Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

Đề cương ôn thi môn ngữ văn 2018

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (472.18 KB, 94 trang )

ĐỀ CƯƠNG ÔN THI THPT QUỐC GIA MÔN NGỮ VĂN NĂM 2018
1. CHIỀU TỐI
Mở bài:
Với bút pháp vừa cổ điển vừa hiện đại, bằng một vài nét chấm phá, Bác
đã khắc họa được một bức tranh trời chiều xinh xắn nơi núi rừng có ánh lửa
hồng của lò than nhà ai chiếu sáng hình ảnh cô gái lao động. Từ bức tranh thơ
bừng sáng lên một tấm lòng lạc quan, đôn hậu đối với con người và đặc biệt
nhạy cảm trước vẻ đẹp thiên nhiên của Bác. Đó chính là nét đặc sắc nhất của bài
thơ “ Chiều tối”.
Thân bài:
I.Hoàn cảnh sáng tác:
Trong tác phẩm “ Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch”
tác giả Trần Dân Tiên có cho biết hoàn cảnh sáng tác của bài thơ như sau: “
Người ta giải Cụ Hồ đi nhưng không cho biết Cụ đi đâu.Tay bị trói giật cánh
khuỷu, cổ mang xích, có sáu người lính mang súng giải đi, đi mãi nhưng vẫn
không cho biết đi đâu. Dầm mưa, dãi nắng, trèo núi, qua truông. Mỗi buổi sáng
gà gáy đầu, người ta đã giải Cụ Hồ đi, mỗi buổi chiều, khi chim về tổ, người ta
dừng lại ở một địa phương nào đó giam Cụ vào trong một xà lim, trên một đống
ra bẩn, không cởi trói cho Cụ ngủ”.
II. Sự hài hòa giữ cảnh và tình: ( Biểu hiện tâm trạng trong cảnh vật)
Phải gắn bài thơ,với cảnh tù đày, chuyển lao đầy gian khổ của Bác như
thế, chúng ta mới thấy hết ý nghĩa sâu xa của bài thơ. Suốt ngày phải chuyển lao
gian khổ, gần về tối, người tù ngẩng đầu lên đỉnh trời rồi bất chợt nhận ra cánh
chim bay về rừng tìm chốn ngủ và làn mây lẻ loi lững lờ trôi. Dù lâm vào cảnh
ngộ bị đọa đày, Hồ Chí Minh vẫn thể hiện tình cảm yêu mến, thiết tha và thái độ
đồng cảm, chia sẻ với tạo vật thiên nhiên vùng sơn cước lúc chiều buông. Bởi: “
Bác yêu trăng như thể yêu người”. Đối với Bác hoa với trăng là bạn.
Hình ảnh thơ của Bác xuất hiện thật tự nhiên. Tuy là hình ảnh thơ mang
màu sắc ước lệ của thơ cổ điển, nhưng vẫn phù hợp với cảnh thực, tâm trạng
thực của nhà thơ. Bởi cũng như tâm trạng con người đang mệt mỏi cô đơn, hình
ảnh cánh chim xuất hiện ở câu thơ đầu tiên gợi cho ta một cái gì đó mệt mỏi,


chán chường
“ Quyên Điểu quy lâm tầm túc phụ”
Ở đây đã có sự hòa hợp cảm thông giữa con người và cảnh vật. Điều đó
cũng được thể hiện rõ hơn ở câu thơ thứ hai bởi từ “ Cô vân mạn mạn độ thiên
không”. Bản dịch chưa lột tả được hết ý, hết tình trong hình ảnh “ cô vân” và từ
“ mạn mạn” trong nguyên tác. Hình ảnh “ cô vân” nói lên làn mây lẻ loi cô đơn
gợi nỗi buồn đơn côi của cảnh chiều. Từ “mạn mạn” nghĩa là chậm chậm cũng
gợi lên sự uể oải, lững lờ của đám mây chiều. Điều đó làm cho làn mây cũng trở
nên có tâm trạng hơn,dường như nó cũng mang nỗi buồn như con người.


Thơ ca cổ điển xưa nay hay sử dụng thủ pháp lấy không gian để miêu tả
thời gian. Cho nên trong cảnh chiều muộn thường xuất hiện hình ảnh cánh chim,
làn mây:
Chim hôm thoi thót về rừng
(Nguyễn Du)
“Chúng điểu cao phi tận
Cô vân độc khứ nhàn”
(Lý Bạch)
Xuân Diệu dịch:
“Chim rừng một loạt cao bay
Trên trời lơ lửng đám mây một mình”
Ở đây thơ Bác cũng có hình ảnh chim bay mỏi nhưng lại có thêm hình
ảnh cỏ vân. Song không phải là cô vân độc khứ nhàn, gợi sự nhàn nhã, cô độc,
thanh cao, phiêu diêu, thoát tục mà là “Cô vân mạn mạn độ thiên không” làm
cho khung cảnh buổi chiều thêm cô đơn, mệt mỏi buồn thương hơn. Đúng là câu
thơ của một tù nhân vào buổi chiều tà nơi xa xứ. Bởi “Người buồn cảnh có vui
đâu bao giờ”. Buồn vì xa tổ quốc quê hương, bạn bè đồng chí, trong khi Cách
mạng đang mong chờ, buồn vì bị mất tự do không biết bao giờ mới được ra khỏi
tù. Người trong cảnh ấy, cảnh trong tình này Bác vui sao được? Chưa kể cảnh

ngộ trong bài thơ chiều tối của Bác còn là điểm tiếp nối hai sự đoạ đầy của
người tù. Sự đoạ đầy ban ngày chưa qua, sự đoạ đầy ban đêm đang chờ đợi phía
trước.
Hai câu sau: ý thơ của Bác rất hiện đại luôn luôn hướng về sự sống và ánh
sáng. Nhưng nếu bài thơ của Bác chỉ dừng lại ở đó thì nhà thơ Hồ Chí Minh của
chúng ta có hơn gì các nhà thơ cổ điển như Bà Huyện Thanh Quan, Đỗ Phủ, Lý
Bạch, đặc biệt là nhà thơ Liễu Tống Nguyên với bài thơ “Giang Tuyết” hết sức
tĩnh lặng và lạnh lẽo.
“Ngàn non bóng chim tắt
Muôn nẻo dấu người không
Thuyền đơn, ông tơi nón
Một mình câu tuyết sông”
Song thơ Bác rất cổ điển mà cũng rất hiện đại cho nên đến hai câu sau
Bác viết:
“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hang”


Đến hai câu thơ này bức tranh trữ tình về cảnh trời mây đã nhường chỗ
cho bức tranh sinh hoạt gần gũi ấm áp của con người. Câu thơ chỉ là một lời lẽ
bình thường. Nhưng ý thơ thì sinh động và đẹp đẽ biết bao trong nguyên văn
“Sơn thôn thiếu nữ”, mà dịch thành “có em xóm núi” thì lời dịch đã làm sai lệch
mất ý thơ rất hay trong nguyên tác. Với câu thơ ấy, bác đã đưa hình ảnh cô gái
lao động lên vị trí trung tâm, đẩy lùi về phía sau nền trời chiều với cánh chim
bay mỏi và làn mây trôi nhẹ. Ta nên nhớ rằng trong thơ xưa, cảnh thiên nhiên
thường vắng bóng con người, và con người bị hoà vào thiên nhiên:
“Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà”
Bài thơ “Chiều tối” được kết thúc bằng một hình ảnh thật tự nhiên mà bất
ngờ thú vị “xay hết lò than đã rực hồng”. Ngọn lửa hồng ấm áp đã bừng sáng.

1. Như thế là bài thơ tứ tuyệt của Bác đã diễn tả được sự vận động của
thời gian từ chiều đến tối hẳn. Tìm hiểu trong câu thơ nguyên tác của Bác,
chúng ta thấy câu thơ không có chữ “tối” mà nói được cái tối, bởi thời gian cứ
trôi dần theo cánh chim bay, làn mây, cùng nhịp vòng quay cối xay ngô. Điệp từ
“bao túc” được Bác dùng theo trật tự đảo gợi được sự đều đều của vòng quay,
cối xay ngô của sự tuần hoàn luân chuyển của thời gian và cho đến khi cối xay
dừng lại lò than đã rực hồng, tức là thời gian đã tối hẳn. Có thế mới làm nổi rõ
được cái rực hồng của lò than vốn đã hồng từ lúc nào. Ở đây, tưởng dùng cái
sáng để nói cái tối. Đó là một thủ pháp rất quen thuộc của thơ ca cổ điển. Thế
mà bản dịch đã đưa thêm một chữ tối vào làm giảm tính hàm xúc và mất đi vẻ
đẹp cổ điển tinh tế có màu sắc rất Đường Tống này của hình ảnh thơ Bác.
2. Cùng với sự vận động của thời gian ấy là sự vận động của cảnh sắc, tư
tưởng tính chất của tác giả. Sự vận động và chuyển biến thật bất ngờ khoẻ
khoắn. Từ tối đến sáng, từ tàn lụi đến sự sống, từ buồn đến vui, từ lạnh lẽo đến
cô đơn đến ấm nồng. Suốt ngày phải chuyển lao gian khổ vượt vúi băng rừng,
lội suối; còn phía trước biết đâu một số tối nhà ngục lạnh giá đầy muỗi rệp, xích
xiềng đang chờ đợi. Đã thế, cảnh chiều buông nơi miền sơn cước tỉnh Quảng
Tây lại dễ khêu gợi nỗi sầu tha hương, vậy ý thơ của Bác đi từ bóng tối đến ánh
sáng, từ buồn đến vui, một cái vui tràn đầy trong cuộc sống (Hoài Thanh). Điều
này được thể hiện rõ nhất ở chữ “hồng” cuối bài thơ. Đây chính là chỗ đẹp nhất
của bài “Chiều tối”.
“Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hoả đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn tự


