Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

ĐỀ CƯƠNG ÔN TRIẾT HỌC LỚP CAO HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (214.38 KB, 32 trang )

CÂU 1: SO SÁNH TRIẾT HỌC PHƯƠNG ĐÔNG VÀ
TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY
1. Sự giống nhau:
Đây là kết tinh nhũng giá trị tinh túy nhất của tất cả các thời kỳ lịch sử, thể hiện quan điểm của
con người trong từng giai đoạn lịch sử, quan điểm của con người về mọi vấn đề: tự nhiên, nhận thức,
chính trị - xã hội.
Đều là sự phản ánh những quy luật chung nhất: tri thức mang tính khái quát, mang mang tính
trừu tượng.
2. Sự khác nhau:
Triết học Phương Đông
*Hướng nội

Triết học Phương Tây
* Hướng ngoại

- nhận thức những vấn đề trong chính cuộc Chủ yếu hướng ra tìm hiểu thế giới, tìm cách
sống của con người, Triết học Ấn Độ cổ trung giải thích, chinh phục thế giới; con người
đại: Phật giáo thể hiện rõ nét ở quan niệm tự dường như tách mình ra khỏi thế giới để nhận
thân sinh thành. Phật giáo đặc biệt chú trọng thức thế giới:
triết lý về nhân sinh. Cũng như nhiều trường + Trả lời câu hỏi khởi nguyên của thế giới bắt
phái triết học của Ấn Độ cổ đại, PG đặt vấn đề đầu từ đâu:
tìm kiếm mục tiêu nhân sinh ở sự giải thoát - Theo các quan điểm duy vật thì khẳng định
khỏi vòng luân hồi, nghiệp báo để đạt tới trạng thế giới được hình thành từ những dạng vật chất
thái tồn tại Niết bàn. Nội dung của triết học cụ thể, như Hêraclit thì cho rằng khởi nguyên
nhân sinh PG tập trung ở bốn luận đề: khổ đế, của thế giới là lửa; Talet là nước, Đêmocrit là
nhân đế, diệt đế, đạo đế. Bốn luận đề này thực nguyên tử…
chất là giải thích các vấn đề diễn ra trong cuộc - Theo quan điểm của các nhà duy tâm thì thế
sống con người và tìm ra con đường tu đạo của giới là do một lực lượng siêu nhiên sáng tạo ra,
con người.

như Pitago thì cho rằng thế giới này được hình



Triết học Trung Hoa cổ trung đại: coi con thành từ những con số và ông đã thần thánh hóa
người là tiểu vũ trụ trong hệ thống lớn, trời đất các con số đó
với ta cùng sinh, vạn vật với ta là một. Như vậy + Đi vào giải thích các sự vật hiện tượng
con người cũng chứa đựng tất cả những tính - Các sự vật, hiện tượng trong thế giới được tạo
chất, những huyền bí của vũ trụ bao la. chỉ cần ra như thế nào
1


suy xét ở trong tâm, tận tâm của mình mà thôi.

- theo Hêraclit thì sự vật, hiện tượng được sinh

* triết học là các học thuyết chính trị- xã hội

ra do sự vận động lửa: Lửa→ đất→

- thời kỳ Xuân Thu- Chiến Quốc là thời kỳ nước→không khí (Logos) đây chính là quy luật
chuyển biến từ chế độ CHNL sang chế độ vận động của lửa, trong quá trình này lửa sẽ tạo
phong kiến. Xã hội lúc này ở vào tình trang hết ra các sự vật hiện tượng.
sức hỗn loạn, sự tranh giành quyền lực, cát cứ - Theo Platon thì ý niệm là cái trước, tồn tại
đã đẩy xã hội trung hoa vào tình trạng chiến vĩnh viễn và đó chính là nguồn gốc sinh ra các
tranh khốc liệt liên miên. Trong tình hình đó sự vật cảm tính.
một loạt các học thuyết triết học gắn với các + Triết học phương tây đề cập đến nhiều vấn đề
vấn đề chính trị- xã hội đã xuất hiện. Tiêu biểu khác nhau như: nhận thức luận, chính trị, xã
là học thuyết của phái Nho gia. Kinh điển của hội, đạo đức, mỹ học… nhưng trong đó đạm nét
Nho giáo thể hiện ở Tứ thư, Ngũ kinh. Qua hệ hơn cả là quan điểm về giới tự nhiên.
thống kinh điển có thể thấy hầu hết là các
kinh,sách viết về xã hôi, về những kinh nghiệm
lịch sử Trung Hoa. Điều này cho thấy rõ xu

hướng biện luận về xã hội, về chính trị- đạo đức
là tư tưởng cốt lõi của Nho gia. Nho gia coi
những quan hệ chính tri- đạo đức là quan hệ
nền tảng của xã hội, trong đó quan trọng nhất là
quan hệ vua- tôi, cha-con, chồng- vợ; lý tưởng
của Nho gia là xây dựng một xã hội đại đồng,
lấy giáo dục là phương thức chủ yếu để đạt tới
xã hội đó, và theo Nho gia thì bản tính con
người là Thiện. Nho gia là học thuyết có nội
dung phong phú và mang tính hệ thống, nó còn
le hệ tư tưởng của giai cấp thống trị Trung Hoa
suốt hai ngàn năm của xã hội phong kiến.
Ngoài ra ở Trung Hoa thời đó còn có phái Đạo
gia( học thuyết về Đạo): với cốt lõi chủ thuyết
chính trị- xã hội là luận điểm Vô vi. Vô vi
không phải là cái thụ động, bất động hay không
hành động mà có nghĩa là hành động theo bản
2


tính tự nhiên của Đạo; Thuyết “Kiêm ái” của
phái Mặc gia là một chủ thuyết chính trị- xã hội
mang đậm nét tiểu nông với chủ trương: mọi
người thương yêu nhau không phân biệt than
sơ, đẳng cấp; học thuyết Pháp trị của phái Pháp
gia, Hàn Phi Tử đã nhấn mạnh sự cần thiết phải
cai trị xã hội bằng luật pháp. Phép trị quốc của
Hàn Phi Tử bao gồm: pháp, thế và thuật.
Như vậy, mặc dù vẫn đứng trên quan điểm duy
tâm để giải thích và đưa ra những biện pháp

giải quyết các vấn đề xã hội nhưng những học
thuyết này đã góp phần rất lớn trong việc xác
lập một trật tự xã hội theo mô hình chế độ quân
chủ phong kiến trung ương tập quyền theo
những giá trị chuẩn mực chính trị- đạo đức
phong kiến Phương Đông.
* cuộc đấu tranh giữa CNDV- CNDT không * Đấu tranh duy vật và duy tâm rõ rệt, đậm
rõ rệt

nét mạnh mẽ; có sự phân biệt rõ ràng giữa
triết học và tôn giáo

ở PĐ có sự đan xen các trường phái DT và DV. + Ngay từ thời kỳ Hy Lạp cổ đại đã có sự phân
Các yếu tố duy vật, duy tâm, biện chơngs, siêu chia, đấu tranh rạch ròi giữa hai trường phái này
hình không rõ nét. Sự phân chia chỉ xét về đại và nó trở thành quy luật phát triển của lịch sử
thể, còn đi sâu vào những nội dung cụ thể triết học. Đứng trên lập trường đối lập nhau
thường là có mặt duy tâm, có mặt duy vật, sơ trong quá trình giải quyết vấn đề cơ bản của
kỳ là duy vật, hậu kỳ là duy tâm hay nhị nguyên triết học, trả lời câu hỏi giữa vật chất và ý thức
luận, thể hiện rõ thế giới quan thiếu nhất quán, cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết
thiếu triệt để của triết học vì phân kỳ lịch sử định cái nào?; con người có khả năng nhận thức
trong các xã hội của Phương đông cũng không được thế giới hay không?
mạch lạc như Phương Tây.

+ Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ

Các nhà triết học ở cacs thời đại chỉ giới hạn nghĩa duy tâm trong thời kỳ Hy Lạp cổ đại
mình trong khuôn khổ ủng hộ bảo vê quan điểm được thể hiện rất rõ qua hệ thống triết học của
3



hay một hệ thống nào đó để hoàn thiện và phát Đêmocrit và Platon.
triển nó lớn hơn là vạch ra những sai lầm và (● Quan niệm về thế giới:
không đặt ra mục đich là tạo ra một triết học Đ: nguyên tử, bản chất sự vật là sự sắp xếp các
mới, do vậy nó không mâu thuẫn với các học nguyên tử.
thuyết đặt nền móng ban đầu, không phủ định P: ý niệm, bản chất của sự vật là do ý niệm
nhau hoàn toàn cho nên cuộc đấu tranh giữa các quyết định.
trường phái không gau gắt, quyết liệt và triệt để. ● Quan niệm về nhận thức:
- triết học gắn với tôn giáo và ảnh hưởng của Đ: TGKQ, nguyên tử. là quá trình đi từ nhận
tôn giáo

thức mờ tối đến nhận thức chân lý.

