nước, Hiến pháp 1946 có những đặc
điểm của chính thể cộng hoà lưỡng tính. Chủ tịch nước không
những là nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu nhà nước, mà còn là
trực tiếp lãnh đạo hành pháp. Bên cạnh đó, người đứng đầu Chính
phủ (Thủ tướng) phải do Nghị viên nhân dân (Quốc hội) thành lập
và phải chịu trách nhiệm trước Nghị viện. Trong khi đó, nguyên thủ
quốc gia mặc dù cũng do Nghị viện bầu ra, nhưng lại không phải
chịu trách nhiệm trước Nghị viện. Ngoài việc thể hiện mối quan hệ
5

5


tương đối độc lập giữa lập pháp và hành pháp, Hiến pháp 1946 còn
những đặc điểm khác rất đặc biệt với các hiến pháp Việt Nam sau
này (các cơ quan tư pháp chỉ gồm hệ thống toà án được tổ chức theo
các cấp xét xử, mà không phải theo cấp đơn vị hành chính như quy
định về sau này; việc tổ chức chính quyền địa phương có xu hướng
phân biệt giữa thành phố, đô thị với các vùng nông thôn…).
II. Những giá trị của Hiến pháp 1946
Điểm nổi bật của Hiến pháp 1946 được thể hiện ở các giá trị lịch sử,
chính trị, pháp lý có tính nhân văn cao cả. Đó là những giá trị lớn,
bền vững nhất được tiếp thu và kế thừa xuyên suốt trong các bản
hiến pháp tiếp theo của đất nước
2.1. Giá trị lịch sử
Thứ nhất, Hiến pháp 1946 thể hiện tư tưởng lập hiến của Hồ Chí

Minh
Trong nội dung của bản Hiến pháp 1946, theo cụ Vũ Đình Hòe thì
chính bản thân Người đã soạn thảo “Lời nói đầu” của Hiến pháp,
thể hiện rõ linh hồn của Hiến pháp là “đoàn kết toàn dân không
phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo. Đảm bảo các quyền
tự do dân chủ. Thực hiện chính quyền mạnh mẽ của nhân dân” 1.
Với tư tưởng về một “nhà nước của số đông, quyền giao cho dân
chúng số nhiều”, các quy định của Hiến pháp 1946 đã thể hiện
nhiều quan điểm của Hồ Chí Minh về nền lập hiến. Theo đó, Hiến
pháp đã xác định một chính thể mới, một cách thức tổ chức bộ máy
nhà nước theo phương thức mới. Hiến pháp xác định “nước Việt
6

6


Nam là một nước dân chủ cộng hoà. Tất cả quyền bính trong nước
là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái
trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Chính thể đó không chỉ là chế
độ chính trị tiến bộ mà còn là sự thống nhất về lãnh thổ Trung Nam
Bắc không thể phân chia.
Về tổ chức bộ máy, Hiến pháp 1946 xác định cơ cấu tổ chức quyền
lực nhà nước để tăng cường hiệu quả quản lý và điều hành xã hội.
Quyền năng giữa các cơ quan nhà nước được phân chia khá rõ và
nhiều cơ chế kiểm tra, giám sát lẫn nhau đã được thiết kế.
Các quyền cơ bản mà người dân Việt Nam trước đó chưa từng được
ghi nhận, nay cũng được trang trọng đặt trong Hiến pháp. Tinh thần
chung bao quát Hiến pháp 1946 là dân chủ. Dân chủ được thể hiện
trong quyền làm chủ của người dân và cả trong mối quan hệ của các
cơ quan thực hiện quyền lực nhà nước. Có thể nói rằng, Hiến pháp