Dạ bản chung thành đáo kháng huyền”.
Không phải là hình ảnh “Lửa trại cây bến, sầu vương giấc hồ” trong thơ
“Trương kể” mà là ánh lửa hồng đầm ấm reo vui hạnh phúc, ánh lửa hồng của
sự sống, niềm lạc quan. Với một chữ “hồng” Bác đã làm sáng rực lên toàn bộ

bài thơ đã làm mất đi sự mệt mỏi, uể oải, vội vã, nặng nề đã diễn tả trong 3 câu
thơ đầu, đã làm sáng rực lên gương mặt cô gái sau khi xay xong ngô tối. Chữ
“hồng” trong nghệ thuật đời thường, người ta gọi là nhãn tự (chữ con mắt). Một
mình chữ “hồng” đã làm cân bằng sinh khớ cho cả bài thơ, đúng như Hoàng
Trung Thông đã nhận xét: "Với chữ “hồng” đó, có ai còn cảm giác nặng nề, mệt
mỏi nhọc nhằn nữa đâu mà chỉ thấy màu đỏ đã nhuốm lên cả bóng đêm, cả thân
hình, cả lao động của cô gái yêu kia. Đó là màu đỏ của tình cảm nhân ái, lạc
quan Bác Hồ". Chữ “hồng” cũng góp phần tạo nên chất hội hoạ cho bài thơ,
khắc hoạ được một bức tranh có cảnh vật có con người, có gam màu tối sáng.
Như vậy Bác Hồ đã vượt lên trên cái cảnh ngộ khổ đau buồn bã của bản thân để
hướng tâm hồn mình đến quan tâm chia sẻ với niềm vui giản dị của cô gái là xay
ngô nơi xóm núi. Mới biết mọi vui buồn sướng khổ của chủ tịch Hồ Chí Minh
nhiều khi không thể giải thích được bằng cảnh ngộ riêng của Người mà phải căn
cứ vào cảnh ngộ của người khác; của nhân dân, của nhân loại. Đây là một tấm
lòng nhân đạo lớn đã đạt đến mức “nâng niu tất cả chỉ quên mình”.
“Ôi lòng Bác vậy cứ thương ta
Thương cuộc đời chung, thương cỏ hoa
Chỉ biết quên mình cho hết thảy
Như dòng sông chảy nặng phù sa”
Kết Luận:
“Chiều tối” là một bài thơ nhỏ mà đã thể hiện một phong cách lớn: phong cách Bác
Hồ:
“Tinh hoa trái đất, chất kim cương
Con người đẹp nhất trong nhân loại
Trí tuệ tình yêu của bốn phương”
Bài thơ đã toả sáng một tấm lòng nhân đạo bao la. Chính tấm lòng ấy đã làm cho
bài thơ “Chiều tối” không phải là kết thúc bằng hình ảnh bóng đêm tăm tối mà
bừng sáng một ngọn lửa hồng ấm áp.



Đề 8: Phân tích “Chiều tối” để làm nổi bật nét cổ điển, hiện đại.
I.Giới thiệu vài nét về bài thơ.
1.”Nhật ký trong tù” là tập thơ đặc sắc của HCM. Qua những bài thơ hay và
tiêu biểu của tập thơ, người đọc thấy màu sắc đậm đà của hồn thơ HCM là màu
sắc cổ điển. Đó là giàu tình cảm với thiên nhiên, hình tượng nhân vật trữ tình
ung dung thư thái, bút pháp chấm phá như muốn ghi ấy linh hồn của tạo vật..
nhưng cổ điển mà vẫn gắn bó tinh thần của thời đại. Hình tượng thơ luôn luôn
vận động hướng về sự sống, ánh sáng, tương lai; trong quan hệ với thiên nhiên,
con người luôn giữ vai trò chủ thể.. Không phải là ẩn sĩ mà là chiến sĩ. Bài thơ
“Chiều tối” thể hiện rõ sự kết hợp chất cổ điển và chất hiện đại đó.
2.Vẻ đẹp cổ điển trong bài thơ “Chiều tối”
a. Trong bài thơ “ Chiều tối” HCM đã sử dụng hình ảnh cánh chim và chòm mây
để diễn tả không gian và thời gian buổi chiều. Đó là hình ảnh rất quen thuộc
trong thơ ca truyền thống.
b. Ở bài “Chiều tối”, chung ta bắt gặp một pháp nghệ thuật rất quen thuộc-đó là
bút pháp chấm phá, tả ít gợi nhiều. Đặc biệt tác giả dùng chữ “hồng” ở cuối bài
thơ để miêu tả cái tối.
3.Vẻ đẹp hiện đại của bài thơ “Chiều tối”
a. Nếu như trong thơ xưa, con người thường trở nên nhỏ bé nhạt nhoà trước
thiên nhiên rộng lớn, thì ở bài tho “Chiều tối”, hình ảnh người lao động, “cô gái
xay ngô” nổi bật lên và là hình ảnh trung tâm của bức tranh thiên nhiên, là linh
hồn, là ánh sáng của bức tranh, chi phối toàn bộ khung cảnh nước non sơn thuỷ.
b. Trong bài thơ “Chiều tối”, chúng ta nhận thấy tư tưởng, hình tượng thơ luôn
có sự vận động khoẻ khoắn, đó là sự vận động từ bức tranh thiên nhiên chuyển
sang bức tranh đời sống, từ nỗi buồn đến niềm vui ấm áp từ tàn lụi đến sự sống.
Tóm lại bài thơ mang đạm tính chất cổ điển, hiện đại mang đậm phong
cách Hồ Chí Minh vì thế bài thơ viết về chiều tối mà không âm u mà bừng sang
ở đoạn cuối.



ĐỀ 9: LAI TÂN
MỞ BÀI:
Phong cách nghệ thuật của thơ Hồ Chí Minh thật đa dạng, phong phú mà
thống nhất : Có thơ trữ tình, thơ tự sự, tự trào, có cả thơ châm biếm, đả kích. Nụ
cười châm biếm của Người thật nhẹ nhàng, giản dị, dí dỏm mà vô cùng thâm
thuý sâu cay. Bài “Lai Tân” là một trong những bài đặc sắc nhất cho nét phong
cách của thơ Bác.
THÂN BÀI:
I.Giới thiệu vài nét về bài thơ.
1.Lai Tân là bài thơ được sáng tác trong khoảng thới gian bốn tháng đầu
HCM bị giam giữ tại các nhà tù quốc dân Đảng ở Quảng Tây – Trung Quốc.
2. “Lai Tân” rút ra từ tập “NKTT” của HCM. Bài thơ mang nội dung phê
phán chế độ nhà tù và xã hội TQ với nghệ thuật châm biếm sắc sảo.
II Phân tích
1 Ba câu đầu.
Đó là ba câu tự sự nói về hành vi thường thấy ở ba viên quan lại cai quản
nhà ngục Lai Tân.
a. Ở đây, dường như Bác không bình luận mà chỉ kể lại sự việc. Nhưng
ngẫm cho kĩ, chúng ta thấy ý nghĩa của lời thơ thật sâu xa. Ba đối tượng mà Bác
tập trung phê phán chủ yếu là ba đối tượng từ thấp đến cao, những kẻ cầm quyền
và quản lý trực tiếp trật tự an ninh địa phương. Đó là nhũng kẻ cầm cân nảy mực
thực thi pháp luật, những quan lại “gương mẫu” nhất trong việc vi phạm pháp
luật.
b. Ban trưởng ngày ngày đánh bạc, cảnh trưởng ăn tiền hối lộ của phạm
nhân một cách trắng trợn; huyện trưởng thì “chong đèn làm công việc” nhưng
thực chất “ngài đốt đèn để hút thuốc phiện đấy. Đó là một sự thật trong các
huyện đường Quảng Tây dưới thời Tưởng”.
2 Câu cuối cùng
Một kết luận, một đánh giá về tình trạng của bộ máy cai trị nhà tù.
a. Người đọc chờ đợi một sự lên án quyết liệt hùng hồn. Nhưng Hồ Chí

Minh đã không làm như vậy, mà hạ một câu có vẻ dửng dưng, lạnh lùng : “Trời
đất Lai Tân vẫn thái bình”. Song đòn đả kích độc đáo bất ngờ ấy, thâm thuý sâu
cay cũng lại chính là ở chỗ đấy. Thì ra tình trạng thối nát vô trách nhiệm của bọn
quan lại ở Lai Tân là chuyện bình thường, trờ thành bản chất của bộ máy cai trị
ở đây.
b. Câu kết, nhất là chữ “thái bình” như ẩn giấu “một tiếng cười khẩy” đầy
mỉa mai có ý nghĩa lật tẩy bản chất thối nát của cả bộ máy nhà nước ở Lai Tân.
Nhà phê bình Hoàng Trung Thông đã nhận xét “ở đâu đánh giặc thì cứ đánh,
còn cái trời đất Lai tân này thì vẫn thái bình như muôn thuở”.
KẾT BÀI:
Ở một chỗ khác, Hoàng Trung Thông còn viết tiếp : “một chữ “thái bình”
mà xâu táo lại… bao nhiêu việc làm trên vốn là muôn thuở của xã hội Trung
Quốc, của giai cấp bóc lột thống trị. Chỉ một chữ ấy mà xé toang tất cả sự thái