ở PĐ thì triết học ít khi tồn tại dưới dạng thuần P: nhận thức là sự hồi tưởng, đối tượng của
tuý mà thường đan xen với các hình thái ý thức nhận thức là linh hồn bất tử, là sự hồi tưởng.
xã hội khác. Cái nọ lấy cái kia làm tiền đề phát ● Quan niệm về con người:
triển cho nên ít có những triết gia với những tác Đ: con người: linh hồn + thể xác, không bất tử.
phẩm triết học độc lập: triết học trung Hoa đan P: linh hồn+ thể xác, bất tử.
xen với chính trị lý luận, triết học Ấn Độ lại đan ● Quan niệm chính trị - xã hội:
xen với tôn giáo. So với các nền triết học cổ đại Đ: đứng trên lập trường chủ nô dân chủ, những
khác thì triết học Ấn độ cổ đại là một nền triết tư tưởng của ông về nhà nước, dân chủ mang
học chịu ảnh hưởng lớn của những tư tưởng tôn tính chất tiến bộ.
giáo

P: bảo vệ tập đoàn chủ nô quý tộc, lạc hậu, phân
chia đẳng cấp, phản đối dân chủ)
+ Trong thời kỳ trung cổ cuộc đấu tranh đó
được biểu hiện qua hệ thống triết học của phái
duy thực (thừa nhận chỉ tồn tại cái chung, phủ
nhận cái riêng) và phái duy danh (ngược lại).
+ Cận đại:

CNDV (Anh: Bê cơn, Hốpxo, Lốcco;
Pháp:
Đềcac,
Lametri,
Đidro,
Hôbach;)
CNDT: Becoli, Hium
- Triết học cổ điển Đức:
CNDV: Phơbach
CNDT: Hêghen

* hệ thống khái niệm, phạm trù:

* Khác nhau về hệ thống khái niệm, phạm trù
4


+ về bản thể luận: ở PĐ dùng các phạm trù: thái Ngay từ đầu ở phương Tây các nhà triết học đã
cực, đạo sắc, hình, vạn pháp…hay ngũ hành: sử dụng phạm trù vật chất, ý thức, biện chứng,
Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ… để nói về bản siêu hình, vận động, khách thể, chủ thể
chất của vũ trụ. Khi bàn về mối quan hệ giữa
con người với con người: tâm-vật, năng- sở, lýkhí, hình-thần
+ về tính chất và sự biến đổi của thế giới: PĐ sử
dụng các phạm trù: động- tĩnh, biến dịch, vô
thường, vô ngã, lấy cái tĩnh, cái thống nhất làm
gốc.
+ về các mối liên hệ giữa các sj vật, hiện tượng
ở PĐ xuất hiện các khái niệm: đạo, lý, mệnh,
thần
* triết học phát triển không liên tục


* Phát triển diễn ra liên tục, phủ định của phủ

lịch sử triết học PĐ ít có sự nhảy vọt về chất định; phát triển đi lên, liên tục từ thấp đến cao,
mang tính vạch thời đại mà chỉ là sự phát triển tính mâu thuẫn: triết học thời kỳ Hy Lạp cổ đại
cục bộ, kế tiếp và xen kẽ. Ở Ấn độ cũng như là biện chứng sơ khai, mộc mạc, chất phác→
Trung quốc các trường phái có từ thời cổ đại siêu hình→biện chứng.
vẫn giữ nguyên tên gọi cho đến ngày nay.

(triết học thời kỳ Hy Lạp cổ đại là biện chứng

* phép biện chứng: sự vận động diễn ra theo sơ khai, mộc mạc, chất phác. Đến thế kỷ 17, 18
vòng tuần hoàn, điều hoà, nhấn mạnh sự hài khi khoa học, kỹ thuật phát triển có sự phân
hoà.

ngành thành các khoa học cụ thể, nghiên cứu

Tiêu biểu cho PBC này là thuyết âm dương ngũ thực nghiệm, con người tiếp tục đạt được nhiều
hành: triết học âm dương có thiên hướng suy tư thành tựu triết học, nhưng lại rơi vào duy vật
về nguyên lý vận hành đầu tiên và phổ biến của siêu hình. Chỉ đến khi chủ nghĩa Mác – Lênin
vạn vật, đó là sự tương tác của hai thế lực đối ra đời )
lập nhau: âm- dương. Hai thế lực âm- dương
không tồn tại biệt lập mà thống nhât với nhau,
chế ước lẫn nhau theo ba nguyên lý căn bản
CÂU 2: QUY LUẬT CỦA SỰ PHÁT TRIỂN TRIẾT HỌC
5


TRONG LỊCH SỬ
Lịch sử phát triển của triết học thể hiện hai quy luật cơ bản sau.

1. Phản ánh cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
Triết học nghiên cứu nhiều vấn đề chung, nhưng vấn đề trung tâm, cơ bản là mối quan hệ giữa
vật chất và ý thức, tư duy và tồn tại. Ph.Ăngghen từng nói: “ Vấn đề cơ bản lớn nhất của mọi triết
học, đặc biệt là triết học hiện đại là quan hệ giữa tư duy và thực tại”. Sở dĩ quan hệ này lại là vấn đề
cơ bản của triết học vì thế giới chung quy chia thành 2 loại là sự vật vật chất và hiện tượng tinh thần,
giữa vật chất và tinh thần có quan hệ lẫn nhau, triết học đi sâu làm sáng tỏ mối quan hệ đó, đồng thời
giải quyết vấn đề này sẽ là cơ sở để giải quyết các vấn đề tiếp theo vì nó là điểm xuất phát của mọi tư
tưởng, mọi quyết định của mọi hệ thống triết học. Triết học được chia làm 2 trào lưu chính là CNDV
và CNDT.
CNDT cho rằng thực thể của thế giới, cơ sở của mọi tồn tại là một bản nguyên tinh thần nào
đó, có thể là “ý chí của Thượng đế” là “ý niệm tuyệt đối”, họ cho rằng thần linh là người sáng tạo ra
tất cả trong đó có cả con người và con người không thể nhận biết được thế giới. Ngược lại, CNDV
khẳng định thực thể của thế giới là vật chất, cái tồn tại một cách vĩnh cửu, tạo nên mọi sự vật và hiện
tượng cùng những thuộc tính của chúng, khẳng định rằng con người là sản phẩm cao nhất trong quá
trình tiến hoá của tự nhiên, con người hoàn toàn có khả năng nhận biết và cải tạo thế giới. Vì vậy,
cuộc đấu tranh giữa CNDV và CNDT diễn ra từ thời cổ đại và nó xuyên suốt chiều dại lịch sử triết
học từ đó tới nay.
* Ngay từ thời Cổ đại Hy Lạp là cuộc đấu tranh không khoan nhượng của hai nhà triết học tiêu
biểu là Platon (427-347) và Đêmôcơrit (460-370) trước Công Nguyên.
+ Quan niệm về thế giới”
Platon cho rằng thế giới bao gồm có thế giới ý niệm và thế giới cảm tính. TG ý niệm là TG của
những khái niệm, tri thức, định luật, quy luật… tách rời hẳn SV cảm tính, tồn tại vĩnh viễn, bất biến
và nó chính là n.gốc của các SV cảm tính. TG SVcảm tính là TG của các SV biến đổi k ngừng sinh ra
và k ngừng chết đi. Các SV cảm tính hết sức đa dạng, phong phú. TGSV cảm tính tồn tại nhất thời và
do TG ý niệm sinh ra. Học thuyết về TG ý niệm của Platon cho rằng bản thân ý niệm tồn tại vĩnh
viễn, số lượng ý niệm so với SV cảm tính chỉ là có hạn. TG ý niệm được tổ chức chặt chẽ theo thứ tự.
Như vậy, bản chất của TG là do ý niệm quy định. Còn Đêmocrit cho rằng TG hình thành từ nguyên
tử và chân k. Nguyên tử là những hạt VC nhỏ bé nhất, k thể tiếp tục phân chia, bất biến, tồn tại vĩnh
viễn và luôn vận động. Các ntử là đồng nhất về chất, chúng chỉ khác nhau về hình thức và kích thước.
Chân k là khoảng k rộng lớn, trong đó các ntử vận động. các ntử kết hợp với nhau theo hình thức, trật

6


tự, tư thế khác nhau tạo thành các SV khác nhau. Các ntử vận động theo hình xoáy ốc tạo thành các
đám mây vận động theo hình xoáy lốc hút các ntử to hơn, nặng hơn vào trung tâm, đẩy ntử nhỏ hơn,
nhẹ hơn ra vùng ngoại biên tạo thành hành tinh. Trong các hành tinh các ntử có cùng kích thước,
cùng hình thức lại kết hợp lại với nhau tạo thành đất, nc, lửa, không khí và ông khẳng định có vô số
TG k ngừng được sinh ra và mất đi như vậy.
+ Qun niệm về nhận thức:
Platon coi đối tượng của nhận thức là ý niệm. Bản chất của nhận thức chỉ là sự hồi tưởng của
linh hồn, của ý niệm hay là sự hồi ức. Còn Đêmocrit khẳng định đối tượng của nhận thức chính là TG
bên ngoài, cụ thể là nguyên tử. Quan niệm về nthức có hai dạng: nhận thức mở tối(cảm tính) có nghĩa
ai cũng có khả năng nhận thức nhưng chỉ dừng lại ở bề ngoài. Nthức chân lý: k phải ai cũng đạt được,
phải xuất phát từ nthức mờ tối.
+ Quan niệm về con người:
Platon cho con người là sự kết hợp giữa linh hồn và thể xác. Linh hồn là bất tử,linh hồn thoát
ra, trú ngụ ở thế giới ý niệm hình thành nên nthức mới, khi có thể xác mới lại nhập vào và quên hết
quá khứ. Phương pháp để linh hồn có thể nhớ lại là qua hỏi đáp để phát hiện ra chân lý. Còn Đêmo
cho rằng:con người cũng gồm linh hồn và thể xác. Linh hồn là những ntử nhẵn nhụi, đặc biệt con
người có tư duy vì được cấu thành bởi những ntử đặc biệt, chất cấu thành cơ thể con người sạch sẽ
hơn chất cấu tành động vật.
+ Quan niệm về Nhà nước:
Platon đặc biệt sùng bái NN, đề cao NN chủ nô quý tộc xem đây là NN hoàn thiện nhất, là NN
công lý đồng thời theo ông con người trong xã hội phải sống vì NN, phục vụ, phục tùng NN. Platon
đề sướng mô hình NN lý tưởng được xây dựng trên cơ sở 3 đẳng cấp, có sự tồn tại của NN chủ nô
quý tộc và xã hội này sản xuất ra của cải đủ đáp ứng cho tất cả mọi người trong xh dựa trên lao động
chủ yếu của nô lệ. Platon phản đối dân chủ.. Đêmôcrit có quan điểm về NN, dân chủ, đạo đức mang
tính cấp tiến. Ông đứng trên lập trường của bộ phận chủ nô dân chủ, ca ngợi tình thân ái, tính ôn hoà
trong xã hội, ca ngợi bầu không khí dân chủ trong xã hội và đặc biệt NN phải mang lại hạnh phúc cho
nhân dân.