1946 là bản Hiến pháp thể hiện rõ nhất tinh thần cơ bản tư tưởng lập
hiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Thứ hai, Hiến pháp 1946 xác lập quyền độc, lập tự do và bình đằng
của dân tộc Việt Nam
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945 và sự ra đời của nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã mở ra một kỷ nguyên mới trong
tiến trình lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam - kỷ nguyên độc
lập, tự do. Tuyên ngôn độc lập được Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc
trước quốc dân đồng bào ngày 2- 9-1945 đã khẳng định quyền dân
tộc của các nước là bất khả xâm phạm: “Tất cả các dân tộc trên thế
giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền
7

7


sung sướng và quyền tự do”. Quyền độc lập, tự do của nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà là sản phẩm của cuộc đấu tranh cách mạng
để thực hiện quyền dân tộc thiêng liêng của mình và phù hợp với
các nguyên tắc dân tộc bình đẳng đã được các nước Đồng minh
công nhận ở các hội nghị Têhêrăng và Cựu Kim Sơn. Tuyên ngôn
độc lập là một văn kiện pháp lý quan trọng đầu tiên của Chính phủ
lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khẳng định về
quyền độc lập và tự do của dân tộc Việt Nam1.
Quyền dân tộc thiêng liêng của nhân dân Việt Nam là độc lập, tự do;
chính thể dân chủ cộng hoà; quyền lực của toàn dân và nghĩa vụ của
công dân Việt Nam đã được quy thành các điều quan trọng hàng đầu
của Hiến pháp 1946.
Căn cứ vào nhiệm vụ của dân tộc trong giai đoạn lịch sử lúc bấy giờ
và nguyên tắc đã được xác định, Hiến pháp khẳng định:

“Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa”
Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam,
không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”
(Điều 1).
“Đất nước Việt Nam là một khối thống nhất Trung Nam Bắc không
thể phân chia”(Điều 2).
Là một dân tộc đã trải qua nhiều năm bị đô hộ nên người dân Việt
Nam ý thức được giá trị và ý nghĩa quý báu của độc lập và tự do. Vì
vậy, với tư cách là bản Hiến pháp đầu tiên của dân tộc và là một văn
kiện pháp lý có giá trị cao, Hiến pháp 1946 đã khẳng định một cách
rõ ràng quyền độc lập, dân chủ, tự do của đất nước.
8

8


Hơn thế nữa, những thành tích vẻ vang của cách mạng cũng đã được
Hiến pháp ghi nhận. Lời nói đầu của Hiến pháp đã ghi rõ: “Cuộc
cách mạng tháng Tám đã giành lại chủ quyền cho đất nước, tự do
cho nhân dân và lập ra nền dân chủ cộng hoà... Nhiệm vụ của dân
tộc ta trong giai đoạn này là bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn
toàn và kiến thiết quốc gia trên nền tảng dân chủ”.
Thứ ba, Hiến pháp 1946 khẳng định bản chất dân chủ của Nhà
nước Việt Nam
Xuyên suốt nội dung của bản Hiến pháp, tính chất dân chủ của Nhà
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã được ghi nhận như một giá trị
điển hình. Dân chủ được thể hiện ở việc trao quyền quyết định các
vấn đề trọng đại của đất nước cho người dân và xác lập mục tiêu
hoạt động của các cơ quan nhà nước là vì nhân dân.
Điều này được thể hiện thông qua các quy định: “Tất cả quyền bính

trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam” (Điều 1); “Chế độ
bầu cử là phổ thông đầu phiếu” (Điều 17); “nhân dân có quyền bãi
miễn các đại biểu mình bầu ra” (Điều 20) ... Bên cạnh việc thừa
nhận hình thức dân chủ đại diện qua việc nhân dân bầu lên Nghị
viện, nhân dân còn có quyền thực hiện một số quyền dân chủ trực
tiếp qua các quy định: “Nhân dân có quyền phúc quyết về Hiến
pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia”; “Nghị viện
nhân dân do công dân Việt Nam bầu ra” (Điều 24); “Nghị viện nhân
dân họp công khai, công chúng được vào nghe” (Điều 30); “những
việc liên quan đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc
quyết” (Điều 21)1. Những quy định mang tính chất dân chủ này là
9