bình dối trá, nhưng mà thật sự đại loạn là ở bên trong”. (Bác Hồ làm thơ và thơ
của Bác)
2- TỪ ẤY
I. MỞ BÀI:
Trong những năm đầu của thế kỉ XX, chàng thanh niên Tố Hữu “từ vô
vọng mênh mông đêm tối” bỗng nhiên được gặp lý tưởng Đảng. Lý tưởng ấy
như mặt trời rực rỡ đột ngột xuất hiện đã đến gieo vào tâm hồn nhà thơ biết bao
khát vọng nồng nàn, vui sướng vô biên và sức sống mãnh liệt. Để ghi lại giây
phút giàu ý nghĩa ấy, Tố Hữu đã viết nên một bài thơ rất chân thật và cảm
động :“Từ ấy”.
II. THÂN BÀI:
1.Giới thiệu nhan đề bài thơ.
Vẻ đẹp của nhan đề bài thơ này có mối quan hệ với các khổ thơ , các
tác phẩm trong tập thơ cùng tên và con đường thơ ca của Tố Hữu. “Từ ấy”, bản
thân nhan đề đã gợi ra một thời điểm trong cuộc đời con người. Đối với Tố Hữu

là năm 1938 – đây là thời điểm nhà thơ Tố Hữu vinh dự được đứng trong hàng
ngũ của Đảng Cộng Sản tranh đấu cho lý tưởng cách mạng. “Từ ấy” đo đó đã trở
thành một dấu mốc quan trọng trong con đường đời, đường thơ của thi sĩ. Nó
gắn bó chặt chẽ và chi phối mọi cảm xúc, tâm trạng, thái độ, tình cảm của cái tôi
trữ tình trong bài thơ. Do đó, thật dễ hiểu vì sao “Từ ấy” đã trở thành tứ của bài
thơ tự nhiên và nhuần nhuyễn. Và đó cũng là nhan đề Tố Hữu đặt cho tập thơ
đầu tay. Tố Hữu đã có lần tâm sự: “nếu không có “Từ ấy” thì không biết tôi đã
trở thành thế nào, may mắn lắm thì là một người vô tội”.
2. Niềm vui, niềm hạnh phúc tột đỉnh khi gặp lý tưởng cách mạng.
Mở đầu bài thơ, chàng thanh niên cộng sản Tố Hữu đã bày tỏ niềm vui
sướng vô hạn khi cảm thấy ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin soi rọi vào tâm
hồn tươi trẻ của mình. Nếu như “Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ” thì hẳn trước đó
là một bầu không khí ảm đạm, thê lương của mùa đông đè nặng lên tâm hồn thi
sĩ. Được gặp lý tưởng lúc ấy, nhà thơ cảm tưởng giống như một người đang lần
mò trong bóng tối bỗng gặp ánh sáng mặt trời:
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim”
Hình ảnh “bừng nắng hạ”, “mặt trời chân lý” là những hình ảnh rực rỡ,
chói chang của lý tưởng cách mạng vừa làm bừng tỉnh, vừa chiếu toả tâm hồn
nhà thơ Tố Hữu, xua tan và thiêu đốt mọi bóng tối của chủ nghĩa cá nhân trong
tâm hồn thi sĩ và đem lại biết bao sức sống diệu kì. Hình ảnh “mặt trời chân lý
chói qua tim” là một hình ảnh rất sáng tạo. “Mặt trời” gợi lên nguồn sáng duy


nhất, rực rỡ, bất diệt đưa lại sức sống cho muôn loài. Đối với Tố Hữu, “mặt trời”
còn mang thêm ý nghĩa soi đường, dẫn lối cho đời cách mạng, đời thơ của mình:
“Thuyền bơi có lái qua giông tố
Không lái thuyền trôi lạc bến bờ”

có biết bao nhiêu táo bạo, trẻ trung, sướng vui trong tâm hồn chói sáng ấy. Từ
“chói” vừa diễn tả được độ chói sáng , sức xuyên thấu kì diệu của ánh sáng lý
tưởng Đảng, vừa diễn tả được cảm xúc rất đỗi thiêng liêng có cái gì đó gần như
là“choáng váng” của nhà thơ khi bắt gặp lí tưởng Cách Mạng. Đúng như Chế
Lan Viên đã viết:
“Nếp rêu con cũng chói loà ánh sáng
Khi mặt trời tư tưởng rọi hang sâu”
Và trước đấy, ca dao cũng có câu rất hay diễn tả cảm xúc thiêng liêng,khi
bắt gặp mối tình đầu
“Thấy anh như thấy mặt trời
Chói chang khó ngó, trao lời khó trao”
Tâm hồn nhà thơ vừa thoát ra khỏi bầu trời u ám, giá lạnh bởi bóng đêm
xã hội cũ đè nặng lên như thể khu vườn mùa đông cành khô, lá úa khi gặp lý
tưởng bỗng nhiên đã trở thành một khu vườn mùa xuân, mùa hạ tràn đầy sức
sống, chan hoà ánh sáng, đậm đà sắc hương và rộn rã tiếng chim ca:
“Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim”
Tâm hồn Tố Hữu được chính tác giả ví như một “vườn hoa lá” xanh tươi
và tràn ngập ánh nắng, màu sắc, rộn ràng âm thanh reo vui và ngạt ngào hương
thơm. Đó là một hình ảnh rất chính xác mà cũng rất độc đáo, bất ngờ, táo bạo và
giàu ý nghĩa thẩm mĩ. Bằng hình ảnh “vườn hoa lá” - đầy tính chất tượng trưng,
đầy tính chất lãng mạn, cùng với các động từ mạnh “đậm”, “rộn”, tác giả đã
diễn tả được sức sống mãnh liệt, độ lớn của niềm vui và niềm hạnh phúc tột đỉnh
của tâm hồn mình khi bắt gặp lý tưởng. Tâm hồn ấy là tâm hồn thanh xuân vô
cùng đẹp đẽ, tràn đầy nhựa sống, niềm vui. Tuổi trẻ đến với lý tưởng bằng tất cả
khát vọng, say mê là vậy đó. Xuân Diệu, một đại biểu xuất sắc của thơ ca lãng
mạn thời ấy cũng đã có một hình ảnh tương tự khi diễn tả tình cảm trong trẻo,
hồn nhiên, tươi vui của cặp tình nhân ở “Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy”:
“Từ lúc yêu nhau hoa nở mãi
Trong vườn thơm ngát của hồn tôi”

Duyên nợ của nhà thơ và lý tưởng Đảng như duyên nợ của mối tình đầu
có biết bao nhiêu thiêng liêng, tha thiết, bền chặt. Nhưng ở đây, có cái gì đó còn
lớn lao, thiêng liêng hơn cả mối tình đầu, như là sự ơn nghĩa sinh thành. Bởi
Đảng không chỉ tái sinh cuộc đời tác giả, mà còn tạo ra cả hồn thơ, đời thơ cho
ông. Điều này có thể cắt nghĩa được vì sao sau này trong bài“Một nhành xuân”
(1980), khi gợi lại cảm xúc lúc bắt gặp lý tưởng, nhà thơ đã nói lên bằng niềm
vui say sưa dường như còn nguyên vẹn của thời “Từ ấy”:


“Từ vô vọng mênh mông đêm tối
Người đã đến chói chang nắng dội
Trong lòng tôi ôi Đảng thân yêu
Sống lại rồi! Hạnh phúc biết bao nhiêu”
3. Hai khổ thơ sau:
- Những chuyển biến nhận thức mới về lẽ sống, tình cảm trong cái tôi của
Tố Hữu.
Giác ngộ lý tưởng cộng sản là giác ngộ về nhận thức lẽ sống, tình cảm.
Trước hết là giác ngộ về chỗ đứng về phía “những tù nhân khốn nạn của bần
cùng”. Cái tôi phải hoà cùng cái ta rộng lớn với nhân dân. Hai khổ thơ vừa như
lời tâm niệm của người chiến sĩ trẻ vừa mới bước vào đời chiến đấu, vừa như
thể hiện niềm vui của nhà thơ tự nguyện, chủ động tìm đến đại gia đình mới của
mình. Hàng loạt từ đồng nghĩa, gần nghĩa, điệp ngữ về nghệ thuật được tác giả
sử dụng với một mật độ lớn nhằm nhấn mạnh, khẳng định. “Trang trải”, “gần
gũi” nhấn mạnh sự gắn bó chia sẻ; “mọi người”, “trăm nơi”, “bao hồn khổ”,
“vạn nhà”, “vạn kiếp phôi pha”, “vạn đầu”… nhấn mạnh ý rộng lớn bao la của
nhân loại cần lao. Từ “là” lặp lại nhiều lần “là con”, “là em”, “là anh” nhấn
mạnh sự gắn bó máu thịt trong đại gia đình lớn lao là quần chúng bị áp bức bóc
lột. Từ đây, ngòi bút của chàng thi sĩ cộng sản Tố Hữu hướng đến bày tỏ cảm
thông “em bé mồ côi”, “em bé bán dạo”, “em bé đi ở”, “chị vú em”… Hai khổ
thơ này tuy có phần hơi sáo nhưng ý thơ mạnh, chân thành, thái độ quyết tâm

vẫn liền mạch với khổ thơ đầu nên vẫn có sức truyền cảm mạnh mẽ.
“Từ ấy” một lần nữa cho ta thấy rõ hơn “Tố Hữu nhà thi sĩ làm cách
mạng và nhà cách mạng làm thơ” (Xuân Diệu). Bài thơ đầu tay này cũng đã báo
hiệu rất rõ những nét đặc trưng trong bản chất phong cách hồn thơ Tố Hữu, nhà
thơ của lẽ sống lớn “viết cái gì cũng để nói cho được lý tưởng cộng sản” (Chế
Lan Viên). Và Tố Hữu cũng là nhà thơ của tình thương mến “thơ Tố Hữu là thơ
cách mạng chứ không phải thơ tình yêu… nhưng thơ anh là thơ của một tình
nhân. Anh nói các vấn đề bằng trái tim của người say đắm”, Nếp rêu con cũng
chói loà ánh sáng/ khi mặt trời tư tưởng rọi hang sâu. (Chế Lan Viên).