* Thời kỳ Trung cổ cuộc đấu tranh giữa CNDV và CNDT được thể hiện rõ rệt nhất là giữa
CNDD và CNDT. Khi CNDD thừa nhận cái riêng, bác bỏ cái chung còn CNDT chỉ thừa nhận cái
chung tồn tại, cái riêng không tồn tại, cái riêng chỉ tồn tại do cái chung sinh ra.
* Thời Cận đại là cuộc đấu tranh tiêu biểu giữa P. Bêcơn và Becơly
+ Quan niệm về thế giới:
7


Becơly phủ nhận sự tồn tại của thế giới khách quan, ông muốn phủ nhận CNDV ngay từ
những quan niệm của CNDV. Phủ nhận khái niệm VC, cho rằng khái niệm VC k có và cũng k tồn tại
TGKQ. Ông cho rằng SV như thế nào là hoàn toàn phụ thuộc vào cảm giác của con người công thức:
” tồn tại tức là được nhận thức” là công thức đặc trưng trong TH của ông. Ông thừa nhận có sự tồn tại
của thượng đế. Còn Bêcơn nhà DV người Anh kế thừa tư tưởng của Đêmocrit nhưng k thoả mãn với
quan niệm này. Ông cho rằng SV được hình thành từ nhiều thuộc tính do sự sắp xếp các thuộc tính
khác nhau thì dẫn đến các SV khác nhau. Ông khẳng định dứt khoát rằng có một TGKQ tồn tại.
TGVC bao gồm vô vàn các SV, các SV đều được hình thành bởi vô vàn các thuộc tính. Ông còn kđ
rằng VC luôn vận động, vận động gắn liền với bản thân SV, vận động tồn tại vĩnh viễn(19 dạng
vđộng).
+ Quan niệm về nhận thức:
Becơly cho rằng nhận thức SV chẳng qua chỉ là nhận thức cảm giác của con người, ông phủ
nhận chân lý lhách quan. Ông đưa ra tiêu chuẩn của chân lý bao gồm: tính rõ ràng của các lập luận,
sự đơn giản,dễ hiểu của cácquan niệm, sự tươg đồng của nhiều cảm giác với nhau, sự phù hợp của ý
chúa và tuân theo ý chúa. Các tiêu chuẩn trên đều đứng trên lập trường DTCQ và DTKQ. Bêcơn kđ
đối tượng của nthức chính là TGKQ, mục đích của nthức là đem lại cho con người tri thức, nhờ nthức
đó con người sẽ làm chủ được giới TN. Ông đặc biệt đề cao phương pháp nhận thức là phương pháp
thực nghiệm. Sau khi đã có tài liệu thực nghiệm phải quy nạp lại để đạt đến tri thức đúng., để đạt tới
chân lý trước hết phải gột rửa ảo tưởng đang chi phối nthức của con người sau đó cộng với phương
pháp đúng. Phương pháp con ong là hợp lý nhất: cần mẫn hút nhuỵ hoa, chắt lọc lại thành mật...
+ Quan niệm về con người:
Becơly cho con người là sự kết hợp giữa linhhồn và thể xác. Thể xác cũng là một SV cụ thể,

thể xác cũng chỉ tồn tại khi người ta nthức. Con người cũng chỉ tồn tại khi người khác nthức về họ.
Ông cho rằng: tồn tại của mình là ở trong tinh thần của người khác. Bêcơn cho con người cũng có
linh hồn và thể xác.
+ Quan niệm về chính trị- xã hội.
Becơly ủng hộ giai cấp quý tộc và nhà thờ. Bêcơn bảo vệ lợi ích cho GCTS Anh, muốn nước
Anh trở thành bá chủ TG.
*Trong triết học cổ điển Đức là giữa Hêghen và Phơ bách:
+ Quan niệm về thế giới:
Hêghen phê phán Cantơ khi Cantơ chia TG ra làm 2 theo Hêghen là xé lẻ TG vì bản chất của
SV-HT nằm trong chính SV-HT mà thôi. Phê phán nhưng ông lại chọn cho mình điểm xuất phát từ
8


”thế giới vật tự nó” của Can tơ đó là ý niệm tuyệt đối. Ý niệm tuyệt đối là cái thực thể sinh ra mọi cái
trên thế giới, là đấng tối cao sáng tạo nên cả TN và con người. Mọi SV-HT xung quanh chúng ta, tính
phong phú, đa dạng của thế giới hiện thực chính là sự hiện thân của ý niệm tuyệt đối là kết quả của sự
vận động và sáng tạo của ý niệmtuỵet đối. YNTĐ là tinh thần có trứơc nhất, do chứa đựng các mâu
thuẫn nó luôn vđộng từ thấp đến cao. Đạt đến mức độ cao nhất nó đã mang trong nó chứa đựng tất cả
những quy định về sau này tiếp tục vđộng tha hoá thành giới TN. Vì vậy, giới TN chỉ là tồn tại khác
của ý niệm. Trong giới TN ý niệm tiếp tục vận động từ thấp đến cao từ vô cơ đến hữu xơ và cao nhất
là ra đời con người. Khi đạt đến độ cao nhất yntđ sẽ quay trở về chính nó tức là quay về trong đời
sống tinh thần của xh loài người. Lúc này yntđ sẽ thành tinh thần tuyệt đối. Ngược lại, Phơ bách kđ tự
nhiên là cái hữu hình, là VC, là có thể cảm giác đựoc, TG là VC. VC k do ai sáng tạo ra, nó tồn tại
vĩnh viễn, vô hạn, độc lập với ý thức của con người, k phụ thuộc vào bất cứ một triết học nào. VC có
trước, VC quyết định YT, giới TN tự nó tồn tại, chỉ có thể giải thích giới TN xuất phát từ bản thân nó.
Giới TN là vĩnh hằng về tg, vô tận về không gian. Chỉ có những SV,HT riêng biệt là có giới hạn về
kg, tg, k có VC tồn tại ngòài kg, tg. Ông thừa nhận có sự tồn tại các quy luật kq của TN và tính kq
của quy luật nhân quả.
+ Quan niệm về nhận thức:
Theo Hêghen con người có khả năng phản ánh giới tự nhiên, và khi con người phản ánh đầy

đủ giới tự nhiên thì cũng có nghĩa là ý thức của con người đã quay về với điểm khởi đầu của nó là ý
niệm tuyệt đối. Phơ bách chống lại quan điểm của Hêghen và các nhà nhị nguyên luận về sự tách rời
giữa tinh thần và thể xác, ông coi ý thức tinh thần cũng là một thuộc tính đăc biệt của vật chất có tổ
chức cao là bộ óc người. Từ đó, ông đi đến khẳng định rằng giữa tồn tại và tư duy có mối quan hệ
khăng khít. Ông cũng thấy được nthức có 2 quá trình là trực quan cảm tính và tư duy lý tính đồng
thời cũng thấy được mlh giữa 2 gđ đó. Nếu không có cảm giác thì không thể có lý tính. Ngược lại,
nếu chỉ dừng lại ở cảm giác k phát triển lên lý tính thì k phát hiện ra chân lý, do đó, nthức phải là sự
kết hợp của cả 2 điều đó.
+ Quan niệm về con người:
Hạn chế cơ bản nhất của triết học Hêghen, theo Phơbách, là tính duy tâm trong việc giải quyết
vấn đề quan hệ giữa con người và tự nhiên, coi toàn bộ thế giới hiện thực chỉ là hiện thân của tinh
thần tuyệt đối được hiểu như một lực lượng siêu nhiên. Phơbách khẳng định: “Triết học Hêghen, là
chỗ ẩn náu cuối cùng của thần học..Mối quan hệ thực sự giữa tư duy và tồn tại như sau: tồn tại là chủ
ngữ, tư duy là vị ngữ”. Phơbach đã phê phán Hêghen trong quan niệm về con người một cách trừu
tượng và thần bí coi đó là lực lượng siêu nhiên sáng tạo ra hiện thực. Ông khẳng định con người là
9


sản phẩm của tự nhiên là cái gương của vũ trụ, thông qua đó giới tự nhiên ý thức và nhận thức chính
bản thân mình. Theo ông, con người là 1 thực thể sinh vật, là sản phẩm cao nhất của TN do TN sáng
tạo ra. Sở dĩ con người có thể nthức vì con người có bộ óc và cngười cũng có tấtcả những cảm giác,
ham muốn, ước mơ.. đồng thời cngười cũng khác các loài động vật khác vì cngười có văn hoá, ý thức
pl, đạo đức….
2. Triết học phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn
thiện:
Triết học là hệ thống những quan điểm chung nhất về thế giới, nó xuất hiện vào thời kỳ phát
sinh và phát triển của xã hội chiếm hữu nô lệ ở thời cổ đại, vào khoảng từ thế kỷ VIII đến thế kỷ VI
trước công nguyên với những thành tựu rực rỡ trong các nền triết học cổ đại ở Hy Lạp- La Mã, Trung
Quốc, và Ấn Độ.
Lênin viết: "Mỗi khía cạnh riêng biệt của tư tưởng = một vòng tròn trên, vòng tròn lớn (xoáy

