Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

Công nghệ cọc khô và công ngệ ướt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (63.81 KB, 3 trang )

Công nghệ cọc khô
(khí nén + ximăng)

Công nghệ cọc ướt
(nước + ximăng)

- Yêu cầu nền đất phải có độ ẩm đồng đều > 20% - Chỉ cần có nền đất, không cần điều kiện về độ ẩm
(có những tầng đất độ ẩm rất thấp < 20% hoặc bão (vì trong vữa đã có định lượng nước).
hòa nước).
- Thiết bị đồng bộ chuyên dùng, lượng thất thoát
- Thiết bị đơn giản, không quản lý chặt tỷ lệ N/C. ximăng < 5%, không chảy ra ngoài nền đất vì hệ thống
Ngoài ra ximăng có hàm lượng thất thoát > 10%
trộn ướt tự động, cân đo được thể hiện nghiêm túc bằng
bay ra khỏi nền đất nên cọc không đồng đều, gây ô số liệu, thi công được khi trời mưa. Hình dạng cọc tròn
nhiễm nặng môi trường. Khí nén thổi luồn trong
đều, không bị đứt đoạn hay phình trướng.
nền đất dẫn ximăng đi đến đâu không biết, và hay - Lưỡi khoan 6 tầng gồm 12 cánh. 12 cánh này đều
bị xì ngược ra ngoài dọc theo cần khoan.
tổng hợp có công dụng cắt đất và trộn, giữ cho lõi đất
- Lưỡi khoan đơn giản chỉ có hai cánh tính cơ học, không bị xoay để có thể xé tơi và nén đất + ximăng
(vừa cắt vừa trộn) số lượng cánh quá ít nhưng
ngược xuống tạo độ chặt cho nền đất cứng đều hơn so
muốn trộn cho đều nhiều lúc phải khoan lên xuống với nền đất nguyên thủy.
nhiều lần. Ngoài ra, việc trộn dọc để tạo liên kết
- Một chu kỳ khoan chỉ đưa cần xuống và rút lên một
giữa các tầng đất khác nhau cũng khó hoàn thiện lần.
(bị phân tầng) công năng kém.
- Định lượng nước và xi măng hổn hợp với nhau bằng
- Dùng khí nén để hổn hợp với xi măng thổi vào lỗ việc cài đặt hệ thống cân điện tử, lưu lượng hổn hợp
khoan, rất khó quản lý và điều chỉnh hàm lượng
(vữa) được bơm đi bằng bơm áp lực cao, điều tiết bơm


A/C, gặp thời tiết xấu, không khí ẩm thì không sử bằng máy biến tầng theo định lượng thiết kế và có thể
dụng được, ống cần khoan rất dễ bị nghẹt vì không điều chỉnh định lượng tức thời. Đặc biệt lượng vữa
khí + xi măng có độ ẩm cao, thường xuyên phải xúc bơm đi rất ổn định.
rửa, gặp tầng đất mềm thì vữa đi đâu không biết,
thậm chí xì lên mặt đất. Nói tóm lại, gần như hổn
hợp A/C không bao giờ chính xác.
- Thông tin về số liệu thi công cọc không tự động, - Thiết bị đồng bộ nên đo được khi vận hành:
không đồng đều thậm chí phải có người liên tực
+ Lượng xi măng sử dụng cho từng mét cọc.
điều khiển lượng khí nén + xi măng….
+ Lượng xi măng sử dụng cho từng cọc, tổng lượng
xi măng hằng ngày.
- Đối với những nền đất có nhiều lớp hữu cơ hoặc
+ Chiều sâu (độ dài cọc).
là đa hữu cơ thì công nghệ này có hiệu quả rất kém,
+ Vận tốc khoan xuống rút lên.
thường không đạt chất lượng.
+ Áp lực khoan.
+ Hàm lượng nước xi măng khi trộn.
Và tất cả thể hiện trên phiếu in của từng cọc để lưu trữ.
- Thiết bị khoan đơn giản, di chuyển rất chậm bằng - Xe khoan tự hành liên tục di chuyển theo đồ hình để
phương pháp sử dụng “04 con đội” để di chuyển
thi công, công suất rất nhanh.
từng khoảng cách (tịnh tiến).
- Dùng xe khoan 02 cần với khoảng cách điều chỉnh
theo thiết kế để thi công cho cọc tường vây, bờ kè thì
- Thiết bị khoan 01 cần không nên sử dụng cho việc các cọc chồng mí liên kết với nhau rất đều và cấu kết
thi công tường vây, bờ kè vì khoảng chồng mí giữa rất tốt.
cọc và cọc không chính xác.
Vấn đề thị truờng:


- Các gói thầu lớn, vốn nhà nước, vốn ODA, các công


trình nhà cao tầng, bờ kè, tường vây, cọc tải cầu đường,
thiết kế của Tedi-north… đều tuyệt đối sử dụng công
- Trong hơn 3~5 năm trước đây thì còn được áp
nghệ ướt ở Việt Nam.
dụng cho nền tải của các nền khô, bồn dầu như ở Bà - Trong đầu năm nay, công nghệ cọc khô của Trung
Rịa, khu công nghiệp Trà Nóc Cần Thơ, Sân bay
Quốc(do công ty Trung Quốc thi công) cũng bị thất bại
Trà Nóc (đợt I) nhưng đến bây giờ thì các công
tại công trường “ Khí Điện Đạm Cà Mau”.
trình đều quy định công nghệ ướt để dự thầu.Toàn
bộ các thiết bị này của Trung Quốc ngày nay không
còn thị trường nên các máy móc được độ chế lại
công nghệ ướt (một cách đơn giản). Các công
trường như trên đến nay đều bị lún + sự cố. Hai
năm gần đây thì gần như áp dụng công nghệ ướt
cho toàn quốc. Công trường “Kênh Nhiêu Lộc” ở vị
trí nhà máy xử lý nước thải cạnh công viên Thảo
Cầm Viên – Sài Gòn, Đại Lộ Đông Tây (máy Nhật
Bản) cũng được sử dụng nhưng chỉ là biện pháp gia
cố nền là chính.
Kết luận:
Nền đất Việt Nam rất phức tạp, hàm lượng nuớc
Công nghệ cọc ướt có tính cơ lý rất cao áp dụng cho
cao, nhiều tầng lớp, nhiều hữu cơ, phèn, muối…nên công tác kết cấu cọc chịu tải, chịu xô bờ kè, tường vây,
công nghệ cọc khô áp dụng cho những công việc có cũng áp dụng cho việc ngăn chặn nước ngầm và gia cố
tính “biện pháp” để sử lý nền đất yếu, ổn định nền nền đất yếu. Đặc biệt để chống lún 02 đầu cầu, được áp

đất để chống lún, chống nền đất hóa mềm
dụng phổ biến ở Nhật và các nước Đông Nam Á.
(prevention of liquefaction) khi phải tiếp tục thi
Dây chuyền công nghệ của Nhật Bản được thiết kế
công công nghệ khác bên trên (đóng ép cừ cọc nhồi), hoàn thiện ở các bước thi công và được áp dụng hơn 30
chống sạt lỡ tổng thể cho một vùng nền đất.
năm qua cho nên kết quả thi công được nghiêm túc thể
Vì các lý do trên nên thiết bị và công nghệ cọc
hiện qua máy đo trên giàn thiết bị. Đặc biệt vấn đề xi
khô của Thụy Điển và Nhật đã được di chuyển sang măng nó luôn được kiểm tra ngay tại các bước đi…số
quốc gia khác.
lượng cũng luôn được quản lý chính xác tránh thất
Thực ra thập niên trước, công ty Kobelco Nhật thoát hao hụt bất thường.
bản có chế tạo thiết bị đồng bộ cho công nghệ cọc
khô, nhưng vì những lý do như tốn hao năng lượng
gấp 3 lần, dung tích thiết bị rất lớn, nhiều phụ kiện,
nặng nề, vận chuyển rất phức tạp khi thi công ở
công trường rộng nên rất tốn kém chi phí dời thiết
bị liên tục, giá thành thi công rất cao, nên công nghệ
này hầu như không còn nữa.

SO SÁNH CÔNG NGHỆ CỌC XIMĂNG ĐẤT
CÔNG NGHỆ KHÔ VÀ CÔNG NGHỆ ƯỚT


Nguyên lý cọc ximăng đất là : khi khoan tạo cọc thì nền đất phải đồng đều về chất đất và độ ẩm. Đất + ximăng +
nước phải được trộn thật đều suốt chiều dài của cọc và hỗn hợp nước + ximăng luôn phải ổn định theo định lượng
thiết kế thì khả năng chịu tải của cọc mới ổn định, đều và tải cao. Được như vậy tất cả các cọc của công trường mới
đồng nhất và đạt tải thiết kế.




×