III. KẾT LUẬN:
“Từ ấy” không chỉ là bài thơ đặc sắc về nội dung, mà còn rất độc đáo về
nghệ thuật. Với ngòi bút tinh tế, dùng hình tượng thơ táo bạo, chói sáng, gợi tả,
giàu tính lãng mạn, say người với khát vọng bay bổng, câu thơ mạnh, cảm xúc
tràn đầy, giọng thơ đằm thắm trẻ trung, nhạc điệu thơ hăm hở, dồn dập, say sưa
lôi cuốn, Tố Hữu đã để lại trong lòng người đọc những dư vị ngọt ngào, những
ấn tượng khó quên về bài thơ “Từ ấy”, tiếng hát lạc quan yêu đời, đắm say lý
tưởng của người thanh niên cộng sản. Tiếng hát ấy đến nay vẫn còn làm rung
động hàng triệu trái tim thanh niên vì chất men nồng lý tưởng của nó



3 -VIỆT BẮC
* Về bài thơ “Việt Bắc”.
Đề1 (2 điểm): Hãy trình bày hoàn cảnh ra đời và những đặc sắc nghệ
thuật bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu.
1. Hoàn cảnh ra đời.
- “Việt Bắc” là tác phẩm xuất sắc nhất của Tố Hữu nói riêng và thơ ca Việt
Nam hiện đại nói chung. Bài thơ được sáng tác vào tháng 10 – 1954. Đây là thời
điểm các cơ quan trung ương của Đảng và Chính Phủ rời chiến khu Việt Bắc về

Hà Nội, sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp đã kết thúc vẻ vang với chiến
thắng Điện Biên Phủ và hoà bình được lập lại ở miền Bắc.
- Nhân sự kiện có ý nghĩa lịch sử này, Tố Hữu viết bài thơ để ôn lại một
thời kháng chiến gian khổ mà hào hùng, thể hiện nghĩa tình sâu nặng của những
người con kháng chiến đối với nhân dân Việt Bắc, với quê hương Cách mạng.
2. Đặc sắc nghệ thuật của bài thơ.
- Bài thơ “Việt Bắc” (đoạn trích được học) có nghệ thuật đậm đà tính dân
tộc:
+ Thể thơ lục bát là thể thơ quen thuộc của dân tộc, đã được sử
dụng thành công.
+ Kết cấu đối đáp thường được thấy trong ca dao, dân ca truyền
thống, được dùng một cách sáng tạo để diễn tả nội dung, tình cảm phong phú về
quê hương, con người, Tổ quốc và Cách mạng.
+ Cặp đại từ nhân xưng “mình – ta” với sự biến hoá linh hoạt và
những sắc thái ngữ nghĩa biểu cảm phong phú vốn có của nó được khai thác rất
hiệu quả.
+ Những biện pháp tu từ: so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, tượng trưng…
quen thuộc của quần chúng được dùng nhuần nhuyễn.


Đề 4 (2 điểm): Phân tích cách dùng từ “mình – ta”.
a) Cả bài thơ dài 150 dòng gồm những câu lục bát ngọt ngào, đằm thắm
như ca dao, dân ca, phảng phất thơ Kiều giàu màu sắc cổ điển. Nó rất tiêu biểu
cho hồn thơ, phong cách thơ Tố Hữu.
b) Những lời thơ lục bát mang đậm màu sắc cổ điển ấy lại được cất lên
qua lời đối đáp của hai nhân vật trữ tình có tính chất tượng trưng: “mình – ta”
đại diện cho người cán bộ về xuôi và đồng bào miền ngược.
c) Theo nhà thơ Tố Hữu, “ “mình – ta” ở dây đều là chủ thể. Tức là
“mình” ấy, “ta” ấy là một phần của đời sống thi sĩ đã trải qua nhiều năm ở Việt
Bắc. Cái phần đời này trò chuyện quyến luyến với phần đời kia. Cho nên, cuộc

chia tay không phải diễn ra bình thường mà nó diễn ra trong máu thịt, trong tâm
hồn nhà thơ. Sự chia ly của bản thân “mình” là một sự chia ly khó khăn nhất,
thiết tha nhất, đắm đuối nhất.” Nhờ cuộc đối đáp độc đáo ấy mà bài thơ mang
dáng dấp một khúc hát giao duyên giã bạn đầy bâng khuâng, xao xuyến.
d) Đối đáp đã trở thành một thủ pháp để khơi gợi, bộc lộ tâm trạng của
“ta” và “mình” tạo ra một sự hô ứng đồng vọng của giai điệu tình cảm trong tình
yêu nam nữ. Hai đại từ “mình” và “ta” nói trên luôn luôn có sự đắp đổi, chuyển
hoá cho nhau, quấn quýt luyến láy trong từng câu, trong cả bài thơ tạo cho “Việt
Bắc” một âm hưởng vừa dịu dàng, êm ái, vừa gắn bó ngân vang. Vì vậy, “Việt
Bắc” trở thành tiếng nói của tình yêu nhưng là tình yêu đối với quê hương Cách
mạng, kháng chiến và thiên nhiên đất nước. Đó là nét độc đáo trong cấu tứ và
âm điệu bài thơ.


Đề 5: Phân tích bài thơ “Việt Bắc”- Tố Hữu.
“Việt Bắc” ra đời năm 1954, sau chiến thắng điện Điên, khi trung ương
Đảng, Chính phủ, Bác Hồ đã rời “thủ đô gió ngàn” về với “thủ đô hoa vàng
nắng Ba Đình”. Bài thơ vừa là tiếng hát ngọt ngào thấm đẫm chất trữ tình và
tấm lòng ân nghĩa thuỷ chung của miền ngược và miền xuôi, của tác giả, cán bộ
kháng chiến đối với quê hương Việt Bắc, vừa là bản anh hùng ca về thế ra trận
đầy sức mạnh, chiến công của cả một dân tộc quyết “chín năm làm một Điện
Biên; nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng”. “Việt Bắc” xứng đáng là một trong
những đỉnh cao của thơ Tố Hữu nói riêng và của thơ Cách mạng nói chung.
I. Vài nét về cấu tứ của bài thơ. (ở trên)
II. Khung cảnh buổi chia ly.
1. Người ở lại lên tiếng trước: khúc dạo đầu.
Mở đầu bài thơ là một khung cảnh chia tay của hai người với tâm trạng
bâng khuâng, bồn chồn, xao xuyến, lưu luyến, vấn vương… khi hồi tưởng về
những kỉ niệm gắn bó bền lâu, sâu nặng. “Hình như quá nhạy cảm với sự đổi
thay nên người ở lại đã lên tiếng trước để gợi nhắc những kỉ niệm khó quên,

những cội nguồn tình nghĩa”:
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”
Nhưng bao trùm lên tậm trạng của kẻ ở, người đi là nỗi nhớ, nhớ cồn cào,
da diết. Nỗi nhớ ấy cứ thấm đượm tất cả, lan toả cả cỏ cây, mây núi. Chỉ riêng
trong đoạn thơ ta phân tích đã có đến 35 từ “nhớ”. Qua hoài niệm, qua lời hỏi
của người ở lại, nỗi nhớ tha thiết ấy đã làm sống dậy biết bao kỉ niệm sâu nặng
nghĩa tình. Qua đó, bài thơ tái hiện được một cách chân thật và sinh động mấy
bức tranh hiện thực hoà nhập thống nhất, khó có thể tách rời. Đó là thiên nhiên
Việt Bắc hùng vĩ, thắm tươi đang cùng con người đánh giặc; cuộc sống kháng
chiến gian khổ vui tươi, thắm đượm nghĩa tình; khung cảnh cả nước ra trận đầy
hào khí với những chiến công dồn dập; hình ảnh chiến khu kháng chiến, điểm
tựa tinh thần của nhân dân cả nước. Ở đây, Tố Hữu đã mượn người ở lại hỏi
người ra đi như để nhắc nhở mọi người cũng là nhắc nhở chính mình, hãy nhớ
lấy đạo lý ân tình, chung thuỷ, “uống nước nhớ nguồn” vốn là đạo lý tốt đẹp
nhất của con người Việt Nam. Đoạn mở đầu gồm bốn câu tạo thành hai cặp lục
bát và cũng là hai câu hát rất cân đối, hài hoà. Một câu hỏi hướng về thời gian:
“Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”
của nghĩa tình Cách mạng kháng chiến; một câu hỏi hướng về không gian của
một vùng chiến khu thiêng liêng:
“Quê hương Cách mạng dựng nên cộng hoà”
Hai cặp lục bát nói trên có sự láy lại “mình về” và điệp từ “nhớ” ngân lên
như một nỗi niềm lưu luyến đến day dứt khôn nguôi. Điều đó đã tạo được không
khí cho khúc dạo đầu của cuộc chia ly có một không hai này.
2. Cảnh tiễn đưa đầy lưu luyến của kẻ ở người đi.