ốc) của sự phát triển của tư tưởng con người nói chung”.
Tư tưởng của Lênin về lịch sử triết học như một vòng tròn của những vòng tròn (vòng xoáy
ốc), trước hết có ý nghĩa to lớn là chỉ ra trong tiến trình lịch sử triết học các phạm trù không phải là
bất biến, xây dựng một lần là xong. Trên thực tế các hệ thống triết học đều trở đi trở lại và làm cho
chúng sâu sắc thêm, do đó hình thành một vòng tròn trên vòng tròn lớn (dường như quay lại điểm
xuất phát và trở lại trình độ đã qua).
Tuy nhiên, đã không phải là bộ sưu tập được dùng để trưng bày, mà là những cứ liệu cho sự
xuy xét phân tích tiếp theo. Mỗi một giai đoạn riêng biệt, mỗi hệ thống triết học cụ thể là một vòng
tròn, một khu vực khép kín nhất định, có thể có những vấn đề riêng của nó, xoay quanh những vấn đề
trung tâm. Sự sâu sắc thêm của các tri thức ở những giai đoạn sau bao giờ cũng dựa trên trình độ tri
thức đạt được trước đó, mỗi trình độ tri thức của giai đoạn trước bao giờ cũng là cơ sở cho các trình
độ sau.
Như vậy, Hêgen và sau đó là Lênin là những người đầu tiên nhận thấy việc kế thừa và phát
triển là quy luật khách quan trong lịch sử triết học. Việc nghiên cứu quy luật đã có ý nghĩa hết sức to
lớn đối với việc đánh giá những đóng góp của mỗi nhà triết học vào kho tàng lý luận của nhân loại,
đối vởi việc xác định đối tượng và nhiệm vụ của triết học ở mỗi giai đoạn cụ thể.
Kế thừa và phát triển là hai khái niệm bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau. Kế thừa là sự bảo tồn những
đặc điểm, đặc tính của một sự vật và hiện tượng có trong sự vật và hiện tượng mới. Dù là mối liên hệ
tất yếu, khách quan giữa cái mới và cái cũ trong quá trình phát triển, là một trong những nét cơ bản
nhất của quy luật phủ định của phủ đinh. Còn phát triển không chỉ là sư bảo tồn mà còn là sự mỏ
10


rộng, bổ sung hoặc sự hoàn thiện và nâng cao về chất những đặc điểm, đặc tính vốn có trong sự vật
và hiện tượng. Như vậy, để phát triển được bao giờ cũng cần có sự kế thừa, tức là bảo tồn, giữ lại
những đặc điểm, đặc tính của đối tượng để trên cơ sở đó mở rộng, nâng cao trình độ, còn phát triển
chính là sự kể thừa tốt nhất, tích cực nhất.
Trong lịch sử nhận thức khoa học, các hình thức kế thừa và phát triển của lý thuyết khoa học
rất đa dạng: có những lý thuyết mới là sự bổ sung, hoàn thiện các lý thuyết cũ, có lý thuyết mới là sự
mở rộng lý thuyết cũ và trong trường hợp này lý thuyết cũ trở thành một trường hợp đặc biệt của lý

thuyết mới, nhưng cũng có lý thuyết mới là sự kết hợp của hai lý thuyết đối lập nhau như trường hợp
lý thuyết về bản chất của ánh sáng...
Giống như trong lịch sử nhận thức khoa học, trong lịch sử triết học trước Mác, những hình
thức kế thừa và phát triển cũng rất đa dạng. Đúng như các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã nhận
xét, triết học cổ đại HiLạp đã có tất cả những mầm mống của các trường phái triết học sau này.
Những mầm mống đã được người đời sau kế thừa và phát triển.
Thời kỳ cổ đại:
Ở phương Tây: Đúng như các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã nhận xét, triết học cổ đại
HiLạp đã có tất cả những mầm mống của các trường phái triết học sau này. Những mầm mống đã
được người đời sau kế thừa và phát triển.
Các hệ thống triết học Hy Lạp cổ đại nói chung đều có xu hướng đi sâu vào giải quyết các vấn
đề bản thể luận của triết học, bên cạnh đó những tư tưởng biện chứng với tư cách la những tư tưởng
triết học về sự phát triển mà điển hình là những tư tưởng của Hêraclit đã trở thành nét khác biệt với
triết học Hy Lạp với nền triết học Phương Đông cổ đại.
So với các giai đoạn phát triển triết học ở các nước Tây Âu sau này thì nhìn chung triết học Hy
Lạp cổ đại còn ở trình độ trực quan, chất phác, đặc biệt là với hệ thống triết học duy vật biện chứng.
Tuy vậy nó đã đặt ra hầ hết các vấn đề căn bản của triết học, bao chứa tất thế giới quan về sau.
Sự phân chia và đối lập giữa các trường phái triết học: duy vật và duy tâm, biện chứng và siêu
hình, vô thần và hữu thần là nét nổi bật của quá trình phát triển triết học Hy Lạp cổ đại. Những đặc
điểm này nói lên vị trí, vai trò của nền triết học Hy lạp cổ đại với lịch sử triết học thế giới sau này, nó
làm phong phú tư duy triết học và đồng thời chính nó đã đặt nền tảng cho cho sự phát triển triết học
Tây Âu sau này.
Mặc dù xuất hiện trong điều kiện các tri thức khoa học sơ khai, triết học Hy Lạp cổ đại đã đề
cập tới những vấn đề cơ bản của thế giới quan theo nghĩa hiện đại tuy còn ở trạng thái mầm mống.
Mác và Ăngghen đánh giá cao triết học Hy Lạp cổ đại và đã nhận định rằng, trong những hình thái
11


muôn vẻ của tư tưởng triết học Hy Lạp đã có mầm móng của tất cả các kiểu thế giới quan sau này.
Triết học duy vật giai đoạn nay mặc dầu mộc mạc thô sơ, mang tính phỏng đoán nhưng đã có giá trị

nền tảng định hướng cho triết học sau này. Quan trọng nhất của triết học duy vật Hy Lạp cổ đại chính
là thuyết nguyên tử của Đêmôcrit đã đạt cơ sở cho sự phát triển của khoa học tự nhiên; phép biện
chứng chất phác của Hêraclit và logíc học hình thức của Arixtốt.
Ở phương Đông: Nếu Phương Đông là chiếc nôi lớn của nền văn minh nhân loại thì Trung
Quốc và Ấn Độ là những trung tâm văn hóa, triết học cổ xưa rực rỡ, phong phú nhất của nền văn
minh ấy.
Nền triết học Trung Quốc cổ đại cống hiến cho lịch sử triết học thế giới những tư tưởng sâu
sắc về sự biến dịch của vũ trụ. Những tư tưởng về âm dương, ngũ hành tuy còn có những hạn chế
nhất định nhưng vẫn là những triết lý đặc sắc mang tính chất duy vật và biện chứng của người Trung
Quốc cổ, đã có ảnh hưởng to lớn tới thế giới quan triết học sau này không những của người Trung
Quốc mà đối với cả nền triết học chung của nhân loại. Một trong những tư tưởng triết học phương
Đông thời đó mà ý nghĩa của nó vẫn còn giá trị cho đến tận ngày nay là tư tưởng luân lý, đạo đức,
chính trị xã hội được thể hiện trong tư tưởng triết học của Nho gia.
CÂU 3: QUAN ĐIỂM KHÁCH QUAN
Triết học Mác đã giải quyết một cách đúng đắn vấn đề cơ bản của triết học đó là vấn đề vật
chất và ý thức. Ph. Ănghen từng khẳng định: “ Vấn đề co bản lớn nhất của mọi triết học, đặc biệt là
triết học hiện đại là vấn đề giữa tư duy và tồn tại” ( Mac- Angghen, TT, T.21, tr.403). Mác – ăngghen
từng khẳng định: “ VC không phải là cái gì khác hơn là tổng số của những vật thể để từ đó con người
rút ra khái niệm ấy bằng con đường trừu tượng hoá”, “ VC với tích cách là vật chất không có sự tồn
taị cảm tính”… Do những điều kiện khách quan và chủ quan, những tư tưởng đúng đắn về vật chất
của mác và ăng ghen chưa tiến tới một định nghĩa hoàn chỉnh. Kế thừa tư tưởng trên đồng thời tổng
kết những thành tựu của khoa học tự nhiên cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 và từ nhu cầu cuộc đấu tranh
chống chủ nghĩa duy tâm, Lênin trong tác phẩm “CNDV và CN kinh nghiệm phê phán” (Lênin, tt,
t.18, tr.151, Nxb Tiến bộ, 1976) đã định nghĩa:
“VC là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong
cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm
giác”.
-VC là một phạm trù triết học, nó khái quát toàn bộ các sv, ht trong hiện thực khách quan của
tư duy, để phát hiện thuộc tính chung nhất có mặt ở mọi sv, ht và khái quát lại để nêu thành phạm trù
12