9


một giá trị rất đặc thù của Hiến pháp 1946 dù được thể hiện ở các
chừng mực khác nhau trong các bản hiến pháp về sau nhưng nguyên
tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân thì luôn được duy trì đầy
đủ, mặc dù mỗi một giai đoạn lịch sử của nước ta có một bản hiến
pháp khác nhau để thực hiện những sứ mệnh nhất định.
Thứ tư, Hiến pháp 1946 – nền tảng của nhà nước pháp quyền ở
Việt Nam
Pháp quyền được hiểu là những nguyên tắc và phương thức tổ chức
quyền lực sao cho lạm quyền không thể xảy ra và quyền tự do, dân
chủ của nhân dân được bảo vệ. Từ cách hiểu này có thể thấy, Hiến
pháp 1946 là văn kiện mang tính nền tảng cho việc phấn đấu xây
dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Hiến pháp thể hiện tư
tưởng pháp quyền một cách sâu sắc khi quy định về Quốc hội lập
hiến và quyền phúc quyết của người dân; quy định và bảo đảm các

quyền của công dân; thiết kế bộ máy nhà nước thành các nhánh
quyền lực và kiểm soát chặt chẽ lẫn nhau trong đó nhấn mạnh đến
tính độc lập của hệ thống tòa án; v.v...
Theo quy định của Hiến pháp 1946, nước ta có Nghị viện nhân dân
với nhiệm kỳ ba năm. Sau khi thông qua Hiến pháp, Quốc hội lập
hiến sẽ tự giải tán để tổ chức bầu Nghị viện nhân dân. Nghị viện
nhân dân không thể tự mình sửa đổi Hiến pháp. Mọi sự sửa đổi, bổ
sung đều phải đưa ra toàn dân phúc quyết. Tuy nhiên, trên thực tế
việc bầu Nghị viện nhân dân chưa thực hiện được do hoàn cảnh
chiến tranh lan rộng. Quốc hội đã thảo luận và nhất trí giao cho Ban
Thường trực Quốc hội phối hợp với Chính phủ để quy định việc thi
10

10


hành Hiến pháp. Quốc hội tiếp tục hoạt động, gánh vác trách nhiệm
mới, làm nhiệm vụ lập hiến và cả nhiệm vụ lập pháp.
Các quyền của người dân cũng được Hiến pháp ghi nhận và bảo
đảm. Có thể nói, nếu so sánh giá trị bảo đảm giữa Hiến pháp và Nhà
nước về vấn đề này thì Hiến pháp có giá trị ghi nhận và bảo đảm
cao hơn Nhà nước. Theo đó, Nhà nước phải có nghĩa vụ thực thi,
không có quyền thay đổi một cách tuỳ tiện những quyền và nghĩa vụ
cơ bản của công dân. Quyền thay đổi này chỉ thuộc về nhân dân qua
thủ tục sửa đổi Hiến pháp2.
Thứ năm, Hiến pháp 1946 đã đặt ra những nguyên tắc cho việc tổ
chức bộ máy nhà nước
Căn cứ vào những quy định về mô hình tổ chức quyền lực nhà nước
trong Hiến pháp 1946, có thể thấy, bản Hiến pháp này đã tiếp thu có
chọn lọc các hiến pháp dân chủ và tiến bộ của các nước, đồng thời

đã Việt hóa một cách tối đa cho phù hợp với điều kiện nước ta. Hiến
pháp 1946 đã cố gắng phân định rõ các quyền: lập pháp, hành pháp
và tư pháp, theo đó, quyền lập pháp được trao cho Nghị viện nhân
dân - cơ quan cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa;
quyền hành pháp thuộc về Chính phủ và tòa án nắm quyền tư pháp.
Chế độ “hành pháp hai đầu” cũng được áp dụng trong bản Hiến
pháp này của nước ta. Trong đó, một phần quyền lực hành pháp
thuộc về Chủ tịch nước, một phần thuộc về Thủ tướng, nhưng chủ
yếu tập trung vào Chủ tịch nước1.
Hiến pháp 1946 tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước bằng cách
phân công lao động quyền lực giữa các cơ quan cao nhất của quyền
11