Sau khúc dạo đầu là cảnh tiễn đưa bâng khuâng, tha thiết đến bồn chồn

của bước đi cả hai ngươi, như thể người yêu đưa tiễn người yêu đầy lưu luyến,
vấn vương:
“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi”
Đại từ “ai”, một đại từ rất quen thuộc trong ca dao, dân ca; một đại từ vừa
phiếm chỉ, vừa cụ thể làm cho lời thơ trở nên trữ tình, tha thiết như khúc hát
giao duyên quan họ. Chỉ hai câu thơ lục bát đã diễn tả được ba trạng thái tình
cảm sâu sắc thường chỉ có trong trái tim của những cặp tình nhân say đắm. “Tha
thiết” như tiếng nói cất lên từ đáy lòng đầy yêu thương; “bâng khuâng” như một
sự tiếc nuỗi, hụt hẫng; rồi “bồn chồn” không yên như trạng thái nôn nao, phấp
phỏng của tấc lòng. Những từ láy và cũng là tính từ, cùng với phép đảo ngữ, cặp
tiểu đối đã làm tăng lên biết bao nỗi nhớ thương vấn vương lưu luyến. Nó không
chỉ thấm sâu vào trong lòng mà còn hằn lên từng bước đi:
“Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay?”
Hình ảnh hoán dụ “áo chàm” trong câu thơ trên vừa gợi hình, vừa gợi
cảm, vừa cụ thể, vừa trượng trưng. Màu áo chàm của người Việt Bắc không
phai, đậm đà như tấm lòng thuỷ chung, sắt son của họ vậy. Trong tâm thức của
người Việt Nam, màu áo chàm còn tượng trưng cho sự giản dị, chân thành, đơn
sơ “cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”.
Cái tình “tha thiết”, “bâng khuâng”, “bồn chồn” thì có lời nào tả cho hết
được. Tình cảm càng thắm đượm, nồng nàn thì ngôn từ càng bất lực. Cho nên,
nói gì đó cho đủ thoả khi trái tim đầy ắp cảm xúc khó nói nên lời chứ không
phải là không biết nói gì. Cái cử chỉ “cầm tay” cũng rất xúc động. Bàn tay ấm
nóng trao cảm thương với trái tim run rẩy vì xúc động đã nói được nhiều hơn
mọi lời bằng âm thanh ríu rít. Nhịp thơ 3/3/3/3/2 diễn tả rất tài tình một cái gì đó
như một thoáng ngập ngừng, bối rối trong tâm trạng và cử chỉ.
Như thế, chỉ bằng mấy câu thơ giản dị, Tố Hữu đã dựng lên được cảnh
chia tay rất giàu màu sắc trữ tình, đầy đủ thời gian, không gian và của kẻ ở
người đi.

III. Lời người ở lại:Những kỉ niệm kháng chiến gian khổ nhưng sâu
nặng tình nghĩa
Sai khi dàn dựng xong khung cảnh chia tay, Tố Hữu đã để cho người ở lại
lên tiếng. Những cảm xúc về sự chia ly như một nỗi day dứt toát lên từ trái tim
thành những câu hỏi đầy băn khoăn:
“Mình đi có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mùa
Mình về có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son
Mình về có nhớ núi non


Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?”
Chỉ mười hai câu thơ nhưng đều xoáy sâu vào kỉ niệm của những ngày
Cách mạng còn nòn yếu (còn trứng nước), tuy tươi vui, lạc quan nhưng cũng
lắm gian nan, cơ cực. Hỏi là “mình về có nhớ” nhưng thực ra đã biết rõ tâm
trạng người ra đi cũng trĩu nặng nỗi nhớ thương về những năm tháng không thể
nào quên. Quên sao được những chuỗi ngày khó khăn, gian khổ chồng chất ấy:
“Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù”
Những ngày “miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”, những ngày chia
ngọt sẻ bùi, đắng cay, gian khổ mà ấm áp tình người:
“Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”
Đoạn thơ gồm những câu hỏi liên tiếp cất lên từ trong lòng người đọc, gợi
lên sự khắc nghiệt của thiên nhiên Việt Bắc. Có những câu hỏi gợi về những

sinh hoạt gian khổ nhưng sâu nặng nghĩa tình “miếng cơm chấm muối”…
“Miếng cơm chấm muối” là hình ảnh chân thực được rút ra từ kháng chiến đầy
gian nan. Hình ảnh “mối thù nặng vai” đã cụ thể hoá, vật chất hoá mối thù của
nhân dân ta với quân xâm lược. Hai hình ảnh ấy đối xứng và kết lại với nhau tạo
nên một ý nghĩa mới mẻ, sâu xa: mối tình đoàn kết chiến đấu cùng chung gian
khổ, cùng mang một mối thù thực dân là cội nguồn sức mạnh làm nên chiến
thắng vang dội, chiến công chói lọi. Có câu hỏi lại gợi về hình ảnh thiên nhiên
gắn bó với đời sống sinh hoạt kháng chiến, giờ cách xa chúng cũng như mang
hồn người và trở nên ngẩn ngơ, buồn vắng:
“Mình về rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già”
Câu thơ “hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son” là câu thơ tuyệt hay. Cái hay
trước hết là sự chân thực, giản dị. Những mái nhà lợp bằng tranh, bằng lá cọ
nghèo nàn, những ngon lau xám hắt hiu trước gió, những bữa ăn chỉ toàn bằng
sắn, khoai… nhưng tấm lòng của người dân đối với Cách mạng, với kháng chiến
thật “đậm đà lòng son”, thuỷ chung ân nghĩa. “Hắt hiu lau xám” đối với “đậm
đà lòng son” cùng với thủ pháp đảo ngữ càng làm nổi rõ tấm lòng cao quý, đùm
bọc, chở che của nhân dân với cán bộ. Hoàn cảnh càng gian nan, thiếu thốn,
lòng dân với Cách mạng, kháng chiến càng sắt son, gắn bó. Thật cảm động biết
bao:
“Mình về có nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa”
Trong câu “mình đi mình có nhớ mình” xuất hiện ba lần, có tính đa nghĩa,
thật là đặc biệt. “Mình” vừa là người ra đi, vừa là phân thân chủ thể trữ tình. Các
địa danh Tân Trào, Hông Thái có giá trị lịch sử to lớn, chúng được đồng nghĩa
với chính mình. Cho nên, người cán bộ về xuôi chỉ xa cách về không gian địa lý
nhưng không có sự xa cách trong tâm hồn. Những “Tân Trào, Hồng Thái, mái
đình, cây đa” từ nay đã trở thành một phần máu thịt, trái tim tác giả.



Sáu cặp lục bát nói trên được tác giả sử dụng cách ngắt nhịp đều đặn, vận
dụng nghệ thuật tiểu đối tài tình làm cho đoạn thơ có nhạc tính réo rắt ngân
vang, dễ thấm vào tâm hồn người đọc. Lời thơ Tố Hữu vì thế vừa phảng phất
màu sắc cổ điển như những câu Kiều, vừa bình dị gần gũi thân quen như những
câu ca dao, dân ca rất hấp dẫn.
IV. Lời người về xuôi:nhớ về nhân dân Việt Bắc đã chia ngọt sẻ
bùi,đùm bọc trở che cho cách mạng,kháng chiến và cuộc kháng chiến tươi
vui lạc quan.
Đoạn thơ dành cho người về xuôi gồm 22 câu:
“Ta với mình, mình với ta
… Chày đêm nện cối đều đều suối xa”
Tố Hữu đã để lại cho người về xuôi trả lời nhiều hơn. Vì suốt 15 năm thiết
tha mặn nồng ấy, trong trái tim của người sắp phải xa cách chất chứa biết bao
nỗi nhớ về những kỉ niệm kháng chiến, về “Quê hương Cách mạng dựng nên
cộng hoà”. Cho nên
“Mình đi mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu”
Trong tiềm thức của người dân Việt Nam, nước nguồn chảy ra được vì
công lao, tình nghĩa vô bờ bến của người mẹ tuôn chảy bất tận không bao giờ
cạn. Bao nhiêu nước thì bấy nhiêu nghĩa tình sâu nặng, như nghĩa mẹ tình cha.
““Bao nhiêu” được so sánh với “bấy nhiêu”. Đó là cách so sánh giữa một sự vô
tận với một sự vô tận.” Đọc câu thơ, ta có cảm giác, dường như đó không còn là
những dòng chữ im lặng, lạnh lùng nữa mà là tiếng lòng thốt lên từ một trái tim
tràn đầy xúc động của kẻ ở người về trong phút giây li biệt. Qua đó, những
tháng ngày gian khổ mà tươi vui cứ lần lượt hiện lên theo nỗi nhớ da diết, cháy
bỏng:
“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương”

Nỗi nhớ người yêu là nỗi nhớ nồng nàn, bồn chồn, khắc khoải nhất trong
mỗi con người. Nỗi nhớ ấy vừa được so sánh với “trăng lên đầu núi nắng chiều
lưng nương”, vừa gắn với không gian, thời gian đầy ắp kỉ niệm. Đúng là:
“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hoá tâm hồn”
Đối với những mảnh đất giàu tình nghĩa khi ta đã sống ở đó rồi, lúc ra đi
ta cảm thấy trái tim cứ dào lên biết bao nỗi vấn vương, thương nhớ, nhớ cả
những vật vô tri tầm thường nhất mà vô tình bắt gặp:
“Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy”
Chế Lan Viên đã có một nhận xét rất hay về các địa danh trong thơ Tố
Hữu: “Lòng yêu đắm say đất nước, yêu như tát mãi không cạn, gọi mãi không
cùng,yêu như muốn nêu mãi tên lên mà gọi,chỉ một cái tên thôi cũng trấn động
lên rồi!”(Thơ Tố Hữu) càng nhớ cảnh,càng nhớ người vì trong cảnh lại nghĩ
đến người”. Nhớ nhất là nếp sống kháng chiến vô cùng gian khổ mà ấm tình, ấm
nghĩa:


“Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”
Hình ảnh thơ thật mộc mạc, chân thực mà giản dị như chính bản thân cuộc
sống vậy. Ở đây không phải sẻ chia những gì lớn lao như tính mệnh hay máu
xương, mà sẻ chia những sự vật bình thường nhỏ nhoi hàng ngày: “củ sắn lùi”,
“bát cơm”, chiếc chăn vỏ cây xù xì, thô nhám. Nhưng trong bối cảnh lúc bấy
giờ, chúng là hiện thân của sự sống, của tình nghĩa. Quả là của chẳng đáng bao
nhiêu, nhưng tình thì rất nặng. Hiểu như vậy, chúng ta càng thấm thía cái đẹp
nhất của đời này là tình nghĩa của con người, sự san sẻ cùng chung mọi gian khổ
và niềm vui, cùng gánh vác nhiệm vụ; nghĩa tình càng đẹp hơn trong cuộc sống

gian nan, thiếu thốn, càng thấm thía trong khó khăn, thử thách.
Từ những hình ảnh khắc hoạ chân thực cuốc sống đời thường nơi bản
nhỏ, mạch thơ chuyển sang mô tả cuộc sống kháng chiến và Cách mạng gian
khổ mà vui tươi, lạc quan:
“Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi rừng
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa”
Trong tiếng “ca vang núi rừng ấy”, có tiếng mõ trâu tìm về bản tận rừng
sâu và có cả tiếng “đều đều” của chày giã gạo từ cối xa vọng lại tạo thành một
bản nhạc riêng khó lẫn của núi rừng Việt Bắc. Tất cả làm nên một bài ca trong
trẻo, tươi vui mà không một cuộc sống gian nan khổ ải nào có thể dập tắt được.


Đề 6: Thiên nhiên Việt Bắc hùng vĩ, thắm tươi đã cùng con người đánh giặc
và ghi lại biết bao chiến công anh hùng.
A. 10 câu đầu:Bộ tranh tứ bình
Mỗi chúng ta ai chẳng có một miền đất, một vùng quê để thương để nhớ
suốt cả cuộc đời. Đó có thể là nơi “chôn rau cắt rốn” của ta, nơi những người
thân ta đang sống và cũng có thể là mảnh đất thấm đẫm những kỉ niệm trong
đời. Với Tố Hữu thì đấy là mảnh đất Việt Bắc chan chứa nghĩa tình, mảnh đất
ghi dấu bao kỉ niệm về những ngày đầm ấm, keo sơn giữa những con người nơi
đây với những chiến sĩ Cách mạng. “Việt Bắc” là niềm thương nỗi nhớ, là hoài
niệm thường trực trong trái tim nhà thơ. Bởi vậy mà khi xa rồi, âm vang về một
miền quê đã vút lên thành những vần thơ ngạt ngào, sâu lắng. Đoạn thơ trên tính
từ bài thơ “Việt Bắc” một trong những đỉnh cao của thơ Tố Hữu, sáng tác tháng
10 – 1945.Đoạn thơ nói về nỗi nhớ cảnh và người Việt Bắc của người cán bộ về
xuôi.
1) Hai câu đầu: Giới thiệu cảm xúc chung của đoạn thơ.
Mở đầu đoạn thơ là hai câu giới thiệu nội dung bao quát đoạn:

“Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người”
Câu hỏi tu từ “mình có nhớ ta” vừa là lời đối thoại, vừa là cái cầu nối
xuống câu dưới và đấy cũng là cái cớ để bày tỏ tấm lòng, nỗi niềm của mình.
Với Tố Hữu, người cán bộ ra đi không chỉ nhớ đến những ngày tháng gian khổ
“bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng” mà còn nhớ đến vẻ đẹp đáng yêu của “hoa
cùng người”. Từ xưa đến nay, trong văn chương nghệ thuật, hoa và trăng là biểu
tượng của cái đẹp từ thiên nhiên tạo vật. Ở đây, “hoa” tượng trưng cho cái đẹp
thiên nhiên Việt Bắc. “Hoa” ở bên “người” để “người” mang gương mặt sắc
màu của “hoa”. “Người” ở bên “hoa” để cho “hoa” mang hồn “người”. “Hoa”
và “người” quấn quýt với nhau trong vẻ đẹp hai hoà, đằm thắm để tạo nên nét
riêng biệt, độc đáo của vùng đất này. Chính điều ấy đã tạo nên cấu trúc đặc sắc
của doạn thơ. Trong bốn cặp lục bát còn lại, câu 6 dành cho nhớ “hoa”, nhớ
cảnh; câu 8 dành cho nhớ “người”. Cảnh và người trong mỗi câu có những sắc
thái, đặc điểm riêng thật hấp dẫn.
Đọc những câu thơ trên, chúng ta có cảm giác tác giả viết không hề trau
chuốt mà cứ chảy từ tấm lòng nhớ thương da diết của người cán bộ miền xuôi.
Qua đấy, cảnh và người cùng những hoạt động của nó ở núi rừng chiến khu Việt
Bắc cứ dần dần hiện lên bốn mùa trong năm. Mỗi mùa có một màu sắc, âm
thanh có đủ chủ đạo tạo thành mộ bộ tứ bình đặc sắc: khi lắng dịu, khi rực rỡ
chói chang, khi rộn ràng náo nức.
2) Bộ tranh tứ bình về cảnh và người Việt Bắc.
a) Đông về với màu xanh trầm mặc bát ngát, bao la của cánh rừng có điểm
những bông chuối đỏ tươi như những bó đuốc thắp sáng rực, tạo nên những bức
tranh với đường nét màu sắc vừa đối lập, vừa hài hoà, vừa cổ điển, vừa hiện đại.
Cái màu đỏ tươi của hoa chuối nổi lên giữa màu xanh bát ngát của núi rừng làm


cho thiên nhiên Việt Bắc trở nên tươi sáng, ấm áp và như tiềm ẩn một sức sống,
xua đi cái hoang sơ, lạnh giá, hiu hắt vốn có của núi rừng.

Cùng hiện lên với cái lung linh của hoa chuối ấy, là con người của vùng
chiến khu lên núi phát nương làm rẫy, sản xuất nhiều lúa khoai cung cấp cho
kháng chiến… Trước thiên nhiên bao la, con người càng trở nên kỳ vĩ, hùng
tráng hơn. Ở đây, nhà thơ không khắc hoạ gương mặt mà chớp lấy một nét thần
tình rực sáng nhất. Đó là ánh mặt trời chớp loé trên lưỡi dao rừng ở ngang lưng.
Con người như một tụ điểm của ánh sáng. Con người ấy cũng đã xuất hiện ở
một vị trí, tư thế đẹp nhất. Đấy là cái tư thế làm chủ đầy kiêu hãnh và vững chãi:
giữa núi và nắng, giữa trời cao bao la với rừng xanh mênh mang. Con người ấy
đã trở thành linh hồn của bức tranh mùa đông Việt Bắc.
b) Đông qua mùa xuân lại về.
Mùa xuân về mang điều tốt lành cho con người, báo hiệu những niềm vui,
sức sống âm thầm đang trỗi dậy. Bao trùm lên cảnh vật mùa xuân là màu trắng
dịu dàng, trong trẻo, tinh khiết hoa mơ nở trắng rừng. “Trắng rừng” được viết
theo phép đảo ngữ. Tính từ “trắng rừng” được dùng như động từ, có tác dụng
nhấn mạnh vào màu sắc. Màu trắng dường như lấn át tất cả với màu xanh của lá
và làm bừng sáng cả khu rừng bởi sắc trắng mơ màng, bâng khuâng, dịu mát hoa
mơ. Điều đó chứng tỏ, đây là giờ của hoa mơ nở rộ nhất và ẩn chứa đằng sau đó
những niềm vui thiêng liêng. Đúng như Tố Hữu đã viết về giây phút Bác Hồ đặt
chân lên biến giới:
“Ôi! Sáng xuân nay xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về …Im lặng con chim hót
Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ”
Nổi bật trên nền của, hoa mơ nở trắng ấy, là hình ảnh con người với công
việc của mùa xuân: đan nên những chiếc nón tình nghĩa gửi tặng bộ đội dân
công. Hình ảnh thơ đã nói lên được bàn tay khéo léo, tài hoa, nhanh nhẹn, chăm
chút và phẩm chất tần tảo của con người Việt Bắc.
c) Mùa hè.
Bức tranh trong nỗi nhớ của Tố Hữu không chỉ có màu đỏ tươi của hoa
chuối, màu xanh ngắt của rừng, màu trắng muốt của hoa mơ, mà còn có cả màu

vàng rực của cây phách “ve kêu rừng phách đổ vàng”. “Đổ vàng” có nghĩa là
chuyển sang màu vàng, nhưng nhiều và đậm hơn, gợi cảm giác đột ngột. Màu
của cây phách “đổ vàng” cả suối ngàn, dường như làm cho ánh nắng của mùa hè
và cả tiếng ve kêu râm ran kia nữa cũng trở nên vàng óng thêm ra. Đây là một
bức tranh sơn màu được vẽ lên bằng hoài niệm nên lung linh ánh sáng, rực rỡ
sắc màu và rộn rã âm thanh. Tố Hữu không chỉ có biệt tài trong việc miêu tả vẻ
đẹp riêng của từng mùa mà còn có tài năng trong việc miêu tả sự vận động đổi
thay của thời gian và cảnh vật. Chỉ trong một câu thơ trên mà ta thấy cả thời
gian luân chuyển sống động: tiếng ve kêu báo hiệu mùa hè đến và cây phách ngả
sang màu vàng rực rỡ. Đây chính là biểu hiện đặc sắc của tính dân tộc.
Hiện lên trong cái thiên nhiên óng vàng và rộn rã ấy, là hình ảnh cô gái áo
chàm cần mẫn đi hái búp măng rừng, cung cấp cho bộ đội kháng chiến. “Hái
măng một mình” mà không gợi lên ấn tượng về sự cô đơn, hiu hắt, mà trái lại rất