vật chất. Như vậy, vật chất là một phạm trù triết học chứ không phải là sự vật, không thể đồng nhất
vật chất với các dạng cụ thể của vật chất mà là thuộc tính chung nhất.
-Thuộc tính căn bản phản ánh trong phạm trù VC đó là tồn tại khách quan.( theo lenin là thực
tại khách quan). Do đó, phạm trù VC cho phép ta phân biệt cái gì thuộc thế giới vật chất( khách quan)
và cái gì thuộc thế giới chủ quan (thế giới tinh thần). Thế giới khách quan gồm các sv, ht vô cùng đa
dạng, phong phú cũng có nghĩa là nó có vô vàn các thuộc tính cụ thể nhưng trong đó nó có thuộc tính
vĩnh viễn không thay đổi và có mặt ở mọi sv, ht trong thế giới vật chất đó là thuộc tính tồn tại khách
quan. Thế giới VC là vô cùng, vô tận nó không do một yếu tố nào sinh ra và cũng không bị mất đi.
- VC tồn tại nhưng không tồn tại một cách thần bí mà nó luôn được bộc lộ ra thành các sv, ht cụ thể
và các sv, ht cụ thể đó có thể tác động vào các giác quan của con người và con người có thể nhận thức
được các thuộc tính của các sự vật và đồng thời cũng nhận thức được VC “ Thực tại khách quan đem
lại cho con người trong cảm giác”.
Kn: Ý thức là sự phản ánh HTKQ vào trong bộ óc con người một cách năng động, sáng tạo; ý
thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
● MQH giữa VC và ý thức.
* Tính quy định của VC:
- Điều kiện VC ( CSVC, quy luật khách quan) là điểm xuất phát, là cơ sở cho sự nảy sinh và
phát triển của ý thức, nội dung phản ánh của ý thức.
- Điều kiện VC là nguồn gốc nảy sinh ra các phương pháp nhận thức và phương pháp hoạt
động thực tiễn để tác động có hiệu quả, làm biến đổi, cải tạo thế giới khách quan theo mục đích và
bản tính của con người.
- Điều kiện VC là nguồn gốc làm xuất hiện các công cụ và phương tiện ngày càng tinh xảo
hơn. Những công cụ này đã nhân sức mạnh, nối dài các giác quan của con người trong việc làm chủ
và chinh phục thế giới.
- Điều kiện VC là nơi kiểm nghiệm sự đúng, sai mỗi kết quả nhận thức, cũng như hoạt động
thực tiễn của con người.
* Tính năng động, sáng tạo của ý thức:
VC và ý thức có mqh hai chiều trong đó VC quy định ý thức xét về mặt thế giới quan ( bản thể

luận) còn ý thức tác động trở lại là do tính năng động, sáng tạo của ý thức và tính chất này được thể
hiện:

13


-Trong mọi hoàn cảnh ý thức luôn luôn muốn giành quyền làm chủ, nghĩa là muốn thúc đẩy,
định hướng cho con người trong nhận thức, và hoạt động thực tiễn để biến “vật tự nó” thành “vật cho
ta”
-Trong quá trình này con người vừa là sản phẩm của hoàn cảnh, vừa sáng tạo ra hoàn cảnh và
làm chủ hoàn cảnh do mình sáng tạo ra.
- Trong những điều kiện nhất định một bộ phận của ý thức nào đó có thể kìm hãm sự biến đổi
của hoàn cảnh hoặc bảo thủ hơn hoàn cảnh hoặc vượt trước hoàn cảnh tuỳ theo tính chất khoa học
hay phản khoa học của bộ phận ý thức đó thông qua hoạt động thực tiễn.
- Song dù tính năng động của ý thức có cao đến đâu cũng không thể bất chấp quy luật khách
quan. Toàn bộ tính năng động của ý thức chỉ là sự nhận thức đúng và vận dụng sáng tạo những quy
luật khách quan của chính thế giới vật chất để “nhào nặn” vật chất theo ý muốn chủ quan và theo quy
luật khách quan.
Do đó, mqh giữa vật chất và ý thức là mqh biện chứng. nếu tuyệt đối hoá mặt nào đều dẫn đến
sai lầm hoặc là rơi vào CNDV thô thiển, tầm thường, siêu hình( nếu quá đề cao VC) hoặc là rơi vào
CNDT ( nếu quá đề cao ý thức)
● Nội dung quan điểm khách quan
* Về mặt nhận thức:
- Từ tính quyết định của VC đối với ý thức đòi hỏi:
+ Phải tôn trọng thế giới khách quan, xây dựng cho mình quan điểm khách quan khi nhìn nhận,
xem xét sự vật, hiện tượng. Mục tiêu, phương thức hoạt động của con người đều phải xuất phát từ
những điều kiện, hoàn cảnh thực tế, đặc biệt là của điều kiện vật chất, kinh tế; tuân theo, xuất phát,
tôn trọng các quy luật khách quan (vốn có) của sự vật, hiện tượng; cần tìm nguyên nhân của các sự
vật, hiện tượng ở trong những điều kiện vật chất khách quan của chúng; muốn cải tạo sự vật, hiện
tượng phải xuất phát từ bản thân sự vật, hiện tượng được cải tạo.

Phải thấy được ảnh hưởng của cái chủ quan, từ đó có cách phòng ngừa những ảnh hưởng chủ
quan tác động đến quá trình nhận thức. Chống tư tưởng chủ quan duy ý chí, nôn nóng, thiếu kiên
nhẫn mà biểu hiện của nó là tuyệt đối hoá vai trò, tác dụng của nhân tố con người; cho rằng con
người có thể làm được tất cả những gì muốn mà không chú ý đến sự tác động của các quy luật khách
quan, của các điều kiện vật chất cần thiết. Phải sử dụng các nguyên tắc phương pháp luận khác:
nguyên tắc toàn diện, phát triển, cụ thể….. nhằm khách quan hoá quá trình xây dựng của mình.
+ Phải tôn trọng điều kiện khách quan, quy luật khách quan: Phải nhận thức được những điều
kiện khách quan, quy luật khách quan.
14


Đường lối, chính sách phải căn cứ vào những điều kiện khách quan: cơ sở vật chất, thời gian
vật chất, quan hệ vật chất… trình độ dân trí, niềm tin, ý thức pháp luật, truyền thống….
Phương pháp, cách thức tổ chức hoạt động phải phù hợp với quy luật : khi điều kiện khách quan
biến đổi phải nhanh chóng có sự đổi mới về mục đích hoạt động, về quá trình nhận thức hoạt động.
Phải chống chủ nghĩa chủ quan:
-

Chủ nghĩa chủ quan: là cách nhận thức và hoạt động mà chỉ căn cứ vào mong muốn của
chủ thể, quan niệm của chủ thể, ý chí của chủ thể mà coi thường điều kiện khách quan, quy
luật khách quan.

-

Biểu hiện của chủ nghĩa chủ quan:

+ Về nhận thức: đánh giá, xem xét thế giới khách quan một cách chủ quan.
+ Xây dựng đường lối, chính sách một cách chủ quan, duy ý chí
+ Lấy ý chí thay cho quy luật khách quan: thực hiện những hoạt động thực tiễn bất chấp quy
luật kq, quan hệ kq.

-

Nguyên nhân của chủ nghĩa chủ quan:

+ Sự yếu kém về kinh tế- xã hội, nhiều tàn dư của xã hội phong kiến còn để lại.
+ Trình độ dân trí thấp, trình độ lý luận của đảng còn hạn chế.
+ Tính nôn nóng, nhiệt tình muốn đốt cháy giai đoạn.
+ Tác động chủ quancủa lợi ích, tình cảm, quan niệm
+ Mâu thuẫn dựa nhận thức và sáng tạo, sáng tạo không dựa trên điều kiện khách quan dẫn đến
duy ý chí.
-

Từ tác động trở lại của ý thức phải phát huy tính năng động, chủ quan:

Phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức là nhấn mạnh tính độc lập tương đối, tính tích cực và
năng động của ý thức đối với vật chất bằng việc tăng cường rèn luyện, bồi dưỡng tư tưởng, ý chí
phấn đấu vươn lên, tu dưỡng đạo đức v.v nhằm xây dựng đời sống tinh thần lành mạnh. Chống thái
độ thụ động, trông chờ, ỷ lại vào hoàn cảnh khách quan dễ rơi vào chủ nghĩa duy vật siêu hình, chủ
nghĩa duy vật tầm thường; tuyệt đối hóa vật chất; coi thường tư tưởng, tri thức rơi vào thực dụng
hưởng thụ v.v.
+ Nâng cao dân trí, phát huy vai trò của khoa học- kỹ thuật.
+ Nâng cao trình độ lý luận của đảng
+ nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, cổ động
+ chú ý đến động lực tinh thần của người dân, niềm tin của dân với đảng, chú ý đời sống vật
chất, tinh thần của dân, phát huy phương thức quản lý bằng tâm lý.
15