11


lực nhà nước. Đây được coi là bài học quý báu cho việc nghiên cứu,
học hỏi phục vụ cho quá trình đổi mới bộ máy nhà nước của nước ta
trong thời gian tới.
Thứ sáu, Hiến pháp 1946 ghi nhận và đảm bảo các quyền con
người
Hiến pháp 1946 đã dành hẳn Chương II gồm 18 điều để quy định về
quyền con người và bảo đảm quyền con người (Chương II: Các
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân). Có thể khẳng định rằng,
đây là lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc Việt Nam, các quyền tự do,
dân chủ của con người được đạo luật cơ bản nhất ghi nhận và bảo
đảm, người dân Việt Nam được xác nhận có tư cách công dân của
một nước độc lập có chủ quyền.
Trong bản Hiến pháp này, hàng loạt các quyền của con người đã
được ghi nhận:

- Các quyền bình đẳng: bình đẳng về chính trị, kinh tế, văn hóa
(Điều 6), bình đẳng trước pháp luật, tham gia chính quyền và công
cuộc kiến quốc tùy theo tài năng và đức hạnh của mình (Điều 7),
bình đẳng giữa các dân tộc, quốc dân thiểu số được giúp đỡ về mọi
phương diện để nhanh chóng tiến kịp trình độ chung (Điều 8); phụ
nữ bình đẳng với nam giới (Điều 9);
- Các quyền tự do: tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức
hội họp, tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài, tự do tín
ngưỡng (Điều 10), tự do về thân thể (không bị bắt bớ, giam cầm nếu
không có quyết định của tư pháp), thư tín, nhà ở không ai được xâm
phạm (Điều 11);
12

12


- Các quyền dân chủ: bầu cử, ứng cử, bãi miễn (Điều 17 đến Điều
19), phúc quyết về Hiến pháp và những quan hệ đến vận mệnh quốc
gia (Điều 21).
- Các quyền về kinh tế: quyền tư hữu của công dân được đảm bảo
(Điều 12), quyền lợi của giới cần lao trí thức và chân tay được bảo
đảm (Điều 13);
- Các quyền về văn hóa: nền sơ học và cưỡng bách không học phí,
học trò nghèo được Chính phủ giúp đỡ, trường tư được mở tự do và
phải dạy theo chương trình của nhà nước, quốc dân thiểu số được
học bằng tiếng của mình ở sơ học (Điều 15);
- Các quyền về xã hội: công dân già yếu, tàn tật được giúp đỡ; trẻ
em được chăm sóc về mặt giáo dưỡng (Điều 14).
Chế định về quyền công dân được Hiến pháp 1946 ghi nhận có ý
nghĩa rất lớn đối với một dân tộc như Việt Nam sau một thời gian

dài dưới sự thống trị của các triều đại phong kiến và nhiều năm bị
sự đô hộ của thực dân Pháp. Người dân trong các chế độ đó không
được coi là một công dân theo đúng nghĩa của nó mà bị coi là
những “thần dân” với những quyền dân chủ rất hạn chế. Do vậy, với
sự ra đời của Hiến pháp 1946 trong một chính thể nhà nước cộng
hoà, người dân Việt Nam đã thực sự được công nhận những quyền
cơ bản của con người và chuyển sang vị thế làm chủ đất nước.

13

13


2.2. Giá trị pháp lý
2.3. Giá trị lí luận – pháp quyền đối vs chúng ta
2.4. Giá trị thực tiễn
 Giá trị tư tưởng dân chủ trong Hiến pháp, hay nhất
C. KẾT THÚC

14

14



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×