trữ tình, thơ mộng, gần gũi, thân thương, tha thiết. Hình ảnh thơ cũng gợi lên
được hình ảnh chịu thương chịu khó của cô gái. Đằng sau đó, ẩn chứa biết bao
niềm thân thương, trân trọng, cảm phục của tác giả.
d) Mùa thu.
Thu sang, khung cảnh núi rừng chiến khu như được tắm trong ánh trăng
xanh huyền ảo, dịu mát (“Rừng thu…thuỷ chung”). “Trăng rọi hoà bình” là ánh
trăng chiếu sáng không khí thanh bình nơi chiến khu kháng chiến. Những ai đã
từng trải qua những tháng ngày mưa bom bão đạn, thì mới thấy sự xúc động của
lòng người trong những đêm trăng hoà bình đó. Vì vậy, tả cảnh trăng mà không
cảm thấy vắng lặng, lạnh lẽo; trái lại đã gợi lên không khí rạo rực, đắm say. Bởi
giữa ánh trăng rừng ấy đã vang lên tiếng hát mang đậm ân tình thuỷ chung của
ai đó càng làm cho ánh trăng như sáng hơn và cũng lung linh thắm đượm tình
người Việt Bắc hơn.
(Tiểu kết đoạn: Tóm lại đây là đoạn thơ vừa sâu sắc về nội dung, vừa độc
đáo về nghệ thuật. Nó xứng đáng là đoạn thơ hay nhất trong “Việt Bắc”. Đoạn

thơ cũng cho ta thấy rõ phong cách thơ Tố Hữu: trữ tình, sâu lắng, tha thiết, ân
tình mang đậm tính dân tộc. Những câu thơ lục bát đậm đà âm hưởng ca dao
nhịp nhàng, uyển chuyển cứ tuôn trào và dạt dào cảm xúc qua cách xưng hô
“mình” và “ta”, một cách xưng hô truyền thống thắm thiết nghĩa tình. Nhạc điệu
dịu dàng, trầm bổng khiến cho cả doạn thơ mang âm hưởng bâng khuâng, êm ái
như một khúc hát ru kỉ niệm. Đặc biệt từ “nhớ” được láy lại nhiều lần, mỗi lần
một khác và sắc độ tăng dần lên làm cụ thể hơn tấm lòng của người ra đi đối với
cảnh và người Việt Bắc).
c) Kết luận.
Nhìn chung, đây là bộ tranh tứ bình thật đẹp đẽ, nên thơ về cảnh và người
Việt Bắc, những con người bình dị mà bằng những công việc nhỏ bé của mình
đã làm nên cuộc kháng chiến vĩ đại. Bức tranh ấy đã in hình đường nét, màu sắc
vào nỗi nhớ của người ra đi. Mang nỗi nhớ này vào cuộc sống mời, dù là cuộc
sống nơi phố phường nhộn nhịp, đông vui vẫn không lấn át được những sắc màu
riêng của một vùng kỉ niệm.
*
*
*
B.Thiên nhiên Việt Bắc đã cùng con người đánh giặc
Thiên nhiên núi rừng Việt Bắc trong cuộc kháng chiến chống Pháp còn sát
cánh với con người tạo nên một trận địa rộng lớn bao vây quân thù. Việt Bắc
ngày ấy, núi rừng hiểm trở làm thành một căn cứ địa vững chắc che giấu cán bộ
bộ đội, khiến cho quân thù không phát hiện được; mặt khác, rừng cây, núi đá
cũng đã “tạo thành một thiên la địa võng mà hễ quân thù đặt chân vào là như lạc
vào một trận đồ bát quái không tìm được đường ra.” Quả đúng là “rừng che bộ
đội, rừng vây quân thù”. Hai câu tiếp theo:
“Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả, chiến khu một lòng”
cũng nói lên sức mạnh rừng núi quê hương ta. Sự đối lập giữa “mênh mông bốn
mặt” với “một lòng” đã nhấn mạnh sự đồng lòng thống nhất ý chí trong kháng

chiến. Vì thế, “luỹ sắt dày” và “bốn mặt sương mù” đã mang một ý tưởng mới.


Chúng trở thành biểu tượng của trận địa lòng dân, của đất trời, sông núi Việt
Nam và là đất chết của kẻ thù. Đúng như Nguyễn Đình Thi đã viết :
“Những làng xóm đã mọc lên luỹ thép
Những cánh đồng thành bể dầu sôi
Quân giặc kinh hoàng đi trên đất chết
Mỗi bước đi lạnh toát mồ hôi”


Đề 7: Bức tranh cả nước ra trận đầy khí thế, niềm vui và những chiến
công lừng lẫy.
Theo dòng cảm xúc hồi tưởng, bài thơ đã dẫn người đọc vào khung cảnh
Việt Bắc kháng chiến: những hoạt động tấp nập, sôi động của cuộc kháng chiến
anh hùng để chuẩn bị cho cuộc tổng phản công bằng một chiến“Điện Biên lừng
lẫy địa cầu”:
“Ai về ai có nhớ không?”
Chỉ có một chữ “nhớ” trong lời hỏi của người ở lại mà khơi dậy cả một
trời thương nhớ bằng năm chữ “nhớ” trong câu trả lời của người ra đi. “Nhớ” là
yêu, “nhớ” là tự hào. Tự hào với những chiến công dồn dập gắn liền với từng
ngọn núi, dòng sông thật kiêu hãnh (sông Lô, Phố Ràng…) để từ đó cả nước
bước vào một cuộc diễu binh hùng vĩ. Đoạn thơ đã trở thành bản anh hùng ca về
“mười lăm năm ấy thiết tha, mặn nồng” của cuộc Cách mạng và chiến tranh ái
quốc vĩ đại. Câu một và hai đã nêu lên được cái nhìn khái quát chung. Cuộc
kháng chiến của ta là cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, một cuộc chiến tranh
sáng ngời chính nghĩa “lấy chí nhân để thay cường bạo”. Vì vậy, ta càng đánh
càng thắng, địch càng đánh càng thua. Từ một đội quân trên dưới ba mươi chiến
sĩ xuất thân nơi cây đa Tân Trào lịch sử, giờ đây ta đã có những binh đoàn hùng
mạnh, liên tiếp gặt hái được những chiến công chói lọi: Thu Đông, Sông Lô,

Biên Giới… Hôm nay, chúng ta đang chuẩn bị cho cuộc tổng tiến công, chúng ta
hoàn toàn làm chủ chiến trường Việt Bắc cả về tinh thần và về lực lượng. Vì vậy,
đoàn quân ta đã xuất phát từ mọi ngả đường Việt Bắc, như những gọng kìm
nhằm xiết chặt quân thù đang co cụm ở cứ điểm cuối cùng “Những đường Việt
Bắc của ta”. Cảm hứng về tư thế làm chủ và tư thế tấn công bao vây quân giặc
được thể hiện qua cụm từ “những đường của ta”. Ngày kháng chiến chống Pháp,
máy bay giặc chủ yêu hoạt động ban ngày. Do đó ta phải hành quân đêm .Trên
các nẻo đường Việt Bắc, đêm nối đêm, các binh đoàn cứ nối nhau “rầm rập”
tiến quân ra trận. Từ láy “rầm rập” là từ láy tượng thanh rất gợi cảm. Nó diễn tả
được bước chân đi đầy khí thế hăng say và sức mạnh áp đảo của một tập thể
người đông đúc có đội ngũ chỉnh tề. Với từ “rầm rập” đặc sắc ấy, cuộc ra trận
của quân dân ta bỗng trở thành cuộc diễu binh hùng vĩ. Vì thế mà bước chân của
đoàn quân ấy đêm đêm cứ “rầm rập” tiến bước làm rung chuyển cả mặt đất
“như là đất rung”.
Câu 3 + 4:
Từ cái nhìn khái quát chung ở câu một, câu hai, đến đây đã đi vào cái nhìn
cụ thể. Nếu câu trên, tác giả tả khí thế ra trận của quân ta qua ấn tượng thính
giác, thì ở câu sau, tác giả tả bằng thị giác…Từ láy bốn “điệp điệp, trùng trùng”
thật giàu ý nghĩa diễn tả. Nó gợi lên trong ta. Những đoàn quân ra trận nối dài
vô tận và rất hùng vĩ như những dãy núi kế tiếp nhau vậy. Ở đây, ta lại bắt gặp
một hình ảnh thơ được viết với bút pháp cường điệu, mang đậm màu sắc anh
hùng ca. Vì vậy, sức mạnh, khí thế của đoàn quân ra trận đã được nâng lên
ngang tầm với sức mạnh của thiên nhiên sông núi:
“Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”
Câu thơ vừa có ý nghĩa tả thực, vừa có ý nghĩa khái quát trượng trưng sâu
xa. Nó diễn tả đoàn quân đi trong đêm, đầu súng lấp lánh ánh sao trời, nhưng


đồng thời lấp lánh ánh sao lý tưởng. Hình ảnh tươi sáng ấy kết hợp với hình ảnh
chiếc mũ nan giản dị, trang bị còn thiếu thốn của anh bộ đội tạo cho anh một vẻ