+ Chú ý các hiện tượng tâm lý xã hội: dư luận xh, tâm trạng xh, cảm xúc xh.
+ Chú ý đấu tranh chống những luận điệu, những tư tưởng phản động, loại bỏ dần những yếu tố

tiêu cực của xã hội cũ, những phong tục, tập quán.
● Liên hệ thực tiễn:
Như vậy, vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng với nhau và mối liên hệ đó tuân theo
các quy luật khách quan vốn có của nó. Nếu trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, chúng ta tuyệt
đối hóa, cường điệu hóa vai trò của một trong hai mặt thì sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển
của xã hội và rơi vào bệnh chủ quan duy ý chí hoặc bệnh bảo thủ trì trệ.
Bệnh bảo thủ trì trệ là khuynh hướng sai lầm cực đoan do cường điệu hóa vai trò của vật
chất, sùng bái sức mạnh của quy luật, hạ thấp vai trò của nhân tố chủ quan. Khuynh hướng bảo thủ sẽ
dẫn đến tình trạng ỷ lại, chậm đổi mới, ngại thay đổi, dựa dẫm, chờ đợi, thậm chí cản trở cái mới,
bằng lòng thỏa mãn với cái đã có. Trên thực tế, bệnh bảo thủ còn biểu hiện qua những định kiến.
Bệnh chủ quan duy ý chí cũng là 1 khuynh hướng sai lầm, ngược lại với bệnh bảo thủ trì trệ,
nó thổi phồng, tuyệt đối hóa vai trò của nhân tố chủ quan quá đề cao, cường điệu tính sáng tạo của ý
thức, của ý chí, xa rời hiện thực khách quan, bất chấp quy luật khách quan, điều kiện khách quan, lấy
nhiệt tình cách mạng thay thế cho sự yếu kém về trí thức khoa học. Sai lầm của bệnh chủ quan duy ý
chí là lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan. Sai lầm đó thể
hiện rõ trong khi định ra chủ trương chính sách và lựa chọn phương pháp tổ chức hoạt động thực tiễn
theo hướng áp đặt ý chí vào thực tế, lấy ảo tưởng chủ quan thay cho hiện thực.
Bệnh chủ quan duy ý chí và bệnh bảo thủ trì trệ là một thực tế tồn tại trong thời kỳ khá dài
trước đổi mới (trước Đại hội lần VI tháng 12-1986). Trong giai đoạn này, tình trạng khủng hoảng
kinh tế xã hội ngày càng trầm trọng xuất phát từ nguyên nhân chủ quan, bắt nguồn từ những sai lầm
nghiêm trọng và kéo dài mà trong đó sai lầm do chủ quan duy ý chí và bảo thủ có tác hại rất lớn.
Đánh giá về những sai lầm do chủ quan duy ý chí của Đảng trong thời kỳ này, Văn kiện Đại
hội VI đã nêu “Do chưa nhận thức đầy đủ rằng thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình
lịch sử tương đối dài, phải trãi qua nhiều chặng đường và do tư tưởng chỉ đạo chủ quan, nóng vội
muốn bỏ qua những bước đi cần thiết”. Văn kiện Đại hội lần thứ VI cũng đã chỉ rõ Đảng đã “nóng
vội chạy theo nguyện vọng chủ quan”, “giản đơn hóa, muốn thực hiện nhiều mục tiêu của CNXH
trong điều kiện nước ta mới có chặng đường đầu tiên”. Do chủ quan duy ý chí, trong nhận thức và
hành động của Đảng trong giai đoạn này vi phạm các quy luật khách quan, biểu hiện qua một số lĩnh
16



vực cụ thể được Văn kiện ĐH Đảng lần VI đánh giá như sau : “chưa thật sự thừa nhận cơ cấu kinh tế
nhiều thành phần ở nước ta tồn tại trong một thời gian tương đối dài” nên “đã có những biểu hiện
nóng vội muốn xóa bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa”, “chưa nắm vững và vận
dụng đúng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ SX với tính chất và trình độ SX” nên “có lúc đẩy
mạnh quá mức việc xây dựng công nghiệp nặng mà không chú ý phát triển công nghiệp nhẹ” hoặc
“đẩy mạnh công nghiệp hóa trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết”. Bênh bảo thủ trì trệ được
biểu hiện qua việc “chậm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đã lỗi thời”, trong công tác tổ chức thời kỳ
này “khuyết điểm lớn nhất là sự trì trệ, chậm đổi mới công tác cán bộ. Việc lựa chọn, bố trí cán bộ
vào các cơ quan lãnh đạo và quản lý các cấp còn theo quan niệm cũ kỹ và tiêu chuẩn không đúng
đắn, mang nặng tính hình thức..” Ngoài ra, cũng do chủ quan duy ý chí và bảo thủ trì trệ nên trong
kinh tế, Đảng ta đã “duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu bao cấp” - một cơ chế
"gắn liền với tư duy kinh tế dựa trên những quan niệm giản đơn về chủ nghĩa xã hội, mang nặng tính
chất chủ quan, duy ý chí", “có nhiều chủ trương sai trong việc cải cách giá cả, tiền lương, tiền tệ “
cùng với “việc bố trí cơ cấu kinh tế trước hết là SX và đầu tư thường chỉ xuất phát từ lòng mong
muốn đi nhanh, không tính đến điều kiện khả năng thực tế ”, bỏ qua không thừa nhận và vận dụng
những quy luật khách quan của phương thức sản xuất, của nền kinh tế hàng hóa ... vào việc chế định
các chủ trương chính sách kinh tế do định kiến cho rằng những quy luật này là chủ nghĩa tư bản,
không được áp dụng vào chủ nghĩa xã hội … dẫn đến việc SX chậm phát triển, khủng hoảng kinh tế
trên mâu thuẩn giữa cung và cấu ngày càng gay gắt do việc áp dụng những chính sách, chủ trương
trên đã vi phạm những quy luật khách quan của nền kinh tế SX hàng hóa (quy luật cung cầu quy luật
giá trị, quy luật cạnh tranh, phá sản …).
Bệnh chủ quan duy ý chí và bệnh bảo thủ trì trệ có nguyên nhân từ sự yếu kém lạc hậu về
tư duy lý luận, trí thức lý luận không đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Sự giản đơn yếu kém về lý
luận thể hiện ở chổ : hiểu và vận dụng chưa đúng nguyên lý, quy luật, phạm trù, chưa chú ý tiếp thu
kế thừa những thành tựu, kỹ thuật công nghệ mới của chủ nghĩa tư bản, của nhân loại, thậm chí còn
có định kiến phủ nhận một cách cực đoan những thành tựu đó, chưa chú ý tổng kết những cái mới từ
sự vận động, phát triển của thực tiễn theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thì nguyên nhân của bệnh chủ quan
là kém lý luận, lý luận và lý luật suông. Bệnh chủ quan duy ý chí, bảo thủ còn do nguồn gốc lịch sử,
xã hội, giai cấp, tâm lý của con người chi phối. Những nguyên nhân khách quan ấy có thể kế như : do

xuất phát điểm của nước ta quá thấp, nền SX nhỏ với trình độ SX lạc hậu, do hậu quả của chiến tranh
kéo dài ảnh hưởng rất lớn đến không chỉ đến tốc độ phát triển kinh tế - xã hội mà còn làm cho đội
17


ngũ cán bộ - đảng viên không có điều kiện để học tập nên trình độ KH công nghệ, tri thức không đáp
ứng đầy đủ những yêu cầu của sự nghiệp cách mạng, cơ chế quan liêu bao cấp, bệnh quan liêu ảo
tưởng, “kiêu ngạo cộng sản… cũng tạo điều kiện cho sự ra đời của căn bệnh chủ quan duy ý chí.
Trên cơ sở quán triệt mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, rút kinh nghiệm từ
những sai lầm do chủ quan duy ý chí, từ Đại hội VI của Đảng (1986) Đảng đã chỉ rõ bài học kinh
nghiệm và đề ra phương hướng, biện pháp khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí và bệnh bảo thủ, trì
trệ nhằm từng bước sửa chữa những sai lầm. Những phương hướng biện pháp đó là :
Một là phải tiến hành đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để với những hình thức, bước đi,
cách làm phù hợp, trong đó lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm mà trước hết là đổi mới tư duy kinh tế,
nâng cao năng lực nhận thức và vận dụng quy luật, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của Đảng viên.
Đây là cuộc cách mạng triệt để, sâu sắc và đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội (kinh
tế, chính trị, văn hóa, xã hội…), từ đổi mới quan niệm, tư duy lý luận đến đổi mới cơ chế chính sách,
tổ chức cán bộ, phong cách và lề lối làm việc. Để đảm bảo sự lãnh đạo thành công trong công cuộc
đổi mới này thì Văn kiện Đại hội Đảng lần đã xác định : “Đảng phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn
trọng và hành động theo quy luật là điều kiện đảm bảo sự dẫn đầu của Đảng. Năng lực nhận thức
theo quy luật là điều kiện đảm bảo sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng” . Trên cơ sở hiểu rõ mối quan
hệ biện chứng giữa kinh tế và tìhn hình chính trị và ổn định xã hội, Đảng ta bắt đầu công cuộc đổi
mới từ đổi mới về tập trung trước hết vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đổi mới kinh tế, khắc
phục khủng hoảng KT-XH, tạo tiền đề cần thiết về vật chất và tinh thần để giữ vững ổn định chính trị,
xây dựng và củng cố niềm tin của nhân dân, tạo thuận lợi để đổi mới các mặt khác của đời sống XH.
Bên cạnh đó, với quan điểm tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, trong các chủ trương,
chính sách kinh tế từ sau Đại hội Đảng lần VI đến nay đã có nhiều chuyển biến tích cực. Cụ thể như :
Đại hội VI xác định xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa là một công việc to lớn, không
thể làm xong trong một thời gian ngắn, không thể nóng vội làm trái quy luật. Văn kiện Đại hội xác
định: "Nay phải sửa lại cho đúng như sau: Đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ thường

xuyên, liên tục trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, với những hình thức và bước đi thích
hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, luôn có tác
dụng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất". Đại hội cũng phát hiện một vấn đề lớn có tính lý
luận, hoàn toàn mới mẻ: "Kinh nghiệm thực tiễn chỉ rõ: lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ
trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, có
những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất". Trên cơ sở đó, Đại hội xác
18


định: "Nền kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ".Trong cơ cấu sản xuất và
cơ cấu đầu tư, tôn trọng nguyên tắc quan hệ SX phải phù hợp với lực lượng SX, Đại hội VI đã xác
định phải điều chỉnh lại các cơ cấu này theo hướng "không bố trí xây dựng công nghiệp nặng vượt
quá điều kiện và khả năng thực tế", tập trung sức người, sức của vào việc thực hiện ba chương trình
mục tiêu: sản xuất lương thực- thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng và sản xuất hàng xuất khẩu. Đây
là những chương trình chẳng những đáp ứng được nhu cầu bức xúc nhất lúc bấy giờ mà còn là điều
kiện thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hóa, là cái gốc tạo ra sản phẩm hàng hóa
Hai là đồng thời với việc đổi mới toàn diện về kinh tế và tư duy lý luận, việc tăng cường phát
huy dân chủ, phát huy tiềm năng cán bộ KHKT, đội ngũ cán bộ quản lý nhằm đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp CNH-HĐH đất nước “nâng cao hàm lượng tri thức trong các nhân tố phát triển KTXH, từng
bước phát triển kinh tế tri thức”. Đây là biện pháp nhằm khắc phục nguyên nhân sâu xa của bệnh chủ
quan duy ý chí và bệnh bảo thủ là sự yếu kém về lý luận, lạc hậu về trình độ, tri thức KH công nghệ.
Văn kiện ĐH Đảng lần VIII đã nhấn mạnh : “phải lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố
cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”
Ba là tăng cường công tác tổng kết thực tiễn, tổng kết cái mới, không ngừng bổ sung, phát
triển, hoàn chỉnh lý luận về mô hình, mục tiêu, bước đi, đổi mới và kiện toàn tổ chức và phương thức
hoạt động của hệ thống chính trị trong điều kiện mới, căn cứ vào sự vận động của thực tiễn, của cuộc
sống để kịp thời loại bỏ những hiểu biết lỗi thời, lạc hậu.
Bốn là phải đổi mới và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới , trong đó, VK
ĐH Đảng lần VII đã chỉ rõ : “ Đảng làm giàu trí tuệ của mình bằng cách không ngừng nâng cao trình
độ lý luận, nắm vững và vận dụng sáng tạo những luận điểm cơ bản của CN Mác Lênin và tư tưởng

Hồ Chí Minh… không ngừng tổng kế kinh nghiệm thực tiễn …phát triển công tác lý luận của Đảng
…tiếp thu những thành quả trí tuệ của con người.
Nhờ vận dụng đúng đắn các quy luật thông qua các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà
nước ta, đời sống vật chất tinh thần của nhân dân từng bước được ổn định và nâng cao, chế độ XHCN
ngày càng củng cố và đất nước đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội và đang có những bước
chuyển biến tích cực trong tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội.
Tóm lại, từ những phân tích trên cho thắng lợi của công cuộc đổi mới có được là dựa trên một
nền tảng tư tưởng đúng, đó là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh mà trong đó sự quán
triệt và vận dụng đúng quy luật, nguyên tắc khách quan là điều kiện đảm bảo sự dẫn dắt đúng đắn của
Đảng.
19


CÂU 4: QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN
1.1.

Cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện ( Trình bày nguyên lý về mối liên hệ phổ biến)

* Quan điểm duy tâm và siêu hình về mối liên hệ
- CNDT và Tôn giáo cũng nói về liên hệ, nhưng theo họ cơ sở của mối liên hệ là ý niệm, một
nguyên nhân tinh thần hoặc do sự định sẵn của 1 đấng tối cao là Chúa trời hay Thượng đế.
- Quan điểm siêu hình thì phủ nhận mối liên hệ: mỗi sự vật hiện tượng trong thế giới đề tồn tại
cô lập, tác rời nhau, không có sự liên hệ buộc nhau, không phụ thuộc vào nhau.
* Quan điểm duy vật biện chứng
- Đối lập với quan điểm duy tâm siêu hình, phép biện chúng khẳng định: mọi sự vật, hiện tượng
muôn hình, muôn vẻ trong thế giới vật chất liên hệ với nhau chằng chịt, giữa chúng luôn phụ nhau,
tác động, chuyển hóa lẫn nhau. Sự tồn tại hay mất đi của khách thể này phụ thuộc vào sự tồn tại hay
mất đi của khách thể kia, không có sự vật, hiện tượng nào tồn tại độc lập riêng rẽ mà không chịu sự
chi phối của sự vật hiện tượng khác.
- Tính chất của mối liên hệ:

+ Tính khách quan: mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng trong thế giới là mang tính khách
quan. Sự quy định, tác động và chuyển hóa lẫn nhau của các sự vật, hiện tượng ( hay trong bản thân
chúng) là cái vốn có, tồn tại độc lập không phụ thuộc vào ý chí của con người. Con người chỉ có thể
nhận thức và vận dụng mỗi liên hệ trong hoạt động thực tiễn của mình.
+ Tính phổ biến: mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng trong thế giới là phổ biến, tồn tại ở mọi
lĩnh vực trong tự nhiên, xã hội và tư duy
VD: Trong xã hội nó tạo thành các quan hệ xã hội như: giai cấp, đạo đức, chính trị, kinh tế...
Trong tư duy là mỗi liên hệ giữa các hình thức của tư duy như: khái niệm, phán đoán, suy lý...> đều là sự phản ánh mối liên hệ phổ biến và sự phụ thuộc lẫn nhau của thế giới.
+ Tính đa dạng, phong phú: Thế giới vật chất tồn tại bởi muôn vàn các sự vật hiện tượng khác
nhau, do đó mối liên hệ cũng đa dạng, phong phú. Có thể phân chia thành nhiều loại liên hệ khác
nhau tùy theo tính chất và đặc điểm của chúng:
 Mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng
 Liên hệ giữa các mặt, các thuộc tính trong cùng một sự vật, hiện tượng
 Liên hệ chung tác động vào lĩnh vực chung rộng lớn của thế giới
20


 Liên hệ riêng chỉ tác động trong từng lĩnh vực cụ thể, liên hệ qua khâu trung gian, liên hệ
trực tiếp, liên hệ cơ bản hay không cơ bản, chủ yếu hay thứ yếu
Tuy nhiên sự phân chia chỉ mang tính tương đối.
1.2. Nội dung quan điểm toàn diện (nguyên tắc toàn diện)
- Trong nhân thức:
+ Phải xem xét tất cả các yếu tố, bộ phận của sự vật, hiện tượng, biết phân loại các yếu tố đó.
Phải thấy được tất cả các mối quan hệ và phân loại được các mỗi quan hệ ấy. Phải thấy được các
nguyên nhân tác động và phân loại các nguyên nhân ấy -> Dự báo được hiệu quả của một tác động
nào đó.
+ Phải tìm được các khả năng phát triển của sự vật và lựa chọn được khả năng tối ưu cho sự
phát triển đó. Phải xem xét sự vật trong hoàn cảnh khác nhau.
-


Trong thực tiễn:

+ Phải biết sử dụng sức mạnh tổng hợp
+ Khi giải quyết các vẫn đề nảy sinh trong thực tiễn phải giải quyết các nguyên nhân để hình
thành sự vật đó
-

Tránh:

+ Phiến diện (một mặt, môt chiều).
+ Chủ nghĩa chiết trung, kết hợp vô nguyên tắc các mỗi liên hệ
+ Sai lầm của thuật ngụy biện, coi cái cơ bản thành cái không cơ bản, không bản chất thành
bản chất hoặc ngược lại, dẫn đến sự nhận thức sai lệch, xuyên tạc bản chất sự vật, hiện tượng
1.3. Liên hệ với Việt Nam
- Trong mỗi giai đoạn lịch sử đều cần thực hiện và vận dụng quan điểm toàn diện để có cách
nhìn, cách vận dụng đúng đắn.
- Trong giai đoạn cách mạng dân tộc, dân chủ, trên cơ sở phân tích quan điểm toàn diện về xã hội
Việt Nam là thuộc địa thực dân nửa phong kiến, phân tích những mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt
Nam lúc đó. Từ đó mà đưa ra những quyết định đúng đắn, đưa cách mạng đến thắng lợi...
- Trong giai đoạn hiện nay, khi nước ta tiến hành công cuộc đổi mới, thì việc vận dụng quan điểm
toàn diện lại càng có ý nghĩa hơn bao giờ hết. Phải dựa trên quan điểm toàn diện để có thể phân tích
đánh giá về thực trạng của đất nước, về tình hình phát triển và dự báo về xu thế phát triển...

21


CÂU 5: QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN
Cơ sở lý luận của quan điểm phát triển là nội dung nguyên lý về sự phát triển của phép biện
chúng duy vật.
Nguyên lý về sự phát triển:

Xem xét về sự phát triển cũng có những quan điểm khác nhau, đối lập với nhau, quan điểm
siêu hình và quan điểm biện chứng .
Quan điểm siêu hình xem xét sự phát triển chỉ là sự tăng lên hay giảm đi đơn thuần về mặt
lượng, không có sự thay đổi về chất của sự vật, không có cái mới ra đời thay thế cái cũ, sự phát triển
như là một quá trình tiến lên liên tục, bằng phẳng, không quanh co, không phức tạp.
Quan điểm biện chứng xem xét sự phát triển là một quá trình tiến lên từ thấp đến cao. Quá
trình đó diễn ra vừa dần dần vừa nhảy vọt, đưa tới sự ra đời của cái mới thay thế cái cũ. Dù trong hiện
thực khách quan hay trong tư duy, sự phát triển diễn ra không phải lúc nào cũng theo đường thẳng mà
rất quanh co, phức tạp, thậm chí có thể có những bước lùi tạm thời.
Sự phát triển là kết quả của quá trình thay đổi dần dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất, là
quá trình diễn ra theo đường xoáy ốc, làm cho cái mới ra đời thay thế cái cũ.
Trên cơ sở khái quát sự phát triển của mọi sự vật, hiện tượng tồn tại trong hiện thực, quan
điểm duy vật biện chứng khẳng định: Sự phát triển là một phạm trù triết học dùng để chỉ quá trình
vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn
của sự vật.
Như vậy, nội dung của nguyên lý phát triển là:
- Phát triển là quá trình tiến lên từ thấp đến cao vừa diễn ra dần dần vừa nhảy vọt đưa đến sự ra
đời của cái mới thay thế cái cũ.
- Nguồn gốc của sự phát triển nằm trong bản thân sự vật đó là do mâu thuẫn trong bản sự vật
quy định.
- Sự phát triển là kết quả của quá trình thay đổi dần dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất là
quá trình diễn ra theo con đường xoáy ốc.
- Phát triển là sự vận động thay đổi về chất, chất mới ra đời cao hơn chất cũ, phát triển có xu
hướng từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện. Sự phát triển
không phải lúc nào cũng theo đường thẳng mà quanh co thậm chí có bước thụt lùi tạm thời.