đẹp bình dị mà cao cả, bình thường mà vĩ đại. Như vậy, “Một đoạn thơ mà dùng
hàng loạt điệp từ, từ láy gợi lên những hình ảnh, âm thanh đầy ấn tượng khiến
cho người đọc cảm thấy sự hối hả, chuyển động không ngừng của những đoàn
quân ra mặt trận. Nhịp điệu thơ 2/2/2: “Những đường/ Việt Bắc/ của ta”… như
nhịp hành quân mạnh mẽ, oai hùng làm sao! Trong toàn bộ đoạn thơ, mỗi câu,
mỗi từ ngữ đều làm nổi bật tính chất anh hùng của quân đội ta”(Lời tác giả).
Câu 5+6:
Cuộc chiến tranh của ta là cuộc chiến tranh nhân dân nên “Từ nơi em gửi
tới nơi anh. Những đoàn quân trùng trùng ra trận. Như tình yêu nối lời vô
tận”. Tiếp theo những binh đoàn bộ đội là dân công tiếp tế lương thực, đạn
dược. Cũng như những người chiến sĩ rầm rập lên đường, những nam nữ dân
công cũng vào trận đầy khí thế và sức mạnh anh hùng, kiêu hãnh, đạp bằng gian
nguy để tiến lên phía trước. “Cái khí phách ấy được dồn nén và bật ra trong một
câu thơ tuyệt hay?:
“Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”
(Tố Hữu)
Cái khí phách này chỉ tìm thấy trong các anh hùng thần thoại như Thánh
Gióng, Sơn Tinh - Thuỷ Tinh… Nhưng trong cuộc kháng chiến chống Pháp thần
kì, những anh hùng như thế đã trở thành phổ biến. Đúng là : “Một thời đại anh
hùng đòi hỏi một nền thơ ca anh hùng”. Câu thơ của Tố Hữu có từ “nát đá”
được viết theo phép đảo ngữ, dùng từ bạo, rất khoẻ, vừa gợi lên được những
gánh hàng nặng, vừa nói lên được bước chân đầy sức mạnh tiến công. Nhớ về
ngày xưa, cha ông ta đã mơ ước đến cháy bỏng:
“Trông trời, trông đất, trông mây
Trông mưa, trông nắng, trông ngày, trông đêm
Trông cho chân cứng đã mềm”
Thì giờ đây, niềm mơ ước ấy đã trở thành hiện thực kì diệu ở chiến trường
Điện Biên. Hình ảnh thơ “đỏ đuốc từng đàn” và “muôn tàn lửa bay” là những
hình ảnh thơ rất đẹp. Đoàn dân công đi dưới ánh đuốc có “muôn tàn lửa bay”.
Đó là lửa của bó đuốc đang bay, hay có cả ánh lửa từ trái tim của anh chị dân

công hoả tuyến, những Đan Cô của thời đại kháng chiến? Ở hai câu thơ này, tác
giả sử dụng nhiều hình ảnh giàu màu sắc tạo hình, vừa chân thực vừa bay bổng.
Đoàn dân công đi vào chiến dịch mà như thể đi trong hội hoa đăng. Thật đẹp
biết bao, mà cũng tự hào biết bao về khí thế và niềm tin ra trận của quân dân ta.
Đúng như Mác đã từng khẳng định: “Cách mạng là ngày hội quần chúng”.
Câu 7+8:
Đoạn thơ trên được kết lại bằng hai câu tràn đầy cảm hứng tự hào, tin
tưởng về tương lai tươi sáng, về cuộc kháng chiến gian khổ.
Hai câu thơ mô tả đoàn xe chở đạn dược, vũ khí và cao xạ pháo ra chiến
trường, xe nối đuôi nhau, đèn pha bật sáng trưng như ánh sáng ban ngày. Chỉ
bằng hình ảnh ấy, Tố Hữu đã diễn tả đông đảo lực lượng cơ giới của quân dân ta.
Nhưng quan trọng hơn, với thủ pháp đối lập giữa “nghìn đêm thăm thẳm” và


“đèn pha bật sáng”, câu thơ đã nêu bật được sự trưởng thành vượt bậc của quân
dân ta và niềm tin tất thắng của những người ra trận hôm nay.
Kết luận:
“Việt Bắc” ở phần đầu giai điệu chủ yếu là trữ tình, mềm mại… Đến đoạn
này, bài thơ đã chuyển sang mạch cảm hứng mạnh mẽ, dứt khoát mang màu sắc
anh hùng ca, đã diễn tả rất thành công khí phách anh hùng và hào khí lẫm liệt
của cả dân tộc ra trận. Đoạn thơ xứng đáng là một bức tranh giàu chất thơ, giàu
chất hoạ… về sức mạnh vô song của cuộc chiến tranh nhân dân vĩ đại, tràn ngập
chiến công.
VII. Khung cảnh làm việc của bộ chỉ huy Cách mạng và hình ảnh
chiến khi Việt Bắc.
Với khí thế ra trận hùng tráng như vậy thì chiến công nối tiếp chiến công
là tất yếu. Đoạn tiếp theo của bài thơ xứng đáng là một bài ca:
“Thắng trận tin vui khắp nước nhà”
Người ta thường nói: “nỗi đau dễ đồng cảm, niềm vui thì dễ lây lan.” Một
tin chiến thắng trong thời khắc lịch sử đó đã hết sức vui. Tin vui chiến thắng

trăm miền dồn dập Việt Bắc thì niềm vui phải dâng trào lên tràn ngập. Đúng như
Tố Hữu viết:
“Biển vui dâng sóng trắng đầu ghềnh”
Vì thế, từ “vui” xuất hiện trong tất cả các dòng thơ và gắn liền với các địa
danh: Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên, Đồng Tháp, An Khê, đèo De, núi Hồng…
đã làm nức lòng hàng triệu đồng bào Việt Nam hoà trong biển vui dào dạt lan xa.
Lời thơ Tố Hữu cất lên sang sảng tự hào như nói với ta những địa danh trên nối
tiếp với Bạch Đằng, Chi Lăng… đã làm nên những dòng tên bất diệt:
“Ôi Việt Nam! Xứ sở lạ lùng
… Mỗi ngọn núi dòng sông
Cũng hiển hách chiến công
Cũng lừng danh lịch sử”
Kết bài:
Tóm lại, bài thơ “Viẹt Bắc” nói chung và đoạn thơ ta phân tích nói riêng
xứng đáng là đỉnh cao của thơ Tố Hữu “tình thơ tha thiết, điệu thơ êm ái như
nhịp ru là một khúc trữ tình nồng nàn, sôi nổi bậc nhất trong thơ ca Cách mạng
hiện đại” (Trần Đình Sử). “Khúc trữ tình” ấy, đi thẳng vào trái tim hàng triệu
độc giả còn bởi đạo lý Việt Nam: đạo lý ân nghĩa thuỷ chung với Cách mang,
kháng chiến.


XUÂN DIỆU
Đề 1 : Phân tích bài thơ “Vội vàng”
I. MỞ BÀI:
“Vội vàng” là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của Xuân Diệu trước
cách mạng tháng tám. Tác phẩm được rút ra từ tập “Thơ thơ” (1938). Đây là
tiếng nói của một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt. Nhưng đằng sau
những tình cảm ấy có một quan niệm nhân sinh mới chưa từng thấy trong thơ ca
truyền thống.
II. THÂN BÀI:

1. Thiên đường ngay trên mặt đất.
Trong lời giới thiệu tập thơ đầu tay của Xuân Diệu, Thế Lữ đã khẳng
định: “Xuân Diệu là một người của đời, một người ở giữa loài người. Lầu thơ
của ông xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian, ông không trốn tránh mà
lại còn quyến luyến cõi đời và lời nguyện ước của ông có bao nhiêu sức mạnh”:
“Ta ôm bó, cánh tay ta làm rắn
Làm dây da quấn quýt cả mình xuân
Không muốn đi, mãi mãi ở vườn trần
Chân hoá rễ để hút mùa dưới đất”
(Thanh niên – Xuân Diệu)
Còn Hoài Thanh đã nhận xét: Thế Lữ xui mọi người lên tiên nhưng Xuân
Diệu lại đốt cảnh bồng lai xua mọi người về với hạ giới. Đối với Xuân Diệu, mặt
đất này là vườn trần tươi tốt, là một thiên đường trong tầm tay với người bình
thường quanh chúng ta. Này đây hoa thơm, trái ngọt của mùa xuân tươi thắm
đang chào mời chúng ta thật hấp dẫn:
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si”
Với tâm hồn khát sống, khát yêu, tận hiến, tận hưởng và khát khao giao
cảm mãnh liệt, Xuân Diệu đã khám phá ra vẻ xuân tươi phơi phới đầy tình tứ và
ngon lành ở những cảnh vật thiên nhiên quen thuộc quanh ta: cảnh ong đưa và
bướm lượn dập dìu bỗng chốc trở thành “tuần tháng mật” của tình vợ chồng.
“Hoa của đồng nội” cũng trở nên thắm sắc, ngát hương hơn. Cành cây bình
thường cũng hoá thành “cành tơ” căng tràn nhựa sống với những chiếc lá phơ
phất bay đầy tình tứ. Và tiếng hót đắm say của chim yến, chim oanh bỗng chốc
cũng hoá thành điệu tình si mê đắm lòng người. Thi sĩ như muốn nói với chúng
ta: sao người ta cứ đi tìm Bồng lai Tiên cảnh, cõi Niết bàn cực lạc ở mãi chốn
mông lung hão huyền, viễn vông nào kia. Nó ở ngay giữa cuộc sống quanh ta
đây, ngay trong giây phút hiện tại đây. Nó là cái có thực, luôn luôn diễn ra sinh

động trước mắt ta. Hàng loạt từ “này đây” vừa như liệt kê những của ngon vật lạ
phong phú, đa dạng, muôn màu muôn vẻ của trần gian, vừa như mời mọc thiết
tha, vừa tạo cho đoạn thơ một nhịp điệu thúc giục hối hả. Vậy còn chờ gì nữa,


×