22


Phát triển là một trường hợp đặc biệt của sự vận động. Vận động là bao hàm mọi sự biến đổi nói

chung. Có sự biến đổi dẫn đến tan rã, phá hủy sự vật, gọi là vận động thụt lùi. Có sự biến đổi theo
chiều hướng tiến lên làm cho cái mới ra đời thay thế cái cũ, đó là phát triển.
Tính chất của sự phát triển:
- Tính khách quan: nghĩa là nguồn gốc phát triển nằm ngay trong bản thân sự vật, đó là do sự
đấu tranh của các mặt đối lập trong bản thân sự vật. Điều đó hoàn toàn không phụ thuộc vào ý thức
con người hay một lực lượng thần bí nào.
- Tính phổ biến: nghĩa là mọi sự vật, hiện tượng và tự nhiên, xã hội và tư duy con người đều
nằm trong khuynh hướng phát triển. Song cần chú ý là: xét về mặt logic: phát triển là khuynh hướng
của mọi sự vật, hiện tượng, còn nếu xét phát triển như là một quá trình thì trong quá trình đó còn bao
hàm cả sự vận động thụt lùi, tức là sự phát triển không diễn ra theo đường thẳng mà quanh co, phức
tạp, nhất là trong xã hội.
- Tính đa dạng: phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự vật, hiện tượng, song mỗi sự vật,
hiện tượng lại quá trình phát triển không giống nhau. Tồn tại ở không gian khác nhau, ở thời gian
khác nhau, sự vật phát triển sẽ khác nhau. Đồng thời trogn quá trình phát triển của mình, sự vật còn
chịu tác động của sự vật khác, hiện tượng khác, của rất nhiều yếu tố, điều kiện. Sự tác động đó có thể
thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của sự vật, đôi khi có thể làm thay đổi chiều hướng phát triển
của sự vật.
Nội dung của quan điểm phát triển:
* Trong nhận thức:
- Khi xem xét sự vật, hiện tượng phải đặt nó trong sự vận động, biến đổi, chuyển hóa để không
chỉ nhận thức sự vật, hiện tượng trong trạng thái hiện tại, mà còn phải thấy được khuynh hướng phát
triển của nó trong tương lai, tránh con mắt cố định khi nhìn nhận, xem xét sự vật.
- Phải nhận thức sự phát triển là quá trình trải qua nhiều giai đoạn, từ thâp đến cao, từ đơn giản
đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Mỗi giai đoạn phát triển lại có những đặc điểm,
tính chất, hình thức khác nhau, bởi vậy phải có sự phân tích cụ thể để tìm ra những hình thức tác
động phù hợp hoặc để thúc đẩy, hoặc để hạn chế sự phát triển đó.
- Phải tìm ra được những nguyên nhân làm sự vật phát triển, từ đó dự báo, dự đoán sự phát
triển của sự vật, có phương hướng ứng sử thích hợp.
- Khi dự kiến sự phát triển phải chú ý đến phải chú ý đến những tác động tất nhiên và ngẫu
nhiên của sự phát triển của sự vật và đường lối, phương hướng phải dựa vào cái tất nhiên, nhưng đề

phòng cái ngẫu nhiên.
23


* Trong thực tiễn:
- Hoạt động tuân theo thực tiễn, tạo điều kiện từng bước cho sự vật phát triển. Trong thực tiễn,
chống tư tưởng nóng vội, nôn nóng, chủ quan, sự cản trở sự phát triển của sự vật.
- Trong hoạt động thực tiễn, sự phát triển của sự vật tuân theo quy luật, vì vậy, phải sử dụng
các phương pháp khoa học, sử dụng cách thức tổ chức hoạt động một cách khoa học
- Phải phân định được các giai đoạn phát triển, từ đó xác định được các mục tiêu một cách phù
hợp.
- Phải nhạy cảm với cái mới, sớm phát hiện ra cái mới, ủng hộ cái mới hợp quy luật, tạo điều
kiện cho cái mới đó phát triển thay thế cái cũ, phải chống lại quan điểm trì trệ, bảo thủ…. Trong quá
trình thay thế cái cũ phải biết kế thừa những yếu tố tích cực của các sự vật, hiện tượng trước đó,
chống phủ định sạch trơn.
- Phát hiện và giải quyết các mâu thuẫn một cách phù hợp
Vận dụng vào thực tiễn Việt Nam:
Vận dụng quy luật phát triển vào việc nhận thức về con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta có ý nghĩa đăc biệt quan trọng. Trên cơ sơ phân tích xu hướng phát triển cảu thời đại và điều
kiện cụ thể của nước ta, Đảng ta luôn kiên định con đường đi lệ chủ nghĩa xã hội với mục tiêu: “dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội với một
nền kinh tế nông nghiệp, phổ biến là nền sản xuất nhỏ, tụt hậu quá xa so với các nước trên thế giới, vì
vậy phải đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển kinh tế, Đảng ta
uôn chú ý đến vấn đề xã hội, từng bước giải quyết vấn đề xã hội, đồng thời bảo vệ môi trường nhằm
đảm bảo phát triển bền vững.
Trong suốt thời kỳ quá độ, cũng như từng giai đoạn phát triển của đất nước, Đangt ta luôn chú
ý phát hiện ra các mâu thuẫn và tìm ra phương hướng giải quyết các mâu thuẫn để phát triển đất
nước. Thời kỳ quá độ là thời kỳ đấu tranh phức tạp của dân tộc ta với các thế lực thù địch, là thời kỳ
đấu tranh giữa cái mới và cái cũ và cái mới sẽ từng bước chiến thắng cái cũ. Đảng ta cũng xác định
động lực phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Về nội lực, là đại đoàn kết

toàn dân, trên cơ sở liên minh giữa công nhân, nông dân và đội ngũ tri thức do Đảng ta lãnh đạo; là
kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội; phát huy mọi tiền năng và các nguồn lực của
các thành phần kinh tế. Về ngoại lực, là sức mạnh của thời đại, sức mạnh đoàn kết quốc tế. trong đó,
nội lực là quyết định, ngoại lực là quan trọng, gắn kết với nhau thành sức mạnh tổng hợp để phát triển
đất nước.
24


CÂU 6: QUAN ĐIỂM LỊCH SỬ - CỤ THỂ:
Quan điểm lịch sử cụ thể là một quan điểm được rút ra từ nguyên lý mối liên hệ phổ biến
* Quan điểm duy tâm và siêu hình về mối liên hệ
- CNDT và Tôn giáo cũng nói về liên hệ, nhưng theo họ cơ sở của mối liên hệ là ý niệm, một
nguyên nhân tinh thần hoặc do sự định sẵn của 1 đấng tối cao là Chúa trời hay Thượng đế.
- Quan điểm siêu hình thì phủ nhận mối liên hệ: mỗi sự vật hiện tượng trong thế giới đề tồn tại
cô lập, tác rời nhau, không có sự liên hệ buộc nhau, không phụ thuộc vào nhau.
* Quan điểm duy vật biện chứng
- Đối lập với quan điểm duy tâm siêu hình, phép biện chúng khẳng định: mọi sự vật, hiện tượng
muôn hình, muôn vẻ trong thế giới vật chất liên hệ với nhau chằng chịt, giữa chúng luôn phụ nhau,
tác động, chuyển hóa lẫn nhau. Sự tồn tại hay mất đi của khách thể này phụ thuộc vào sự tồn tại hay
mất đi của khách thể kia, không có sự vật, hiện tượng nào tồn tại độc lập riêng rẽ mà không chịu sự
chi phối của sự vật hiện tượng khác.
- Tính chất của mối liên hệ:
+ Tính khách quan: mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng trong thế giới là mang tính khách
quan. Sự quy định, tác động và chuyển hóa lẫn nhau của các sự vật, hiện tượng ( hay trong bản thân
chúng) là cái vốn có, tồn tại độc lập không phụ thuộc vào ý chí của con người. Con người chỉ có thể
nhận thức và vận dụng mỗi liên hệ trong hoạt động thực tiễn của mình.
+ Tính phổ biến: mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng trong thế giới là phổ biến, tồn tại ở mọi
lĩnh vực trong tự nhiên, xã hội và tư duy
VD: Trong xã hội nó tạo thành các quan hệ xã hội như: giai cấp, đạo đức, chính trị, kinh tế...
Trong tư duy là mỗi liên hệ giữa các hình thức của tư duy như: khái niệm, phán đoán, suy lý...> đều là sự phản ánh mối liên hệ phổ biến và sự phụ thuộc lẫn nhau của thế giới.

+ Tính đa dạng, phong phú: Thế giới vật chất tồn tại bởi muôn vàn các sự vật hiện tượng khác
nhau, do đó mối liên hệ cũng đa dạng, phong phú. Có thể phân chia thành nhiều loại liên hệ khác
nhau tùy theo tính chất và đặc điểm của chúng:
 Mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng
 Liên hệ giữa các mặt, các thuộc tính trong cùng một sự vật, hiện tượng
 Liên hệ chung tác động vào lĩnh vực chung rộng lớn của thế giới

25


×